Tải bản đầy đủ (.docx) (141 trang)

Những biện pháp quản lý nhằm nâng cao chất lượng các lớp đào tạo bậc đại học theo hình thức liên kết tại trung tâm giáo dục thường xuyên tỉnh bắc giang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.17 MB, 141 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA SƯ PHẠM

ĐÀO THỊ LỢI

NHỮNG BIỆN PHÁP QUẢN LÝ NHẰM NÂNG CAO
CHẤT LƯỢNG CÁC LỚP ĐÀO TẠO BẬC ĐẠI HỌC
THEO HÌNH THỨC LIÊN KẾT TẠI TRUNG TÂM
GIÁO DỤC THƯỜNG XUYÊN TỈNH BẮC GIANG

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ GIÁO DỤC
CHUYÊN NGÀNH: QUẢN LÝ GIÁO DỤC
MÃ SỐ: 60 14 05
Cán bộ hướng dẫn khoa học:

PGS.TS. ĐẶNG XUÂN HẢI

HÀ NỘI - 2006


MỤC LỤC

Lời cảm ơn
Danh mục chữ viết tắt trong luận văn
MỞ ĐẦU
1.

Lý do chọn đề tài

2.


Mục đích nghiên cứu

3.

Nhiệm vụ nghiên cứu

4.

Khách thể và đối tượng nghiên cứu

5.

Giới hạn của đề tài

6. Những luận điểm bảo vệ
7.

Giả thuyết khoa học của đề tài

8.

Ý nghĩa khoa học của đề tài

9.

Phương pháp nghiên cứu

10. Cấu trúc của luận văn
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC QUẢN LÝ CÁC LỚP
ĐÀO TẠO BẬC ĐẠI HỌC THEO HÌNH THỨC LIÊN KẾT

1.1. Vài nét về lịch sử của vấn đề đào tạo liên kết
1.2. Những khái niệm liên quan đến đề tài
1.2.1. Khái niệm về quản lý
1.2.2. Biện pháp quản lý
1.2.3. Chức năng quản lý
1.2.4. Khái niệm về quản lý giáo dục-đào tạo
17
1.2.5. Quản lý chất lượng giáo dục-đào tạo


1.2.6. Giáo dục bậc đại học
1.2.7. Giáo dục thường xuyên
1.3.

Vài nét về xã hội học tập ở nƣớc ta.

1.4.

Xu thế phát triển của giáo dục thƣờng xuyên và đào tạo
33 bậc Đại học theo hình thức liên kết ở nƣớc ta trong thời kỳ

Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nƣớc những thập kỷ đầu
của thế kỷ 21- Vấn đề đa dạng hoá phƣơng thức đào tạo bậc
đại học.

1.4.1 Bối cảnh thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá
1.4.2
Một số xu thế phát triển của giáo dục thường xu
nói chung và đào tạo đại học theo hình thức liên kết nói
riêng ở nước ta trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại

hoá đất nước những thập kỷ đầu của thế kỷ 21.
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ CÁC LỚP ĐÀO TẠO
39

BẬC ĐẠI HỌC THEO HÌNH THỨC LI
TRUNG TÂM GIÁO DỤC THƢỜNG X
2.1. Tình hình kinh tế-xã hội và giáo dục-đào tạo của
tỉnh Bắc Giang.
2.1.1. Vài nét về tình hình kinh tế-xã hội của tỉnh Bắc Giang
2.1.2. Khái quát tình hình giáo dục-đào tạo của tỉnh Bắc Giang
2.2. Thực trạng phát triển GD-ĐT tại trung tâm GDTX
tỉnh Bắc Giang
2.2.1.

Một

số

49
2.2.2.
50
tỉnh Bắc Giang

Thực


2.3. Thực trạng quản lý chất lƣợng đào tạo đại
56
hệ liên kết tại trung tâm GDTX tỉnh Bắc Giang
2.4. Những mặt đƣợc và hạn chế của đào tạo bậc đại học

theo hình thức liên kết ở trung tâm GDTX tỉnh Bắc Giang
2.4.1. Những mặt đã đạt được
2.4.2. Những hạn chế về chất lượng đào tạo hệ liên kết hiện nay
2.4.3. Nguyên nhân
Chƣơng 3: NHỮNG BIỆN PHÁP QUẢN LÝ NHẰM NÂNG CAO
68
CHẤT LƢỢNG CÁC LỚP ĐÀO TẠO BẬC ĐẠI HỌC THEO
HÌNH THỨC LIÊN KẾT TẠI TRUNG TÂM GIÁO DỤC
THƢỜNG XUYÊN TỈNH BẮC GIANG 3.1. Những biện pháp quản lí
nhằm nâng cao chất lƣợng
đào tạo bậc đại học theo hình thức liên kết tại Trung tâm
GDTX tỉnh Bắc Giang.
3.1.1. Tăng cường
68
đối với việc mở các lớp liên kết
3.1.2. Tăng cường
71
các lớp liên kết
3.1.3. Tăng cường
75
dạy học và kiểm tra-đánh giá kết quả học tập của học viên
3.1.4. Thực hiện tư tưởng xã hội hoá giáo dục trong quá trình
triển khai các lớp liên kết
3.2. Thử nghiệm các biện pháp quản lí các lớp đào tạo bậc
đại học theo hình thức liên kết tại Trung tâm giáo dục thƣờng

