NGHIỆP VỤ CHO VAY CỦA NGÂN HÀNG THẾ GIỚI.
I – nguyên tắc và đặc đIểm cho vay.
1. Nguyên tắc cho vay
Căn cứ vào quy định trong hiệp định ngân hàng Ngân hàng thế giới cho vay
theo các nguyên tắc sau:
a) Ngân hàng chỉ cho vay đối với các nước thành viên. Ngân hàng thế giới chỉ
cung cấp các khoản cho vay đối với chính phủ các nước thành viên có thu nhập thấp,
hoặc đối với các tổ chức công cộng và tư nhân được chính phủ, ngân hàng trung
ương của nước thành viên bảo trợ. Các nước mới độc lập, dù dự tính chẳng bao lâu
nữa sẽ trở thành nước thành viên, cũng chỉ có thể xin vay sau khi đó chớnh thức trở
thành nước thành viên. Nhưng, Ngân hàng thế giới đó từng đồng ý cho vay đối với
những khu vực thuộc quyền quản lý của nước thành viên. Như, trước khi Niu Ghinê
giành được độc lập vào tháng 9 năm 1975, ngân hàng đó cấp cho họ 5 khoản vay,
đều do Chính phủ Ôxtơrâylia bảo trợ.
b) Nói chung, các khoản vay phải được dùng cho các dự án cụ thể được ngân
hàng phê chuẩn. Thông thường các khoản cho vay của Ngân hàng thế giới phải
được dùng cho dự án cụ thể của nước vay nợ, các dự án này phải được ngân hàng
thẩm định là có tính khả thi về kỹ thuật và kinh tế, phải được bàn bạc thống nhất với
nước vay nợ đó, phải là những dự án thật sự được ưu tiên nhất trong chương trỡnh
phỏt triển kinh tế.
Bởi vậy, nước vay nợ phải cung cấp cho Ngân hàng thế giới tỡnh hỡnh và tư
liệu về kinh tế, tài chính có liên quan đến dự án và của chính bản thân dự án xin vay
vốn. Dự án vay vốn chỉ có thể chấp nhận sau khi đơn vị có dự án đó tự đánh giá
trước, một nhóm thẩm định của ngân hàng đó phõn tớch đánh giá, được Hội đồng
giám đốc điều tra phê chuẩn. Trong quá trỡnh thực hiện dự ỏn, mỗi năm Ngân hàng
thế giới sẽ tới kiểm tra, đôn đốc và chỉ đạo kỹ thuật cho một hoặc hai lần, khi kết
thúc dự án phải có đánh giá mang tính chất tổng kết. Trong số hơn 2.000 khoản mà
ngân hàng đó đồng ý cho vay, có trên 90% là cấp cho các dự án cụ thể. Trong trường
hợp đặc biệt, ngân hàng cung cấp các khoản cho vay không mang tính chất dự án cụ
thể.
Các khoản cho vay không mang tính chất dự án thường là cấp ngoại tệ cho nhu
cầu nhập vật tư, thiết bị, để giúp cho các công trỡnh sản xuất đó cú sẵn vốn của nước
vay nợ. Cũng có một số ít khoản cho vay không mang tính chất dự án cụ thể được cấp
cho các nước vay nợ mang tính chất dự án cụ thể được cấp cho các nước vay nợ thực
hiện tổng kế hoạch đầu tư phát triển kinh tế của họ, cũng có một số ít khoản cho vay
này được cấp cho nước vay nợ duy trỡ kế hoạch phỏt triển sản xuất sau thiờn tai.
