Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

LÝ LUẬN CHUNG VỀ PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (203.98 KB, 23 trang )

LÝ LUẬN CHUNG VỀ PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP
1.1 Vai trò của tài chính doanh nghiệp
1.1.1 Khái niệm doanh nghiệp
Doanh nghiệp là một tổ chức độc lập, có tư cách pháp nhân được thành lập để
thực hiện các hoạt động sản xuất kinh doanh trên thị trường vì mục tiêu tối đa hoá,
tối đa hoá giá trị doanh nghiệp và phát triển doanh nghiệp.
Căn cứ vào các tiêu thức khác nhau, doanh nghiệp được phân loại theo nhiều
hình thức. Tuy nhiên trong phạm vi tài chính và các quan hệ tài chính, doanh
nghiệp được phân loại theo hình thức sở hữu. Với cách phân loại này doanh nghiệp
được phân loại thành thành các loại sau:
- Công ty cổ phần
- Công ty TNHH
- Doanh nghiệp tư nhân
- Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài
- Doanh nghiệp liên doanh
Mỗi loại hình doanh nghiệp có các hình thức tài chính quản lý tài chính khác
nhau nhưng nội dung và bản chất của hoạt động tài chính và giá trị tài chính cơ bản
là giống nhau.
1.1.2 Khái niệm tài chính doanh nghiệp
Tài chính là một hệ thống các mối quan hệ tiền tệ nảy sinh trong quá trình phân
phối tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân nhằm hình thành và sử dụng các
quỹ tiền tệ phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh và thực hiện các chức năng
quản lý nhà nước của doanh nghiệp.
Tài chính doanh nghiệp là một phạm trù kinh tế khách quan, gắn liền với sự ra
đời của nền kinh tế hàng hóa, tiền tệ. Mức độ phát triển của tài chính trong doanh
nghiệp phụ thuộc vào tính chất và nhịp độ phát triển của nền kinh tế hàng hóa. Nền
kinh tế tập trung bao cấp đã sản sinh ra cơ chế quản lý tài chính doanh nghiệp là
bao cấp. Nền kinh tế thị trường đã làm xuất hiện hàng loạt các quan hệ tài chính
mới. Do đó, tính chất và phạm vi của hoạt động tài chính doanh nghiệp cũng có
những thay đổi đáng kể.
Tài chính doanh nghiệp là tài chính của những tổ chức, các đơn vị sản xuất


kinh doanh có tư cách pháp nhân. Tài chính doanh nghiệp là một khâu quan trọng
trong hệ thống tài chính quốc gia, ở đó diễn ra các quá trình sản xuất kinh doanh
như: đầu tư, cung ứng đầu vào, tiêu thụ sản phẩm hàng hóa, dịch vụ ra thị trường.
Trong đó, sự chu chuyển của vốn luôn gắn liền với sự vận động của tài sản, vật tư,
hàng hóa. Như vậy, xét về mặt bản chất thì các mối quan hệ tiền tệ và các quỹ tiền
tệ là hình thức biểu hiện bề ngoài của tài chính doanh nghiệp, mà đằng sau nó ẩn
dấu những quan hệ kinh tế phức tạp, những luồng tiền chuyển dịch giá trị gắn liền
với việc tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ. Sự vận động đó không chỉ bó hẹp trong
một chu kỳ kinh doanh mà trực tiếp hoặc gián tiếp có liên quan đến tất cả các khâu
của quá trình tái sản xuất xã hội. Hay nói cách khác, sự vận động của nó làm phát
sinh các quan hệ kinh tế dưới hình thức giá trị trong các khâu của quá trình tái sản
xuất giữa doanh nghiệp và các đối tác trong nền kinh tế thị trường. Những quan hệ
đó tuy chứa đựng những nội dung kinh tế khác nhau nhưng chúng có những đặc
trưng giống nhau, luôn luôn tồn tại và phát triển cùng với sự tồn tại và phát triển
của doanh nghiệp. Các quan hệ kinh tế đó là:
- Nhóm quan hệ kinh tế giữa doanh nghiệp với nhà nước
- Quan hệ kinh tế giữa doanh nghiệp với thị trường tài chính
- Quan hệ kinh tế giữa doanh nghiệp với các thị trường khác: thị trường lao
động, thị trường hàng hóa dịch vụ….
- Quan hệ kinh tế trong nội bộ doanh nghiệp
- Các quan hệ tài chính khác.
Từ đó ta có thể khẳng định rằng: Tài chính doanh nghiệp là hệ thống các quan
hệ kinh tế trong phân phối các nguồn tài chính gắn liền với quá trình tạo lập và sử
dụng các quỹ tiền tệ trong hoạt động sản xuất – kinh doanh của doanh nghiệp nhằm
đạt mục tiêu lợi nhuận.
1.1.3 Vai trò của tài chính doanh nghiệp
Trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, tài chính doanh nghiệp có các
vai trò chủ yếu sau:
- Đảm bảo huy động đầy đủ và kịp thời vốn cho hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp.