68


xuyên tỉnh Bắc Giang

3.2.1. Mục đích
3.2.2. Nội dung thử nghiệm
3.3.3. Phương pháp thử nghiệm
3.3.4. Tổ chức thử nghiệm
Kết luận và khuyến nghị
Danh mục các tài liệu tham khảo
Phụ lục


DANH MỤC VIẾ
STT

Chữ viết tắt

1

CLĐT

2

CNTT

3

CNH&HĐH

4




5

ĐH

6

GD

7

GD&ĐT

8

GDTX

9

GDCQ

10

GV

11

HS

12


KHCN

13

KHKT

14

KT- XH

15

QLGD

16

QLĐT

17

THCN

18

THPT

19

THCS


20

XHCN

21

XHHT

22

XHHGD

23

UBND


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong sự phát triển của mỗi quốc gia, con ngƣời luôn luôn đƣợc đánh
giá là nhân tố quan trọng hàng đầu. Để có đƣợc những con ngƣời có phẩm
chất và năng lực đáp ứng yêu cầu của xã hội thì giáo dục có vai trò hết sức to
lớn.
Chính vì thấy rõ vị trí của giáo dục trong tiến trình phát triển mà hội
nghị lần thứ II Ban chấp hành Trung ƣơng khoá VIII đã khẳng định:
"Muốn tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá thắng lợi phải phát triển
mạnh giáo dục và đào tạo, phát huy nguồn lực con ngƣời, yếu tố cơ bản của
sự phát triển nhanh bền vững" [1, tr 19]
Bƣớc vào kỷ nguyên mới, trƣớc những thách thức về sự cạnh tranh của
nền kinh tế toàn cầu hoá, cùng với những biến đổi to lớn trong thế giới ngày

nay chúng ta phấn đấu không bị tụt hậu trong sự phát triển chung, khi tiến
hành đẩy mạnh sự phát triển về giáo dục. Hiện nay chạy đua về phát triển
thực chất là chạy đua về khoa học-công nghệ, mà khoa học-công nghệ đƣợc
quyết định bởi trí tuệ cao - một sản phẩm của nền giáo dục phát triển.
Tuy nhiên để nâng cao mặt bằng dân trí và đào tạo nguồn nhân lực đủ
số lƣợng, hợp lý về cơ cấu không thể chỉ dựa vào phƣơng thức giáo dục
chính qui. Muốn thực hiện mục tiêu của GD&ĐT, nhằm "nâng cao dân trí,
đào tạo nhân lực, bồi dƣỡng nhân tài", thực hiện công bằng giáo dục và "mọi
ngƣời đi học, học thƣờng xuyên, học suốt đời", thì phải "mở rộng các hình
thức học thƣờng xuyên, đặc biệt là hình thức học từ xa ". [1, tr 34]
Mặt khác, bản thân giáo dục thƣờng xuyên đã tự khẳng định vị trí, vai
trò của mình trong hệ thống giáo dục quốc dân. Cụ thể trong Luật giáo dục đã

1


đƣợc Quốc hội Nƣớc cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày
14/06/2005 đã khẳng định: "Hệ thống giáo dục quốc dân gồm giáo dục chính
qui và giáo dục thƣờng xuyên", "giáo dục thƣờng xuyên giúp mọi ngƣời vừa
làm vừa học, học liên tục, học suốt đời nhằm hoàn thiện nhân cách, mở rộng
hiểu biết, nâng cao trình độ học vấn, chuyên môn, nghiệp vụ để cải thiện chất
lƣợng cuộc sống, tìm việc làm, tự tạo việc làm và thích nghi với đời sống xã
hội. Nhà nƣớc có chính sách phát triển giáo dục thƣờng xuyên, thực hiện giáo
dục cho mọi ngƣời, xây dựng xã hội học tập".
Giáo dục thƣờng xuyên đã trở thành một phƣơng thức quan trọng trong
việc thực hiện học tập thƣờng xuyên, suốt đời, giúp mọi thành viên có cơ hội
đƣợc học tập, dễ dàng cập nhật những thông tin về khoa học-công nghệ, đang
từng giờ, từng phút thay đổi.
Trong những năm qua giáo dục thƣờng xuyên đã góp phần đáng kể
trong công cuộc xoá mù chữ, phổ cập giáo dục, từng bƣớc nâng cao mặt bằng

dân trí, nâng tỷ lệ ngƣời lao động đƣợc qua đào tạo cao hơn trƣớc. Đặc biệt
bằng các hình thức liên kết với các trƣờng đại học để đào tạo đại học hệ vừa
học vừa làm, từ xa đã tạo ra một nguồn nhân lực tại chỗ, đƣợc đào tạo theo
địa chỉ, phục vụ nhu cầu cán bộ cho các vùng khó khăn, vùng sâu, vùng xa,
đồng thời nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ quản
lý các ngành nghề đáp ứng yêu cầu công tác trong điều kiện mới.
Bên cạnh những kết quả đạt đƣợc của việc đa dạng hoá hình thức giáo
dục, mở rộng quy mô. Giáo dục thƣờng xuyên tại các trung tâm giáo dục
thƣờng xuyên đã bộc lộ những điểm hạn chế của mình: nặng về số lƣợng đào
tạo, còn lúng túng trong việc quản lý các lớp liên kết đào tạo với các trƣờng
đại học, dẫn tới chất lƣợng đào tạo chƣa đƣợc nâng cao.