c) Chỉ cho vay đối với những nước thành viên có khả năng trả nợ. Ngân hàng
thế giới chỉ là một tổ chức phát triển, nó cho các nước thành viên vay nợ để phát
triển kinh tế. Mặt khác, Ngân hàng thế giới lại là tổ chức tài chính, chủ yếu là vay vốn
trên thị trường tiền tệ thế giới, rồi lại cho các nước thành viên cho vay, cho nên nó
phải bảo đảm chắc chắn đồng vốn cho vay phải thu về được đúng hơn. Do đó ngân
hàng chỉ cho vay đối với những nước thành viên có khả năng trả nợ. Bởi Trước khi
đồng ý cho vay, ngân hàng phải thẩm tra khả năng trả nợ của các nước xin vay nợ,
phạm vi thẩm tra đối với nước xin vay nợ gồm có: năng lực quản lý, chớnh sỏch kinh
tế vĩ mụ, chớnh sỏch kinh tế, chớnh sỏch tài chớnh tiền tệ, nền tảng tài chớnh, chế độ
tiền tệ, chế độ dự đoán ngân sách, chế độ quản lý chi tiêu…
Ngoài ra cũn tỡm hiểu cặn kẽ cỏc mặt sau đây của nước xin vay nợ: trỡnh độ kỹ
thuật, tỡnh hỡnh xuất khẩu, thu chi quốc tế, nợ nước ngoài, năng lực tích tạo ngoại
tệ, mức độ phụ thuộc vào nhập khẩu, kết cấu phân phối tài nguyên và khả năng có
được viện trợ của nước ngoài từ các nguồn khác. Thông thường, Ngân hàng thế giới
chỉ cung cấp các khoản vay vốn bằng ngoại tệ cần cho các dự án xây dựng, nước vay
nợ cũng phải trả nợ bằng ngoại tệ.
Ngân hàng thế giới có một bộ phận tương đối nhiều viên chức làm công tác
kiểm tra năng lực trả nợ của nước xin vay nợ, nếu có hoài nghi về năng lực trả nợ
của nước xin vay nợ thỡ Ngõn hàng thế giới sẽ khụng cho vay. Trong trường hợp đó,
để đảm bảo cho nước đó có khả năng trả nợ, thỡ cú thể để Hiệp hội phát triển quốc
tế cấp các khoản tín dụng ưu đói, hoặc Ngõn hàng thế giới và Hiệp hội phỏt triển
quốc tế cùng phối hợp cho vay.
Hiệp định Ngân hàng thế giới qui định rằng, nói chung chỉ xuất phát từ góc độ
kinh tế để xem xét có cho vay hay không, bất kể điều kiện chính trị và chế độ chính trị
của nước xin vay như thế nào. Ngân hàng thế giới không thể vỡ chế độ chính trị của
nước đó mà từ chối cho vay. Đối với những nước tịch thu tư bản nước ngoài, ngân
hàng cho rằng nước đó cần nỗ lực cùng với chủ đầu tư đạt được thoả thuận bồi
thường hợp lý. Nếu nước đó không dàn xếp được thoả đáng quyền được bồi thường
tịch thu và những tranh chấp tương tự thỡ ngõn hàng thường không cho vay nợ.
d) Trong những trường hợp sau đây Ngân hàng thế giới sẽ từ chối cho vay:
i) Dự án xin vay là dự án mà ngân hàng cho rằng không phải là dự án ưu tiên nhất đối
với sự phát triển kinh tế của nước xin vay, hoặc không thoả đáng, quá lớn, chuẩn bị
kém. Nếu ngân hàng nhận thấy có thể bổ cứu được thỡ ngõn hàng giỳp nước đó sửa
lại dự án để dự án có tính khả thi về kinh tế.
ii) Ngân hàng cho rằng nước xin vay có thể vay vốn cho dự án đó từ các nguồn khác
với những điều kiện hợp lý.
iii) Ngân hàng thấy rằng triển vọng trả nợ của nước xin vay không chắc
chắn.
iv) Ngân hàng cho rằng dự án xin vay vốn không thuộc phạm vi kinh doanh của ngân
hàng (ví như ngân hàng không có đủ chuyên gia để giám sát các khoản vay này).