Để thực hiện mọi quá trình kinh doanh, trước hết các doanh nghiệp phải có vốn
kinh doanh. Vai trò của tài chính doanh nghiệp được thể hiện là xác định đúng
đắn nhu cầu vốn cần thiết cho hoạt động của doanh nghiệp trong từng thời kỳ.
Tiếp đó phải lựa chọn các phương pháp và hình thức huy động vốn để hoạt
động của doanh nghiệp được thực hiện một cách nhịp nhàng, liên tục với chi
phí huy động vốn tối ưu.
- Tổ chức sử dụng vốn tiết kiệm và hiệu quả.
Việc tổ chức sử dụng vốn tiết kiệm và hiệu quả được coi là điều kiện tồn tại và
phát triển của mọi doanh nghiệp. Tài chính doanh nghiệp có vai trò quan trọng
như việc đánh giá và lựa chọn dự án đầu tư, chọn ra dự án đầu tư tối ưu, lựa
chọn và huy động vốn có lợi nhất cho hoạt động kinh doanh, bố trí cơ cấu vốn
hợp lý, sử dụng các biện pháp để tăng nhanh vòng quay của vốn, nâng cao khả
năng sinh lời của vốn kinh doanh.
- Đòn bẩy kích thích và điều tiết kinh doanh.
Vai trò này của tài chính doanh nghiệp được thể hiện thông qua việc tạo sức
mua hợp lý để thu hút vốn đầu tư, lao động, vật tư, dịch vụ, đồng thời xác định
giá bán hợp lý khi tiêu thụ hàng hóa, cung cấp dịch vụ và thông qua hoạt động
phân phối thu nhập của doanh nghiệp, phân phối quỹ khen thưởng, quỹ lương,
thực hiện các hợp đồng kinh tế.
- Giám sát, kiểm tra chặt chẽ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Tình hình tài chính của doanh nghiệp là một tấm gương phản ánh trung thực
nhất mọi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Thông qua các chỉ tiêu tài
chính mà các nhà quản lý doanh nghiệp dễ dàng nhận thấy thực trạng quá trình
kinh doanh của doanh nghiệp, phát hiện kịp thời những vướng mắc, tồn tại để
từ đó đưa ra các quyết định điều chỉnh các hoạt động kinh doanh nhằm đạt tời
các mục tiêu đã đinh.
Vai trò của tài chính doanh nghiệp sẽ trở nên tích cực hay thụ động trước hết là
phụ thuộc vào môi trường kinh doanh, cơ chế tổ chức tài chính doanh nghiệp
và các nguyên tắc cần quán triệt trong hoạt động tài chính của doanh nghiệp.
1.2 Sự cần thiết của phân tích tài chính doanh nghiệp