2


Là một cán bộ của phòng đào tạo tại Trung tâm giáo dục thƣờng xuyên
tỉnh Bắc Giang, tôi càng thấy cần thiết phải tìm ra những biện pháp quản lý
các lớp liên kết đào tạo bậc Đại học để góp phần nâng cao chất lƣợng đào tạo
của bậc học này ở tỉnh Bắc Giang. Xuất phát từ những lý do trên, tôi chọn đề
tài nghiên cứu: "Những biện pháp quản lý nhằm nâng cao chất lượng các
lớp đào tạo bậc đại học theo hình thức liên kết tại trung tâm giáo dục
thường xuyên tỉnh Bắc Giang " làm đề tài cho luận văn của mình.
2. Mục đích nghiên cứu
Tìm những biện pháp quản lý các lớp đào tạo bậc đại học theo hình
thức liên kết tại Trung tâm giáo dục thƣờng xuyên tỉnh Bắc Giang nhằm nâng
cao chất lƣợng của các lớp này.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
3.1 Nghiên cứu cơ sở lý luận của quản lý quá trình đào tạo các lớp bậc
đại học theo hình thức liên kết và chất lƣợng đào tạo của các lớp này.
3.2 Nghiên cứu thực trạng quản lý các lớp đào tạo bậc đại học theo

hình thức liên kết ở Trung tâm giáo dục thƣờng xuyên tỉnh Bắc Giang.
3.3 Đề xuất các biện pháp quản lý nhằm nâng cao chất lƣợng các lớp
đào tạo bậc đại học theo hình thức liên kết ở Trung tâm giáo dục thƣờng
xuyên tỉnh Bắc Giang.
4.

Khách thể và đối tƣợng

nghiên cứu 4.1. Khách thể
nghiên cứu
Quá trình đào tạo bậc đại học nói chung và đào tạo bậc đại học theo
hình thức liên kết nói riêng.
4.2. Đối tượng nghiên cứu

3


Những biện pháp quản lý các lớp đào tạo bậc đại học theo hình thức
liên kết tại Trung tâm giáo dục thƣờng xuyên tỉnh Bắc Giang.
5. Giới hạn của đề tài
Về không gian: Các lớp đào tạo bậc đại học theo hình thức liên kết tại
Trung tâm giáo dục thƣờng xuyên tỉnh Bắc Giang.
Về thời gian: Nghiên cứu sự quản lý các lớp đào tạo bậc đại học theo
hình thức liên kết tại Trung tâm giáo dục thƣờng xuyên tỉnh Bắc Giang từ
năm 2001-2006.
6. Những luận điểm bảo vệ
Để nâng cao chất lƣợng các lớp đào tạo bậc đại học theo hình thức liên
kết tại Trung tâm giáo dục thƣờng xuyên tỉnh Bắc Giang thì cần phải:
1. Tăng cƣờng công tác dự báo và lấy thông tin phản hồi đối với việc mở
các lớp liên kết.

2.
Tăng cƣờng kế hoạch hoá việc liên kết đào tạo đối với các lớp liên
kết.

3.

Tăng cƣờng sự phối hợp trong việc triển khai kế hoạch dạy học và

kiểm tra-đánh giá kết quả học tập của học viên.
4.

Thực hiện tƣ tƣởng xã hội hoá giáo dục trong quá trình triển khai các

lớp liên kết.
7.

Giả thuyết khoa học của đề tài
Nếu tìm ra và vận dụng tốt những biện pháp quản lý các lớp đào tạo

bậc đại học theo hình thức liên kết thì sẽ nâng cao đƣợc chất lƣợng đào tạo
của các lớp này tại Trung tâm giáo dục thƣờng xuyên tỉnh Bắc Giang, đáp
ứng yêu cầu của sự nghiệp giáo dục tỉnh Bắc Giang trong giai đoạn hiện nay.
8. Ý nghĩa khoa học của đề tài

4


8.1. Về lý luận:
Làm sáng tỏ cơ sở lý luận về việc quản lý các lớp đào tạo bậc đại học
theo hình thức liên kết để nâng cao chất lƣợng của các lớp học này.

8.2. Về thực tiễn
Đề xuất những biện pháp quản lý có tính hiện thực và khả thi góp phần
nâng cao chất lƣợng đào tạo của các lớp đào tạo bậc đại học theo hình thức
liên kết ở tỉnh Bắc Giang và góp phần phổ biến kinh nghiệm quản lý các lớp
đào tạo bậc đại học theo hình thức liên kết cho các địa phƣơng khác.
9. Phƣơng pháp nghiên cứu
Kết hợp các nhóm phƣơng pháp nghiên cứu
9.1 Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận: Sƣu tầm, phân tích các quan
điểm lý luận thể hiện trong các văn kiện của Đảng, nghiên cứu sách báo, tài
liệu có liên quan đến đề tài.
9.2 Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn: Thu thập dữ liệu thực tế, tìm
hiểu thực trạng vấn đề.
Các phƣơng pháp này chủ yếu là đàm thoại, phỏng vấn, trao đổi kinh
nghiệm, phân tích tổng hợp, thử nghiệm, đánh giá từ đó đề xuất các biện pháp
quản lý.
10. Cấu trúc của luận văn
Luận văn gồm: Phần mở đầu, phần nội dung khoa học, phần kết luận và
khuyến nghị, cuối luận văn là danh mục các tài liệu tham khảo, phụ lục.
Phần nội dung khoa học có 3 chƣơng.
Chƣơng 1: Cơ sở lý luận của việc quản lý các lớp đào tạo bậc đại học
theo hình thức liên kết.