Có một số nước đang phát triển đó tớch luỹ được những kinh nghiệm thành
công trong việc làm thế nào để vay vốn tại Ngân hàng thế giới được thuận lợi. Trước
hết họ làm cho dự án của họ phù hợp với kế hoạch của Ngân hàng thế giới. Điều đó
đũi hỏi phải thường xuyên trao đổi với ngân hàng thế giới, phân tích các văn kiện
của ngân hàng, lưu ý tới những vấn đề mà hội đồng giám đốc điều hành thảo luận,
để từ đó nắm được phương hướng chính sách, kế hoạch cho vay những năm tới của
ngân hàng và mức vốn mà nước mỡnh cú thể vay được. Hai là, họ căn cứ vào nhu
cầu phát triển kinh tế và các dự án xây dựng của nước mỡnh, lập ra danh mục cỏc
dự ỏn xin vay trong một thời gian tương đối dài, từng bước xin vay theo thứ tự ưu
tiên, để cố gắng không ngừng vay được các khoản vay mới. Ba là, họ lập ra tổ chức
chuyên đi lại với Ngân hàng thế giới, đặc biệt là ở giai đoạn đầu tiên lựa chọn dự án,
bố trí chuyên gia và nhân viên kỹ thuật cần thiết để ở vào thế chủ động khi cùng với
Ngân hàng thế giới xác định dự án ưu tiên và các việc liên quan.
2. Đặc điểm cho vay:
Tôn chỉ của Ngân hàng thế giới là cho vay sản xuất dài hạn đối với các nước
đang phát triển để thúc đẩy sự phát triển kinh tế và nâng cao năng suất lao động của
họ. Hoạt động cho vay này do Ngân hàng tái thiết và phát triển quốc tế và Hiệp hội
phát triển quốc tế cùng phối hợp tiến hành. Các khoản cho vay của Ngân hàng thế
giới khác với các ngân hàng thương nghiệp nói chung. Về đại thể có các đặc điểm sau
đây:
a) Thời hạn cho vay tương đối dài; ngắn là vài năm, dài nhất là 30 năm, trung
bỡnh khoảng 17 năm, thời kỳ hoón nợ khoảng 4 năm. Ngân hàng thế giới căn cứ vào
tổng giá trị sản xuất quốc dân đầu người của các nước vay nợ chia ra làm 4 loại.
Loại thứ nhất gồm những nước có tổng giá trị sản xuất quốc dõn bỡnh quõn đầu
người từ 410 USD trở xuống. Loại thứ hai gồm những nước có tổng giá trị sản xuất
quốc dân bỡnh quõn đầu người từ 411 USD đến 730 USD. Kỳ hạn cho vay đối với hai
loại nước nói trên là 20 năm, thời kỳ hoón nợ là 5 năm. Loại thứ ba gồm những
nước có tổng giá trị sản xuất quốc dân bỡnh quõn đầu người từ 731USD đến 1.170
USD, kỳ hạn cho vay là 17 năm, thời kỳ hoón nợ là 4 năm. Loại thứ tư gồm những
nước có tổng giá trị sản xuất quốc dân theo đầu người từ 1.171USD đến 1.895USD,
kỳ hạn cho vay là 15 năm, thời kỳ hoón nợ là 3 năm. Trong thực tế, các kỳ hạn cho
vay nói trên có thể co gión tuỳ theo tỡnh hỡnh cụ thể. Tiờu chuẩn về tổng giỏ trị sản
xuất quốc dõn bỡnh quõn theo đầu người cũng được điều chỉnh tuỳ theo mức lạm
phát. Phương thức trả vốn sau khi hết thời kỳ hoón nợ núi chung là chia bỡnh quõn
cho cỏc năm, cứ nửa năm trả một lần.
b) Lói suất tương đối ưu đói, tuy cú tham khảo thị trường tư bản, nhưng nói
chung thấp hơn lói suất ấy. Cú khoảng 70% vốn cho vay của ngõn hàng thế giới dựa
vào nguồn phỏt sinh trỏi khoỏn, cho nờn, lói suất cỏc khoản cho vay của ngõn hàng
phải tham khảo ló suất trờn thị trường. Nhưng do hiện nay ngân hàng có khoảng 10
tỷ USD vốn lưu động, khi lói suất trờn thị trường tư bản qua cao hoặc dao động lớn,
ngân hàng có thể không đi vay, chi phí cho vay tương đối ổn định.