Tài chính doanh nghiệp là những quan hệ tiền tệ gắn trực tiếp với việc tổ
chức huy động, phân phối, sử dụng và quản lý vốn trong quá trình kinh doanh.
Phân tích tài chính là một hệ thống các phương pháp, công cụ cho phép thu
thập và xử lý các thông tin trong quản lý doanh nghiệp nhằm xem xét, kiểm tra,
đánh giá tình hình tài chính, khả năng và tiềm lực của doanh nghiệp cũng như hiệu
quả của quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh giúp cho các đối tượng sử dụng
thông tin tài chính có các quyết định tài chính, quyết định quản lý phù hợp.
Thông qua một hệ thống các phương pháp, công cụ, kỹ thuật phân tích giúp
cho người sử dụng thông tin có thể vừa đánh giá tổng hợp toàn diện khái quát, vừa
xem xét một cách chi tiết hoạt động tài chính doanh nghiệp để qua đó có thể đánh
giá chính xác sức mạnh tài chính và triển vọng phát triển của doanh nghiệp. Vì thế
phân tích tài chính mà trọng tâm là phân tích các báo cáo tài chính doanh nghiệp là
mối quan tâm của rất nhiều đối tượng. Mỗi nhóm đối tượng này có nhu cầu thông
tin khác nhau do vậy họ sẽ quan tâm đến những khía cạnh riêng trong bức tranh tài
chính của doanh nghiệp.
1.2.1 Đối với nhà quản trị doanh nghiệp
Mối quan tâm hàng đầu của các nhà quản lý là lợi nhuận và sự phát triển bền
vững của doanh nghiệp. Vì vậy hơn ai hết các nhà quản lý cần đầy đủ thông tin để
nhận biết, đánh giá khả năng và tiềm lực của doanh nghiệp, tình hình hoạt động sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp như thế nào có hiệu quả hay không, cơ cấu vốn,
khả năng thanh toán... thông qua việc phân tích tài chính. Đây chính là cơ sở để các
nhà quản lý doanh nghiệp đưa ra các quyết định cần thiết có hiệu quả để thực hiện
các mục tiêu của doanh nghiệp và là cơ sở để định hướng cho ban giám đốc, giám
đốc tài chính xây dựng các kế hoạch đầu tư, dự báo tài chính, kiểm soát các hoạt
động của doanh nghiệp.
1.2.2 Đối với các nhà đầu tư
Các nhà đầu tư ở đây chính là các tổ chức và cá nhân giao vốn cho doanh
nghiệp sử dụng và sẽ chấp nhận chịu chung mọi rủi ro mà doanh nghiệp gặp phải.
Thu nhập của họ bao gồm: tiền chia lợi tức và giá trị tăng thêm của vốn đầu tư, hai
yếu tố chịu ảnh hưởng của lợi nhuận kỳ vọng của doanh nghiệp. Đối với các nhà