5


Chƣơng 2: Thực trạng quản lý các lớp đào tạo bậc đại học theo hình
thức liên kết tại Trung tâm giáo dục thƣờng xuyên tỉnh Bắc Giang.
Chƣơng 3: Những biện pháp quản lý nhằm nâng cao chất lƣợng các
lớp đào tạo bậc đại học theo hình thức liên kết tại Trung tâm giáo dục thƣờng
xuyên tỉnh Bắc Giang.


Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC QUẢN LÝ CÁC LỚP ĐÀO TẠO BẬC
ĐẠI HỌC THEO HÌNH THỨC LIÊN KẾT
1.1.Vài nét về lịch sử của vấn đề đào tạo liên kết
Nền giáo dục Đại học XHCN của nƣớc ta bắt đầu đƣợc xây dựng từ
1956, sau chiến thắng Điện Biên Phủ (1954), Miền Bắc đƣợc giải phóng, đất
nƣớc chuyển sang giai đọan "Xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở Miền Bắc, giải
phóng Miền Nam thống nhất đất nƣớc".
Đại hội Đảng lần thứ III (Năm 1960) đề ra chủ trƣơng "Vừa đào tạo tập
trung, vừa đào tạo tại chức".

6


Thuật ngữ đại học tại chức đƣợc sử dụng với nghĩa là học không tập
trung toàn thời gian, vừa học vừa làm việc, có các văn bằng đại học với từ ghi
thêm trong ngoặc là hệ "tại chức".
Năm 1975, đất nƣớc đƣợc thống nhất. Đại hội IV (năm 1976) chỉ rõ:
"

Phải tích cực xây dựng hệ thống đào tạo bồi dƣỡng tại chức với

nhiều hình thức học tập đảm bảo cho mọi ngƣời lao động có thể suốt đời
tham gia học tập, trau dồi nghề nghiệp mở rộng kiến thức". [8, tr 298]
Công tác, Đào tạo ĐH Tại chức phát triển mạnh mẽ, Nghị quyết XIV
của Bộ Chính trị về cải cách giáo dục (1979) đã nhấn mạnh: "Hệ thống mạng
lƣới tại chức phải đƣợc tổ chức rộng khắp, bao gồm nhiều hình thức học tập
linh hoạt thuận tiện cho ngƣời học. Hệ thống đó phải gắn liền với hệ thống
đào tạo tập trung nhƣng có tổ chức và ngƣời phụ trách riêng".[8, tr 299]

Trong 10 năm 1975-1985, tuyển vào hệ đại học tại chức khoảng 60.000
sinh viên và 80 % số tỉnh từ Bắc chí Nam có các trung tâm đào tạo bồi dƣỡng
tại chức.[8,tr 299]
Nhƣ vậy đã xuất hiện cụm từ "đào tạo và bồi dƣỡng tại chức", "mạng
lƣới tại chức "với nghĩa của học tại chức là học không tập trung toàn thời gian

và có thể cấp hoặc không cấp văn bằng.
Nghị quyết 73 năm 1983 của hội đồng Bộ trƣởng đã cho phép thành
lập trung tâm đào tạo, bồi dƣỡng tại chức tỉnh trên cơ sở các tổ chức đa dạng
ở địa phƣơng đã hình thành từ trƣớc. Đây là một mô hình cơ sở giáo dục mới
dựa trên sự liên kết của các trƣờng đại học với các tỉnh, thƣờng là một trung tâm
tỉnh liên kết với nhiều trƣờng. Đây là một sáng kiến rất quan trọng, tạo một
bƣớc tiến của công tác đào tại chức cao, bồi dƣỡng đại học tại chức từ xa.

7


Sự liên kết này là một kinh nghiệm hay cần tổng kết và phát huy, nâng
cao vai trò của trung tâm giáo dục thƣờng xuyên trong đào tạo liên kết ở các
bậc học, cấp học, hình thức học khác nhau.
Với đƣờng lối đổi mới đƣợc đề ra tại đại hội VI (năm 1986), đối với
lĩnh vực giáo dục, nghị quyết Đại hội đã ghi: "Phải bố trí hợp lí cơ cấu hệ
thống giáo dục, thể hiện tính thống nhất của quá trình giáo dục, bao gồm
nhiều hình thức đào tạo và bồi dƣỡng chính quy và không chính quy, tập
trung tại chức...". Từ những năm 1988-1991, đã thí điểm hệ đào tạo đại học
không chính quy với những hình thức mới đi đôi với những tên gọi mới nhƣ
đại học mở rộng, tự học có hƣớng dẫn, đào tạo từ xa, Đại học mở (thành lập 2
viện Đại học mở).
Nghị định 90/ CP ngày 24/11/1993 của chính phủ thừa nhận giáo dục
thƣờng xuyên là một trong 5 thành phần của hệ thống giáo dục quốc dân.