Ngoài ra ngõn hàng cũn cú 7 tỷ USD tài sản thuần tuý, khụng phải trả lói (gốm
cú cổ phần thực gúp của cỏc nước thành viên và tiền dự trữ), khiến ngân hàng có thể
lấy lói suất thấp hơn thị trường tư bản. Sau khi ký hiệp định cho vay, thỡ từ ngày ký
thoả ứoc cho tới khi nợ được trả hết, lói suất khụng thay đổi. Ngân hàng thế giới thu
rất ít lệ phí cho vay, chỉ thu 0,75% chi phí cam kết đối với khoản vay chưa dùng tới
sau khi ký thoả ước.
c) Nước vay nợ phải gánh chịu rủi ro do hối suất biến động. Hiệp định cho vay
của Ngân hàng thế giới thường lấy đồng USD làm đơn vị tiền tệ. Khi người vay rút
vốn ngân hàng chi ra bằng đồng tiền mà họ có, qui đổi ra đô la Mỹ theo hối suất thích
hợp trong thời điểm người vay rút vốn. Khi trả nợ, người vay phải qui đổi ra đồng
tiền được sử dụng khi người vay rút vốn, do đó phải gánh chịu rủi ro do có biến động
về hối suất giữa đồng tiền ấy với đồng đôla. Tất cả các khoản vay mà ngân hàng thoả
thuân từ ngày 1/7/1980 về sau đều thực hiện theo phương pháp mới gọi là “chế độ
tổng kho tiền tệ”. Với chế độ này, những rủi ro do sự dao động giá trị đồng tiền mà
ngân hàng cho vay gây ra sẽ được chia bỡnh quan cho mọi người vay nợ cùng gánh
chịu.
d) Nói chung, các khoản cho vay phải gắn với những dự ỏn cụng trỡnh cụ thể.
Những dự ỏn này phải được ngân hàng chọn lựa kỹ lưỡng, hạch toán thật sự, giám
sát chặt chẽ và phân tích có hệ thống. Vỡ vậy, nước vay nợ phải cung cấp cho ngân
hàng tỡnh hỡnh và tài liệu thống kờ kinh tế tài chớnh cú liờn quan đến dự án và
chính bản thân dự án xin vay vốn. Hơn nữa, thông thường ngân hàng chỉ cung cấp
toàn bộ hoặc một phần ngoại tệ cần thiết trong chi phí xây dựng của dự án, thường
chiếm 30% toàn bộ vốn cần thiết cho dự án đó. Cũn phần chi bằng đồng tiền của
nước sở tại thỡ chỉ trong trường hợp đặc biệt, tức là trong trường hợp số vốn mà
nước vay nợ cần có vướt quá dự trữ trong nướnc và vượt quá mức mà các nguồn
khác trên thế giới có thể đáp ứng, ngân hàng mới giải quyết. Nếu ngân hàng chỉ cho
vay phần vốn ngoại tệ thỡ khụng cũn cỏch nào thoả món được nhu cầu về bộ phận
vốn vượt trội ấy.
e) Nợ phải được trả đúng hạn, không được dây dưa hoặc thay đổi hạnn trả nợ.
g) Nói chung, ngân hàng chỉ cho vay phần vốn bằng ngoại tệ của dự án, chiếm
khoảng 30 đến 40% tổng ngạch đầu tư của dự án, cá biệt cũng có trường hợp lên tới
50%. Do đó, đơn vị có dự án của nước vay nợ phải huy động đủ phần vốn trong nước
chiếm khoảng 50 đến 70% tổng ngạch đầu tư. Ngoại trừ trường hợp cá biệt, cũn thỡ
phần vốn vay bằng ngoại tệ khụng được dùng vào chi phí xây dựng phát sinh trong
nước. Vả lại, sau khi hiệp định cho vay được ký kết, ngõn hàng thế giới khụng chuyển
toàn bộ vốn vay cho nước vay nợ, họ chỉ ghi “có”số tiền đồng ý cho vay vào tài khoản
mang tờn của nước vay nợ. Nước vay nợ lập văn bản xin rút tiền từng đợt theo tiến
độ xây dựng công trỡnh trong dự ỏn. Sau khi thẩm tra, đối chiếu, ngân hàng trực tiếp
chuyển tiền trả cho chủ hàng hoặc chủ thầu và cứ như thế cho tới khi hoàn thành
công trỡnh. Do đó, nói chung, việc rút tiền chi trả từ một khoản vay theo dự án phải
kéo dài từ 5 đến 7 năm. Trong thời gian đó, từ số tiền đó được cam kết mà chưa
dùng tới phải rút ra 0,75% (đối với khoản cho vay của ngân hàng) hoặc 0,5% (đối
với tín dụng của hiệp hội) để nộp lệ phí cam kết.