đầu tư lớn họ thường dựa vào các nhà chuyên môn, các chuyên gia phân tích tài
chính, các nhà nghiên cứu kinh tế tài chính để phát triển và làm dự báo về triển
vọng phát triển của doanh nghiệp, đánh giá cổ phiếu của doanh nghiệp, khả năng
đảm bảo mức lợi tức mà họ yêu cầu. Đối với các nhà đầu tư hiện tại cũng như các
nhà đầu tư tiềm năng thì mối quan tâm của họ trước hết là việc đánh giá những đặc
điểm đầu tư của doanh nghiệp. Họ quan tâm tới an toàn trong đầu tư và mức lợi tức
kỳ vọng được phản ánh thông qua điều kiện tài chính của doanh nghiệp và tình
hình hoạt động tài chính. Các nhà đầu tư này quan tâm tới phân tích tài chính để
nhận biết khả năng sinh lời của doanh nghiệp, khả năng tăng trưởng và phát triển
của doanh nghiệp, những rủi ro mà doanh nghiệp có thể phải hứng chịu. Thông qua
đó để họ đưa ra quyết định đầu tư một cách có hiệu quả nhất: có nên bỏ vốn đầu tư
vào doanh nghiệp hay không, nếu đầu tư thì với khối lượng bao nhiêu và trong thời
gian bao lâu?
1.2.3 Đối với người cho vay, nhà cung cấp vật tư, hàng hóa, dịch vụ, các cơ
quan quản lý nhà nước, và các đối tượng khác.
Người cho vay là các ngân hàng, các công ty tài chính, tổ chức tín dụng ...
họ phân tích tài chính để nhận biết khả năng vay và trả nợ của khách hàng. Khi
quyết định cho vay thì một trong những vấn đề mà người cho vay cần xem xét là
doanh nghiệp thực sự có nhu cầu hay không? khả năng trả nợ của doanh nghiệp
như thế nào?
Đối với các nhà cung cấp vật tư, hàng hóa, dịch vụ, họ phải quyết định xem
có cho phép khách hàng sắp tới được mua trả chậm hàng hóa hay không, họ cần
thiết phải nắm thông tin về khả năng thanh toán của doanh nghiệp hiện tại cũng
như trong tương lai ….
Đối với các cơ quan quản lý nhà nước như cơ quan thuế, cơ quan đăng ký
kinh doanh… Họ phân tích tài chính để đánh giá, kiểm tra, kiểm soát hoạt động
sản xuất kinh doanh, hoạt động tài chính tiền tệ của doanh nghiệp có đúng chính
sách chế độ và luật pháp không, tình hình thực hiện nghĩa vụ đối với nhà nước để
đề ra các biện pháp quản lý phù hợp.
Người lao động cũng quan tâm đến các thông tin về tình hình tài chính

doanh nghiệp để đánh giá triển vọng của nó trong tương lai. Những người đi tìm
việc đều có nguyện vọng được làm việc ở những công ty có triển vọng sáng sủa
với tương lai lâu dài để hy vọng có mức lương tương xứng và chỗ làm việc ổn
định. Do vậy, một công ty có tình hình tài chính và tương lai ảm đạm đang đứng
trên bờ vực phá sản sẽ không thu hút được người lao động. Các đối thủ cạnh tranh
cũng quan tâm đến khả năng sinh lợi, doanh thu bán hàng và các chỉ tiêu tài chính
khác trong điều kiện có thể để tìm biện pháp cạnh tranh với công ty. Các thông tin
về tình hình tài chính của doanh nghiệp nói chung còn được cả các nhà nghiên cứu,
các sinh viên kinh tế quan tâm phục vụ cho việc nghiên cứu và học tập của họ.
Tuy các đối tượng quan tâm đến tình hình tài chính của các doanh nghiệp
dưới những góc độ khác nhau, song nhìn chung họ đều quan tâm đến khả năng tạo
ra các dòng tiền mặt, khả năng sinh lời, khả năng thanh toán và mức lợi nhuận tối
đa. Bởi vậy, việc phân tích tình hình tài chính của các doanh nghiệp phải đạt được
các mục tiêu nhất định sau:
- Phân tích tình hình tài chính phải cung cấp đầy đủ các thông tin hữu ích cho
các nhà đầu tư, các nhà cho vay và những người sử dụng thông tin tài chính
khác để giúp họ có những quyết định đúng đắn khi ra các quyết định đầu tư,
quyết định cho vay.
- Phân tích tình hình tài chính phải cung cấp cho các chủ công ty, các nhà đầu
tư, các nhà cho vay và những người sử dụng thông tin khác trong việc đánh
giá khả năng và tính chắc chắn của dòng tiền mặt vào, ra và tình hình sử
dụng có hiệu quả nhất vốn kinh doanh, tình hình và khả năng thanh toán của
công ty.
- Phân tích tình hình tài chính phải cung cấp những thông tin về nguồn vốn
chủ sở hữu, các khoản nợ, kết quả của quá trình hoạt động sản xuất kinh
doanh, sự kiện và các tình huống làm biến đổi các nguồn vốn và các khoản
nợ của các công ty.
Tóm lại, phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp là một công việc có
ý nghĩa quan trọng trong công tác quản trị doanh nghiệp. Nó không chỉ có ý nghĩa
đối với bản thân doanh nghiệp, mà còn cần thiết cho các chủ thể khác có liên quan