Luật giáo dục (Quốc hội thông qua ngày 2/12/1998) coi "giáo dục
không chính quy là một phƣơng thức giáo dục giúp mọi ngƣời vừa làm vừa
học, học liên tục, học suốt đời nhằm hoàn thiện nhân cách, mở rộng hiểu biết,
nâng cao trình độ học vấn, chuyên môn, nghiệp vụ để cải thiện chất lƣợng
cuộc sống, tìm việc làm và thích nghi với đời sống xã hội". Với quan niệm
nhƣ vậy thì khái niệm giáo dục không chính quy đồng nghĩa với giáo dục
thƣờng xuyên. Trong luật giáo dục đã đƣợc Quốc hội nƣớc Cộng hòa xã hội

chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 14/ 06/ 2005 đã khẳng định: "Hệ thống
giáo dục quốc dân gồm giáo dục chính quy và giáo dục thƣờng xuyên".
"Nhà nƣớc có chính sách phát triển giáo dục thƣờng xuyên, thực hiện
giáo dục cho mọi ngƣời, xây dựng xã hội học tập".

8


Báo cáo của Chính phủ trƣớc Quốc hội tháng 10/2004: "Các chƣơng
trình giáo dục từ xa vẫn đang trong quá trình xây dựng, tiến độ còn chậm, chất
lƣợng còn thấp; cơ sở vật chất còn nghèo nàn, điều kiện tổ chức thực hành
thực nghiệm còn rất hạn chế. Việc quản lí lỏng lẻo đối với các hệ liên kết đào
tạo có cấp văn bằng đã dẫn đến tình trạng "học giả bằng thật". Đây là một
khâu yếu nghiêm trọng của giáo dục không chính quy ở nƣớc ta".
Những năm gần đây, trong các báo, tạp chí thuộc chuyên ngành giáo
dục nhƣ tạp chí Giáo dục, tạp chí Phát triển giáo dục, tạp chí Dạy và học, báo
Giáo dục và thời đại...hay trong các báo cáo tổng kết công tác giáo dục
thƣờng xuyên hàng năm của Bộ giáo dục và đào tạo đều cũng đã đề cập tới
công tác quản lí các lớp đại học hệ liên kết, nhƣng hiện nay còn có rất ít công
trình nghiên cứu có hệ thống, có thực nghiệm tại một cơ sở giáo dục cụ thể.
Trong luận văn này, chúng tôi cố gắng phân tích một cách tƣơng đối
toàn diện, có hệ thống thực trạng của sự liên kết giữa Trung tâm GDTX Tỉnh

với các trƣờng Đại học mà Trung tâm liên kết. Bƣớc đầu đề xuất và khảo
nghiệm các biện pháp quản lí nhằm kết hợp hai đơn vị này chặt chẽ để nâng
cao chất lƣợng đào tạo các lớp đại học theo hình thức liên kết tại Trung tâm.
Đó cũng là cái mới của luận văn này.
1.2. Những khái niệm liên quan đến đề tài
1.2.1. Khái niệm về quản lý
Quản lý là một hiện tƣợng xã hội, là một dạng hoạt động đặc thù của
con ngƣời, là sản phẩm và là yếu tố gắn chặt với hợp tác lao động. Theo
C.Mác thì bất cứ lao động xã hội nào hay lao động chung trực tiếp nào cũng

đều ít nhiều cần đến sự quản lí.

9


Một cách hình ảnh, Mác đã lột tả bản chất của quản lí là hoạt động lao
động để điều khiển lao động. Ông đã nói: "Một nghệ sĩ vĩ cầm thì tự điều
khiển mình, còn dàn nhạc thì cần nhạc trƣởng" để nêu bật lên sự tất yếu và vô
cùng quan trọng của hoạt động quản lí trong quá trình phát triển của xã hội
loài ngƣời.
Có thể nói hoạt động quản lí vừa là một khoa học vừa là một nghệ
thuật. Nó điều khiển một hệ thống động xã hội ở tầm vi mô cũng nhƣ vĩ mô.
Vì vậy quản lí đƣợc tiếp cận bằng nhiều cách khác nhau.
Theo PGS-TS Nguyễn Thị Mỹ Lộc và TS Nguyễn Quốc Chí thì quản lí là
quá trình đạt đến mục tiêu của tổ chức bằng cách vận dụng các hoạt động
(chức năng) kế hoạch hóa, tổ chức, chỉ đạo, lãnh đạo và kiểm tra.[19]
Bất luận một tổ chức nào có mục đích gì, cơ cấu và quy mô ra sao đều
cần phải có sự quản lí và có ngƣời quản lí để tổ chức hoạt động và đạt đƣợc
mục đích của mình. Ngƣời quản lí là nhân vật có trách nhiệm phân bố nhân
lực và các nguồn lực khác, chỉ dẫn sự vận hành của một bộ phận hay toàn bộ

tổ chức để tổ chức hoạt động có hiệu quả và đạt đến mục đích.
Trên phƣơng diện hoạt động của một tổ chức thì: "quản lí là tác động
có mục đích, có kế hoạch của chủ thể quản lí đến tập thể những ngƣời lao
động nói chung là khách thể quản lí nhằm thực hiện những mục tiêu dự kiến".
[32, tr24]
Hoặc "Hoạt động quản lí là tác động có định hƣớng, có chủ đích của
chủ thể quản lí (ngƣời quản lí) đến khách thể quản lí (ngƣời bị quản lí) trong
một tổ chức, nhằm làm cho tổ chức vận hành và đạt đƣợc mục đích của tổ
chức". [8,tr1]
Có thể nói: "Quản lý là sự tác động liên tục, có định hƣớng của chủ
thể quản lí ( ngƣời quản lí hay tổ chức quản lí ) lên khách thể (đối tƣợng )
quản lí