h) Thủ tục chặt chẽ, tốn nhiều thời gian, phải qua các giai đoạn chọn lựa, bỡnh
xột, cho tới khi rỳt được tiền nói chung phải mất 1 năm rưỡi đến 2 năm. Nhưng điều
đó cũng có mặt nghiêm ngặt, khoa học của nó. Vỡ từ đó nước vay vốn có thể có được
những hiểu biết kỹ thuật và kinh nghiệm quản lý, cú lợi cho việc nõng cao hiệu quả
sử dụng vốn vay và năng lực trả nợ.
II – Chính sách cho vay.
Nội dung cơ bản trong chiến lược phát triển của ngân hàng thế giới là tăng
cường đầu tư trực tiếp vào các nước đang phát triển, giúp những nước này thay đổi
tỡnh trạng nghốo nàn, nõng cao mức sống của đông đảo quần chúng nghèo khổ.
Chiến lược phát triển này chủ yếu biểu hiện ở những nước, những khu vực được trợ
vốn và các dự án xây dựng. Nhất là việc trợ vốn của ngân hàng và Hiệp hội đối với
cỏc dự ỏn phỏt triển nụng nghiệp và nụng thụn ngày càng thể hiện rừ tư tưởng chiến
lược phát triển này. Nhiều năm gần đây, việc trợ vốn cho các nước đang phát triển
vẫn bảo lưu các dự án xây dựng đó trở thành truyền thống, nhưng ngân hàng luôn
luôn điều chỉnh những dự án này. Mục đích là nhằm đặt trọng điểm vào các dự án
xây dựng trực tiếp liên quan tới lợi ích của tầng lớp nghèo khổ nhất trong các nước
đang phát triển, để quần chúng nhân dân trực tiếp được lợi.
Khi mới thành lập, Ngân hàng thế giới chủ yếu cung cấp cho các nước đang
phát triển ở Tây Âu như: Pháp, Hà Lan, Bỉ các khoản cho vay khôi phục kinh tế sau
chiến tranh, đồng thời cung cấp cho các nước đang phát triển các khoản cho vay
phát triển kinh tế. Từ năm 1952 đến nay, chủ yếu cho vay đối với các nước đang phát
triển ở châu Á, châu Phi và Mỹ Latinh. Từ năm 1968 trở đi chỉ cho vay đối với các
nước đang phát triển.
Khi trợ vốn, Ngân hàng tái thiết và phát triển quốc tế và Hiệp hội phát triển
quốc tế căn cứ vào thu nhập bỡnh quõn theo đầu người của nước vay vốn để xác
định mức tiền của nước cho vay. Cả hai mặt này được kết hợp với nhau khi xem xét
vấn đề trợ vốn cho một nước.
Khi cam kết cho vay, Ngân hàng thế giới lấy mức thu nhập của nước thành viên
làm một nhân tố quan trọng để xem xét. Nhỡn chung, tỷ lệ cho vay của Ngân hàng
thế giới đối với nước có thu nhập thấp (tổng giá tri sản xuất quốc dân bỡnh quõn
theo đầu người dưới 371USD, tính theo giá trị đồng đô la Mỹ năm 1979) có thấp hơn
chút ít. Bởi vỡ Ngõn hàng cho rằng kết cấu kinh tế của những nước này có nhiếu
nhược điểm, khả năng trả nợ có hạn, nên chủ yếu để Hiệp hội phát triển quốc tế cấp
tín dung có ưu đói, cho nờn tỷ lệ cỏc khoản vay mà Ngõn hàng thế giới cung cấp với
lói suất sỏt với lói suất trờn thị trường có giảm đi.