đến doanh nghiệp.
1.3 Phân tích tài chính doanh nghiệp
1.3.1 Quy trình phân tích tài chính
Để có được những thông tin đầy đủ chính xác cho người sử dụng thì phân
tích tài chính cần phải tổ chức thực hiện theo một quy trình hoàn thiện với nguồn
thông tin đầy đủ, phương pháp và nội dung phân tích khoa học. Quy trình phân tích
tài chính có thể thực hiện theo 4 bước sau:
Bước 1: Lập kế hoạch phân tích:
- Nội dung phân tích: cần xác định rõ các vấn đề được phân tích: có thể là
toàn bộ hoạt động tài chính hoặc chỉ là một số vấn đề cụ thể nào đó như cơ
cấu vốn, khả năng thanh toán…. Đây là cơ sở để xây dựng đề cương cụ thể
để tiến hành phân tích.
- Phạm vi phân tích: Có thể là toàn đơn vị hoặc một số đơn vị được chọn làm
điểm để phân tích, tùy yêu cầu và thực tiễn quản lý mà xác định nội dung và
phạm vi phân tích thích hợp.
- Thời gian ấn định trong kế hoạch phân tích bao gồm cả thời gian chuẩn bị
và thời gian tiến hành công tác phân tích.
- Trong kế hoạch phân tích cần phân công trách nhiệm cho các bộ phận trực
tiếp thực hiện và bộ phận phục vụ công tác phân tích, cũng như các hình
thức hội nghị phân tích nhằm thu thập nhiều ý kiến, đánh giá đúng thực
trạng và phát hiện đầy đủ tiềm năng giúp doanh nghiệp phấn đấu đạt kết quả
cao trong kinh doanh.
Bước 2: Thu thập và xử lý thông tin:
Trong phân tích tài chính, nhà phân tích phải thu thập, sử dụng mọi nguồn
thông tin, từ thông tin trong nội bộ doanh nghiệp đến những thông tin bên
ngoài, từ những thông tin số lượng đến những thông tin giá trị, từ những
thông tin lượng hóa được đến những thông tin không lượng hóa được.
- Thông tin tài chính: Để có được nguồn thông tin này cần thu thập các kế
hoạch tài chính chi tiết và tổng hợp, các báo cáo tài chính, báo cáo kế toán
quản trị, các tài liệu kế toán chi tiết có liên quan.