10


về mặt chính trị, văn hóa, xã hội, kinh tế... bằng một hệ thống các luật lệ, các
chính sách, các nguyên tắc, các phƣơng pháp và biện pháp cụ thể nhằm tạo ra
môi trƣờng và điều kiện cho sự phát triển của đối tƣợng". [26, tr7]
Theo PGS-TS Đặng Quốc Bảo: Hoạt động quản lí bắt nguồn từ sự phân
công, hợp tác lao động.
Chính sự phân công hợp tác lao động nhằm đạt đến hiệu quả nhiều hơn,
năng suất cao hơn. Trong công việc đòi hỏi phải có sự chỉ huy, phối hợp, điều
hành, kiểm tra, chỉnh lý. [17]
Theo Henri Fayol (1841-1925) là một kỹ nghệ gia ngƣời Pháp, cống
hiến lớn nhất của Fayol là xuất phát từ các loại hình"hoạt động quản lý", ông
là ngƣời đầu tiên phân biệt chúng thành 5 chức năng cơ bản: kế hoạch hóa, tổ
chức, chỉ huy, phối hợp và kiểm tra.
Theo quan điểm hình thức trong quản lý cho rằng các hành động quản
lý thích hợp phụ thuộc vào các tham số riêng của mỗi tình huống cụ thể. Do

đó thay vì tìm kiếm những nguyên lý phổ quát áp dụng cho mọi tình huống,
mọi hoàn cảnh, nên xác định các nguyên lý tình huống cho phép vạch ra cách
thức hành động tùy thuộc vào đặc điểm của mỗi tình thế, hoàn cảnh cụ thể
nhất định. Quan điểm tình huống có thể mạnh ở cách tiếp cận, có tính chẩn
đoán của mình, khác với cách tiếp cận: "Một biện pháp tốt nhất" do các thuyết
khác đề xƣớng. Và chính tính linh hoạt năng động trong hành động quản lý
do cách tiếp cận nhƣ vậy tạo nên cũng là điểm mạnh của quan điểm này.
Thuyết này hƣớng dẫn ngƣời quản lý nên sử dụng các thuyết đã có trong các
tình huống cụ thể chứ không đề xuất một "Bài bản" gì mới mẻ hoàn toàn. [19]
Quản lý tùy thuộc vào điều kiện, tình huống cụ thể dẫn đến sự vận động
của đối tƣợng đến hiệu quả tối ƣu, có nghĩa là ngƣời quản lý khi vận dụng lý
thuyết quản lý vào công việc phải hết sức linh hoạt và mềm dẻo vì

11


"Quản lý vừa là một khoa học, vừa là một nghệ thuật".
Từ những quan điểm trên, chúng tôi có thể tóm tắt: Quản lý là sự tác
động liên tục, có định hướng, có chủ định của chủ thể quản lý lên khách thể
quản lý của một tổ chức thông qua quá trình lập kế hoạch, tổ chức lãnh đạo
và kiểm tra, nhằm đạt được mục tiêu đặt ra trong điều kiện biến động của
môi trường.

1.2.2. Biện pháp quản lý
Theo từ điển Tiếng việt do Nguyễn Nhƣ ý chủ biên biện pháp là:
"cách làm, cách thức tiến hành". [35, tr161]
Biện pháp là cách thức hành động để thực hiện một mục đích, là cách
làm, cách giải quyết một vấn đề cụ thể.
Các nhà nghiên cứu về khoa học quản lý đã đƣa ra 4 biện pháp quản
lý chính: Biện pháp giáo dục, biện pháp quản lý hành chính, biện pháp tâm lýxã hội, biện pháp kích thích lợi ích kinh tế.

-

Biện pháp quản lý hành chính tổ chức đó là những hình thức, biện

pháp mà chủ thể quản lý dùng quyền lực trực tiếp đƣa ra các mục tiêu, nhiệm
vụ yêu cầu để khách thể quản lý thực hiện.
Biện pháp này biểu hiện qua các hình thức nhƣ văn bản thông báo, chỉ
thị, nghị quyết, thông tƣ, hoặc là những quy chế nội dung, quy định trong nội
bộ, nhƣ thời khóa biểu, phân công công tác, cũng có thể là chỉ thị bằng lời
nói.
Đặc điểm nổi bật tích cực của biện pháp này là có căn cứ pháp lý, trên
cơ sở các văn bản chính xác cụ thể tạo ra sự thống nhất trong tổ chức, làm nên
sức mạnh tập thể. Đồng thời có sự phân công, phân nhiệm, phân cấp, phân
quyền.... giữa các tổ chức và các thành viên của nó, tác động trực tiếp