Tỷ lệ các khoản vay mà Ngân hàng thế giới cấp cho những nước có mức thu
nhập trung bỡnh (tổng giỏ trị sản xuất quốc dõn binh quõn theo đầu người trong
khoảng từ 371 đến 1895USD) tăng lên nhiều. Sở dĩ Ngân hàng thế giới tăng các
khoản cho vay đối với các nước có mức thu nhập trung bỡnh là vỡ ngõn hàng cho
rằng với những dự ỏn ngõn hàng trợ vốn đó được chọn lựa kỹ lưỡng và sau khi nghe
theo ý kiến của ngõn hàng về phõn tớch chớnh sỏch được ngân hàng cho vay trợ vốn,
các nước này có thể thu được hiệu quả phát triển kinh tế tốt hơn và có nhiều khả
năng trả nợ hơn. Tỷ lệ các khoản cho vay của ngân hàng thế giới đối với những nước
có mức thu nhập cao ( tổng giá trị sản xuất quốc dân bỡnh quõn đầu người trên
1895USD) giảm mạnh. Vỡ rằng, cú khụng ớt nước trong số những nước này hiện đó
cú thể tự dựa vào vốn của mỡnh hoặc cú thể vay vốn từ cỏc nguồn khỏc, khụng cần
phải vay vốn của ngõn hàng thế giới nữa.
Cuối những năm 50 và đầu những năm 60 Ngân hàng tái thiết và phát triển
quốc tế cho vay chủ yếu đối với dự án công trỡnh hạ tầng như giao thông vận tải,
năng lượng… Ngân hàng thế giới cho rằng, nếu các nước đang phát triển có ngành
công nghiệp, công trỡnh hạ tầng thớch đáng thỡ nền kinh tế quốc gia của họ sẽ phỏt
triển. Nhưng trải qua một thời gian, thực tiễn cho thấy về cơ bản chiến lược phát
triến này đó coi nhẹ đầu tư nông nghiệp của các nước đang phát triển, khiến có nước
đang phát triển phải nhập khẩu lương thực, thâm hụt trong cán cân thanh toán quốc
tế. Về sau, ngân hàng tái thiết và phát triển quốc tế và Hiệp hội phát triển quốc tế đó
thay đổi trọng điểm dự án trợ vốn, tăng cường đầu tư cho các dự án phát triển nông
nghiệp và nông thôn của các nước đang phát triển, giảm trợ vốn cho các dự án về
công trỡnh hạ tầng.
Bắt đầu từ những năm 70 kết cấu cho vay của Ngân hàng thế giới có thay đổi
rừ rệt, từ kết cấu hạ tầng chuyển sang mục tiờu phỏt triển rộng lớn hơn, tăng mạnh
trợ vốn cho các dự án về nâng cao năng suất lao động để từ đó nâng cao mức sống ở
những vùng nghèo khổ nhất tại nông thôn và thành thị. Do vậy, cho vay phát triển
nông nghiệp và nông thôn tăng lên nhanh chóng, thể hiện cho vay đối với giáo dục
cũng tăng lên nhanh hơn. Ngoài ra, trong các dự án mới tăng lên về dân số, xây dựng
đô thị và du lịch, có nhiều dự án đó bổ sung thờm nội dung bảo vệ sức khoẻ và bảo vệ
mụi trường.
1. Phát triển nông nghiệp và nông thôn:
Thời kỳ dầu, ngân hàng thế giới chủ yếu cho vay đối với các dự án về xây dựng
kết cấu hạ tầng cơ bản, như đập nước, đường xá, bến cảng, để có lợi gián tiếp cho
phát triển nông nghiệp. Bây giờ các khoản cho vay trực tiếp đối với ngành nông
nghiệp cũng chủ yếu nhằm vào các dự án cấp và thoát nước cơ bản. Từ năm 1948
đến năm 1963, trên một nửa các khoản cho vay của Ngân hàng thế giới và Hiệp hội
phát triển quốc tế đối với ngành nông nghiệp được cấp cho các dự án về cấp nước,
thoát nước và chống lụt.
Khi cho vay đối với nông nghiệp, Ngân hàng thế giới thẩm sát kỹ lưỡng chính
sách phân phối trong nông nghiệp và chính sách giá cả của nước vay vốn, và đưa ra
những kiên nghị cải cách cần thiết. Ngân hàng cũn ngày càng chú ý cho vay để cái
tiến các phương tiện tiêu thụ hàng nông sản như kho chứa, xử lý, chế biến và vận tải.