- Thông tin phi tài chính: Sự phát triển của doanh nghiệp do tác động của
nhiều nhân tố trong và ngoài doanh nghiệp. Phân tích tài chính là việc phân
tích hướng tới tương lai của doanh nghiệp. Bởi vậy, ngoài các thông tin tài
chính hiện tại và quá khứ, việc phân tích tài chính doanh nghiệp phải sử dụn
nhiều thông tin phí tài chính khác: thông tin về môi trường chung về kinh tế,
chính trị, pháp luật…, thông tin về ngành mà doanh nghiệp đang hoạt động,
thông tin về doanh nghiệp.
+ Các thông tin chung: là những thông tin về môi trường kinh tế, chính
trị, luật pháp có liên quan đến cơ hội kinh doanh của một doanh nghiệp:
sự tăng trưởng hay suy thoái của một nền kinh tế, sự can thiệp của nhà
nước vào hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, biện pháp giúp đỡ tài
chính, chính sách thuế, chính sách tiền tệ ….
+ Các thông tin theo ngành kinh tế ( theo lĩnh vực hoạt động): Đặt sự
phát triển của doanh nghiệp trong mối liên hệ với hoạt động chung của
ngành kinh doanh. Nghiên cứu theo ngành cần thấy được đặc điểm kinh
doanh của ngành có liên quan đến: Sản phẩm, công nghệ, xu thế biến
động của ngành ( tăng trưởng, suy thoái hay bão hòa), áp lực trong cạnh
tranh
+ Các thông tin về doanh nghiệp:
* Đặc điểm hoạt động của doanh nghiệp, hình thức sở hữu vốn,
hình thức hoạt động, thâm niên, quy mô của doanh nghiệp.
* Cơ cấu tổ chức: Giá trị của doanh nghiệp gắn bó chặt chẽ với
giá trị của những người làm việc tại doanh nghiệp. Đặc biệt doanh
nghiệp nhỏ càng phụ thuộc vào những người làm việc tại doanh
nghiệp.
* Chủ doanh nghiệp: Cần tìm kiếm thông tin về phương diện
cá nhân như tuổi, tình hình gia đình, nguồn gốc đào tạo, trách
nhiệm, nhân cách đạo đức, thái độ …. Về người thừa kế như
khung cán bộ hay sự hình thành ê kíp lãnh đạo, việc tuyển lựa đề
bạt. Về nhân viên như kết cấu lao động, trình độ lành nghề, bầu

không khí tập thể, việc thay thế nhân viên….
* Mục tiêu của nhà lãnh đạo: Mục tiêu tăng trưởng mạnh
doanh thu sẽ kéo theo tăng chi phí quảng cáo, tăng phải thu do
tăng điều kiện ưu đãi để khuyến khích bán hang, tăng lượng hàng
tồn kho để đáp ứng các đơn đặt hàng lớn….
* Sản phẩm của doanh nghiệp: Mặt hàng, chất lượng, vị trí của
sản phẩm trên thị trường, mức độ đa dạng hóa sản phẩm trong
doanh nghiệp, chu kỳ sống của sản phẩm đó.
* Thị trường của các sản phẩm trong doanh nghiệp mang tính
chất quốc tế hay nội địa, thị phần mà doanh nghiệp chiếm lĩnh
cũng như tính ổn định của thị trường….
* Chính sách của doanh nghiệp để tăng cường và bảo vệ vị trí
của mình: Chính sách dự trữ vật tư, hàng hóa, chính sách bán
hàng, chính sách giá cả, chính sách khách hàng, chính sách quảng
cáo…..
Chất lượng công tác phân tích phụ thuộc rất lớn vào chất lượng của các
thông tin thu thập được. Bởi vậy, trước khi phân tích, nhà phân tích phải kiểm tra
tính hợp pháp của tài liệu chứa đựng thông tin (trình tự lập, ban hành, người lập,
cấp thẩm quyền phê duyệt…. ) cũng như độ tin cậy của nguồn thông tin thu thập
được: tính nhất trí của cùng một thông tin kế toán trên các tài liệu khác nhau, tính
trung thực hợp lý của các thông tin kế toán….
Phạm vi kiểm tra không chỉ giới hạn ở các tài liệu trực tiếp làm căn cứ phân
tích mà cả các tài liệu khác có liên quan, đặc biệt là các tài liệu gốc.
Bước 3: Xác định những biểu hiện đặc trưng:
Tính toán các tỷ số tài chính, lập các bảng biểu theo từng nội dung đã đặt ra,
so sánh với các chỉ số kỳ trước, các chỉ số của ngành, của các doanh nghiệp khác
trong cùng một lĩnh vực hoạt động. Trên cơ sở đó, đánh giá khái quát mặt mạnh,
điểm yếu của doanh nghiệp, vạch ra những vấn đề, những trọng tâm cần được phân
tích.
Bước 4: Phân tích:

- Phân tích các nhân tố, xác định mức độ ảnh hưởng của các nhân tố đến các
chỉ tiêu phân tích.
- Phân tích các nguyên nhân thành công và nguyên nhân thất bại.
Bước 5: Tổng hợp và dự đoán:
- Tổng hợp kết quả, rút ra nhận xét, dự báo xu hướng phát triển.
- Đề xuất các giải phát tài chính cũng như các giải pháp khác nhằm thực hiện
mục tiêu.
1.3.2 Tài liệu cơ bản được sử dụng trong phân tích tài chính doanh nghiệp
Để đánh giá một cách cơ bản tình hình tài chính của doanh nghiệp, có thể sử
dụng các thông tin kế toán trong nội bộ doanh nghiệp như là một nguồn thông tin
quan trọng bậc nhất. Mặt khác, các doanh nghiệp còn có nghĩa vụ cung cấp những
thông tin kế toán cho các đối tác bên trong và bên ngoài doanh nghiệp. Thông tin
kế toán được phản ánh khá đầy đủ trong các báo cáo kế toán. Phân tích tài chính
được thực hiện trên cơ sở các báo cáo tài chính – được hình thành thông qua xử lý
các báo cáo kế toán chủ yếu là: Bảng cân đối kế toán, báo cáo kết quả kinh doanh,
báo cáo lưu chuyển tiền tệ, thuyết minh báo cáo tài chính.
1.3.2.1 Bảng cân đối kế toán (balance sheet)
Bảng cân đối kế toán là báo cáo tài chính tổng hợp, phản ánh tổng quát toàn
bộ giá trị tài sản hiện có và nguồn hình thành nên tài sản đó của doanh nghiệp tại
một thời điểm nhất định. Kết cấu của bảng cân đối kế toán gồm hai phần: Phần tài
sản và phần nguồn vốn.
- Phần tài sản: Xét về mặt kinh tế, các chỉ tiêu ở phần TS phản ánh số TS hiện có
của DN ở thời điểm lập báo cáo, còn xét về mặt pháp lý, nó phản ánh vốn thuộc
quyền sở hữu hoặc quyền quản lý lâu dài của DN.
- Phần nguồn vốn: Xét về mặt kinh tế, các chỉ tiêu thuộc phần NV phản ánh các
nguồn hình thành nên các TS của DN, còn xét về phương diện pháp lý, các chỉ
tiêu này phản ánh trách nhiệm pháp lý của doanh nghiệp đối với các đối tượng
đầu tư vốn ( nhà nước, ngân hàng, cổ đông) cũng như với khách hàng thông
qua công nợ phải trả.
Nhìn vào bảng cân đối kế toán có thể nhận biết được loại hình doanh

nghiệp, quy mô, mức độ tự chủ tài chính của doanh nghiệp.
1.3.2.2 Báo cáo kết quả kinh doanh (profit and loss statement)
Báo cáo kết quả kinh doanh là báo cáo tài chính phản ánh toàn bộ kết quả
hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp trong một thời kỳ nhất định và những
nghĩa vụ mà doanh nghiệp phải thực hiện với nhà nước.
Dựa vào số liệu trên báo cáo kết quả kinh doanh, người sử dụng thông tin có
thể kiểm tra, phân tích và đánh giá kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp
trong kỳ, so sánh với các kỳ trước và với các doanh nghiệp khác trong cùng ngành
để nhân biết khái quát kết quả hoạt động của doanh nghiệp trong kỳ và xu hướng
vận động, nhằm đưa ra các quyết định quản lý, quyết định tài chính phù hợp.
Báo cáo kết quả kinh doanh cho biết tình hình doanh thu, chi phí và lợi
nhuận của một doanh nghiệp trong một kỳ kế toán đã qua.
1.3.2.3 Báo cáo lưu chuyển tiền tệ (Cash flow statement)
BCLCTT là báo cáo tài chính tổng hợp phản ánh việc hình thành và sử dụng
lượng tiền phát sinh trong kỳ báo cáo của doanh nghiệp.
Nếu BCĐKT cho biết những nguồn lực, của cải (tài sản) và nguồn hình
thành của những tài sản đó và báo cáo kết quả kinh doanh cho biết thu nhập và chi
phí phát sinh để tính được kết quả lãi, lỗ trong một kỳ kinh doanh, thì BCLCTT
được lập để trả lời các vấn đề liên quan đến các luồng tiền vào, ra trong doanh
nghiệp, tình hình tài trợ, đầu tư bằng tiền của doanh nghiệp trong từng thời kỳ.
Theo chuẩn mực kế toán 24 quy định: Một BCLCTT phải được chia thành
ba phần:
- Lưu chuyển tiền từ hoạt động kinh doanh
- Lưu chuyển tiền từ hoạt động đầu tư
- Lưu chuyển tiền từ hoạt động tài chính
1.3.2.3 Thuyết minh báo cáo tài chính (Descriptive financial statement)
Thuyết minh báo cáo tài chính là một bộ phận hợp thành hệ thống báo cáo
tài chính của doanh nghiệp, được lập để giải thích và bổ sung thông tin về tình hình
hoạt động sản xuất kinh doanh, tình hình tài chính của doanh nghiệp trong kỳ báo
cáo mà các báo cáo tài chính khác không thể trình bày chi tiết được. Nội dung của