12


đến đối tƣợng, dứt khoát và có hiệu lực nhanh, có tính bắt buộc phải chấp
hành đồng loạt theo nguyên tắc "phục tùng". Tuy nhiên nếu lạm dụng tuyệt
đối hóa biện pháp này dễ dẫn đến tình trạng quan liêu, mệnh lệnh , mất dân
chủ dễ gây tâm lý nặng nề, tiêu cực, thụ động tạo nên tâm lý tự vệ của đối
tƣợng quản lý. Khi vận dụng phƣơng pháp hành chính tổ chức vào thực tiễn
nhà quản lý phải nắm vững pháp chế, nhận thức đƣợc quyền hạn trách nhiệm
cuả mình theo luật định khi đƣa ra văn bản, các quyết định hành chính phải
có cơ sở khoa học và thực tiễn, luôn nắm bắt thông tin phản hồi để có những
điều chỉnh kịp thời.
- Biện pháp kích thích lợi ích kinh tế: Là cách thức tác động gián tiếp
lên
đối tƣợng quản lý bằng sự kích thích lợi ích vật chất để tạo ra động lực

thúc
đẩy con ngƣời hoàn thành tốt nhiệm vụ, phục vụ cho lợi ích cá nhân và tập
thể.
-

Biện pháp giáo dục: Chủ thể dùng các hình thức, biện pháp tác động

trực tiếp hoặc gián tiếp đến nhận thức, tình cảm, thái độ, hành vi của đối
tƣợng quản lý nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động, hoàn thành tốt nhiệm vụ
của tổ chức giao.
Biện pháp này thƣờng là trao đổi trực tiếp, học tập sinh hoạt tƣ tƣởng,
chính trị, thời sự, giáo dục cá biệt, nêu gƣơng tốt... thông qua việc sinh hoạt
trong tổ chức quần chúng, đoàn thể xã hội, môi trƣờng xã hội, bằng nhiều
hình thức sinh động.
-

Biện pháp Tâm lý-xã hội: Là cách thức tạo ra những tác động vào đối

tƣợng bị quản lý bằng các biện pháp logic và tâm lý xã hội nhằm biến những
yêu cầu do ngƣời lãnh đạo quản lý đề ra thành nghĩa vụ, tự giác động cơ bên
trong và những yêu cầu của ngƣời thực hiện.

13


Tùy từng trƣờng hợp, từng hoàn cảnh, từng đối tƣợng mà vận dụng các
biện pháp quản lý thích hợp. Tiềm năng bản lĩnh của ngƣời quản lý là biết lựa
chọn, biện pháp hữu hiệu áp dụng cho từng đối tƣợng, ngƣời quản lý phải có
lý trí sáng suốt và trái tim nhân hậu, phải có trình độ chuyên môn cao và kinh
nghiệm quản lý phong phú sao cho việc lựa chọn biện pháp quản lý phù hợp

với thực trạng đơn vị, tình huống quản lý và có những bƣớc đi thích hợp. [24]
1.2.3 Chức năng quản lý
1.2.3.1. Chức năng quản lý
Bàn về hoạt động quản lý và ngƣời quản lý, chúng ta cần tìm hiểu
ngƣời quản lý phải làm gì-cũng chính là tìm hiểu các chức năng quản lý.
Bốn chức năng quản lý chủ yếu , cơ bản là:
-

Kế hoạch hoá (Planning)

-

Tổ chức (Organizing)

-

Chỉ đạo-lãnh đạo (Leading)

-

Kiểm tra (controlling)

1.2.3.2. Kế hoạch hoá
i-Kế hoạch hoá là một chức năng quản lý. Kế hoạch hoá có nghĩa là xác
định mục tiêu, mục đích đối với thành tựu tƣơng lai của tổ chức và các con
đƣờng, biện pháp, cách thức để đạt đƣợc mục tiêu, mục đích đó. Có ba nội
dung chủ yếu của chức năng kế hoạch hoá:
-

Xác định, hình thành mục tiêu (phƣơng hƣớng) đối với tổ chức.


Xác định và đảm bảo (có tính chắc chắn, có tính cam kết) về các

nguồn lực của tổ chức để đạt đƣợc các mục tiêu này.
-

Quyết định xem những hoạt động nào là cần thiết để đạt đƣợc các

mục tiêu đó.

14


ii- Các loại kế hoạch
Sự phân loại kế hoạch gắn liền với sự phân loại mục tiêu. Có ba loại
mục tiêu chính sau đây: Mục tiêu chiến lƣợc, mục tiêu chiến thuật và mục
tiêu tác nghiệp.
Xuất phát từ ba loại mục tiêu nói trên có ba loại kế hoạch:
-

Kế hoạch chiến lƣợc: là các bƣớc hoạt động chi tiết đƣợc vạch ra để

đạt đƣợc mục tiêu chiến lƣợc. Những kế hoạch này hƣớng vào những vấn đề
lớn nhƣ: cần phải hoạt động nhƣ thế nào để đáp ứng đƣợc các điều kiện đang
thay đổi; cần phân phối nguồn lực nhƣ thế nào trong phạm vi toàn bộ tổ chức
; Những hành động nào cần tiến hành để tạo nên một nỗ lực chung, thống nhất
và có sức mạnh trong toàn bộ tổ chức để có thể đạt đƣợc mục tiêu chiến lƣợc.
Kế hoạch chiến lƣợc thƣờng có thời hạn từ ba đến năm năm cho một tổ chức và
dài hạn hơn 10 năm hoặc 15 năm cho một ngành hoặc một quốc gia, kế


hoạch chiến lƣợc đƣợc xây dựng ở cấp quản lý cao nhất.
-

Kế hoạch chiến thuật: là những cách thức đƣợc vạch ra để hỗ trợ cho

việc triển khai kế hoạch chiến lƣợc cũng nhƣ đạt đƣợc các mục tiêu chiến
thuật. Kế hoạch chiến thuật có thời hạn từ một đến ba năm cho một tổ chức,
từ 3 đến 5 năm cho một ngành hoặc một quốc gia, kế hoạch này đƣợc xây
dựng bởi cấp quản lý trung gian.
-

Kế hoạch tác nghiệp: Là các biện pháp đƣợc hoạch định để triển khai

kế hoạch chiến thuật và đạt đƣợc mục tiêu tác nghiệp. Nói chung loại kế
hoạch này có thời hạn dƣới một năm, thậm chí có thời hạn tính theo tháng,
tuần, ngày và do cấp quản lý thấp nhất xây dựng.

15


Lƣu ý rằng, để phân biệt các loại kế hoạch cần dựa vào các tiêu chí sau
đây: khung thời gian, phạm vi, độ phức tạp và ảnh hƣởng, tính độc lập tƣơng
đối.

Tám lĩnh vực chính cần quan tâm khi xác định mục tiêu chiến lược
Tám lĩnh vực chủ yếu do Drucker đề

Tám lĩnh vực đƣợc diễn dịch cho các

xuất cho các tổ chức sinh lời


tổ chức không sinh lời

16


1.

Thị phần cần chiếm lĩnh

2. Sự đổi mới về sản phẩm và những
đổi mới công nghệ cần thiết.

3.

Nguồn nhân lực

4.Nguồn tài chính
5.

Nguồn vật lực

6.

Năng suất lao động

7.

Trách nhiệm xã hội


8.

Lợi nhuận

iii- Quá trình lập kế hoạch
Bƣớc 1: Xác định mục tiêu
Xác định mục tiêu đòi hỏi phải xem xét và hiểu kỹ sứ mệnh của tổ chức
và sau đó xác định những mục tiêu cụ thể, những mục tiêu này là sự chuyển
dịch sứ mệnh của tổ chức mà thành. Vì những mục tiêu này sẽ đòi hỏi sử dụng
một phần rất lớn các nguồn lực cũng nhƣ phải quản lý rất nhiều hoạt động,
nên xác định mục tiêu là một trong những bƣớc có tính quyết định của quá
trình lập kế hoạch.
Bƣớc 2: Làm rõ các mục đích và chiến lƣợc hiện tồn: Làm rõ những
mục đích và chiến lƣợc đang tồn tại, đang phát huy tác dụng đến hoạt động
của tổ chức.
Bƣớc 3: Phân tích môi trƣờng: Làm rõ những cách thức mà những biến
đổi về môi trƣờng chính trị pháp lý, văn hoá, xã hội, kinh tế kỹ thuật có thể ảnh
hƣởng gián tiếp đến tổ chức; cũng nhƣ xác định những ảnh hƣởng trực


17


tiếp của những tổ chức khác, của các cơ quan chính quyền, đoàn thể xã hội...
ở bƣớc này nên lập một danh sách các nhân tố (thuộc về môi trƣờng) có
thể
tác động đến tổ chức và đánh giá mức độ ảnh hƣởng của những nhân tố đó.
Bƣớc 4: Phân tích nguồn lực: Mục tiêu và chiến lƣợc của tổ chức cũng
là điều kiện để phân tích các nguồn lực của nó. Sự phân tích này là cần thiết
để làm rõ những ƣu thế (có tính cạnh tranh); những mặt mạnh và mặt yếu của

tổ chức.
Bƣớc 5: Xác định các vận hội và nguy cơ có tính chiến lƣợc: Một tổ
chức luôn luôn phải đối đầu với những vận hội và nguy cơ ảnh hƣởng đến sự
tồn tại và phát triển của nó. Những vận hội là những khả năng khách quan và
chủ quan thúc đẩy tổ chức phát triển; những nguy cơ cũng có thể đến từ bên
trong hoặc từ bên ngoài tổ chức, đe doạ sự tồn tại cũng nhƣ sự hƣng thịnh
của tổ chức.
Bƣớc 6: Xác định việc mở rộng những biến đổi có tính chiến lƣợc
Bƣớc 7: Ra quyết định chiến lƣợc
Bƣớc 8: Triển khai chiến lƣợc
Bƣớc 9: Đo lƣờng và kiểm tra những tiến bộ: Khi việc triển khai chiến
lƣợc đang tiếp diễn ngƣời quản lý cần tiến hành kiểm tra những tiến bộ của
việc triển khai đó một cách định kì hoặc ở những giai đoạn then chốt. Việc
kiểm tra sự triển khai chiến lƣợc cần trả lời câu hỏi: Chiến lƣợc có đƣợc triển
khai theo kế hoạch hay không? Chiến lƣợc đang triển khai liệu có đạt đƣợc
kết quả mong muốn hay không?

18


×