báo cáo:
- Trình bày khái quát đặc điểm hoạt động của doanh nghiệp.
- Nội dung một số chế độ kế toán được doanh nghiệp lựa chọn để áp dụng.
- Tình hình và lý do biến động của một số đối tượng tài sản và nguồn vốn.
- Phân tích một số chỉ tiêu tài chính chủ yếu và kiến nghị của doanh nghiệp.
1.3.3 Phương pháp sử dụng trong phân tích tài chính doanh nghiệp
Phương pháp phân tích tài chính bao gồm một hệ thống các công cụ và biện
pháp nhằm tiếp cận, nghiên cứu các sự kiện, hiện tượng, các mối quan hệ bên trong
và bên ngoài, các luồng dịch chuyển và biến đổi tài chính, các chỉ tiêu tài chính
tổng hợp và chi tiết nhằm đánh giá tình hình tài chính của doanh nghiệp.
Về lý thuyết, có nhiều phương pháp phân tích tài chính doanh nghiệp nhưng
thực tế người ta thường sử các phương pháp sau:
1.3.3.1 Phương pháp so sánh
Đây là phương pháp được sử dụng phổ biến trong phân tích tài chính doanh
nghiệp. Phương pháp này dùng để xây dựng xu hướng phát triển và mức độ biến
động của các chỉ tiêu phát triển.
Để có thể áp dụng phương pháp này cần phải đảm bảo các điều kiện: phải có
sự thống nhất về thời gian, không gian, nội dung, tính chất và đơn vị tính toán
nghĩa là các chỉ tiêu phải được tính trên cùng một khoảng thời gian hạch toán, phải
cùng phản ánh một nội dung kinh tế, phải cùng một phương pháp tính toán, phải
cùng một đơn vị đo lường và các chỉ tiêu cần phải quy đổi về cùng một quy mô và
điều kiện kinh doanh tương đương nhau.
Tùy theo từng mục đích phân tích mà nhà phân tích sẽ lựa chọn gốc so sánh
cho phù hợp. Gốc so sánh được lựa chọn có thể là gốc về mặt thời gian hoặc không
gian. Tuỳ phân tích được lựa chọn là kỳ báo cáo hoặc kỳ kế hoạch. Giá trị so sánh
có thể lựa chọn là số tương đối hoặc số tuyệt đối hoặc số bình quân. Nội dung so
sánh gồm:
- So sánh kỳ này với kỳ trước để thấy rõ hơn xu thế thay đổi về tình hình tài
chính của doanh nghiệp. Đánh giá sự tăng trưởng hay thụt lùi trong trong
hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.

- So sánh giữa số liệu thực hiện với số kế hoạch để thấy mức độ phấn đấu của
doanh nghiệp.

×