Núi chung, khi cấp cỏc khoản cho vay đối với các dự án về nông nghiệp Ngân hàng
rất chú ý tới việc hiện đại hoá và tăng cường hệ thống phân phối, khiến chế độ giá cả
bảo đảm cho nông dân có được thù lao hợp lý.
Ngõn hàng thế giới cũn hết sức quan tõm tới việc đa dạng hoá sản xuất nông
nghiệp của các nước đang phát triển, họ ưu tiên trợ vốn cho các dự án đa dạng hoá
sản xuất, ủng hộ các biện pháp tăng sức cạnh tranh của sản phẩm sơ chế trên thị
trường và tăng công dụng của sản phẩm sơ chế.
Bắt đầu từ những năm 60, các khoản cho vay của ngân hàng thế giới đối với
nông nghiệp trở lên đa dạng hoá gồm hoạt động cải tiến canh tác, viện trợ kỹ thuật
và thúc đẩy nông thôn phát triển. Chính sách cho vay của Ngân hàng thế giới đối với
nông nghiệp từ chỗ chủ yếu giúp đỡ xây dựng kết cấu hạ tầng chuyển sang nâng cao
năng suất lao động, từ đó nâng cao mức sống ở nông thôn. Kết quả là cho vay phát
triển nông nghiệp và nông thôn trở thành khoản mục cho vay lớn nhât của ngân
hàng thế giới.
Sở dĩ Ngân hàng thế giới đặt việc giúp đỡ phát triển nông nghiệp và nông thôn
lên đầu là vỡ họ dần dần nhận ra rằng tuyệt đại bộ phận số dân trong các nước đang
phát triển sống bằng nghề nông, thế mà có tới gần một nửa số người ấy bị đói hoặc
thiếu dinh dưỡng. Nói chung, nghành công nghiệp của các nước đang phát triển lại
đều nhỏ yếu, hơn nữa, nếu chủ yếu sử dụng máy móc thỡ dự cú thục hiện đươnc công
nghiệp hoá một cách nhanh chóng cũng không thể thu hút hết số người đến tuổi lao
động không ngừng tăng lên.
Bởi thế, con đường có thể trực tiếp nâng cao một cách có hiệu quả nhất mức
sống của nhân dân các nước đang phát triển là giúp họ phát triển nông nghiệp
nhanh hơn. Ngân hàng thế giới tuyên bố rằng, họ trợ vốn cho các dự án phát triển
nông nghiệp và nông thôn chủ yếu là nhằm vào những tiểu nông và tá điền và cố
nông ở các vùng nông thôn, có tới khoảng 800 triệu người thu nhập hàng năm dưới
75 USD.
2. Năng lượng:
Các khoản cho vay của Ngân hàng thế giới với các ngành năng lượng chia làm
2 bộ phận: Điện lực và dầu mỏ, hơi đốt và than. Trong hai bộ phận này, đầu tư vào
điện lực vượt xa đầu tư vào các bộ phận khác. Trong năm 1969, Ngân hàng thế giới
đặc biệt coi trọng cho vay để phát triển nguồn năng lượng của các nước đang phát
triển, trong đó cho vay đối với ngành điện lực đứng hàng thứ hai trong chương
trỡnh cho vay của Ngõn hàng thế giới và Hiệp hội phỏt triển quốc tế, chiếm tỷ trọng
cao tới 30% tổng ngạch cho vay, trong tài khoá năm 1981 tuy đó giảm cũn 11%,
nhưng vẫn đứng hàng thứ hai.
Từ năm 1973, khi giá dầu mỏ tăng liên tục, WB cũng chú trọng giúp đỡ các
nước đang phát triển phải nhập dầu mỏ phát triển cả ngành sản xuất có thể tái sinh
nguồn năng lượng và ngành sản xuất không thể tái sinh nguồn năng lượng. Đối với
ngành có thể tái sinh nguồn năng lượng, ngoài việc tiếp tục coi trọng phát triển
nguồn tài nguyên thuỷ lực ra, ngân hàng cũn chỳ ý giỳp cỏc nước đang phát triển
giải quyết nhu cầu về chất đốt, phát triển phương pháp dùng nguyên liệu sinh vật
sản xuất cồn để thay thế dầu mỏ.
Mấy năm gần đây, cho vay đối với nhu cầu chất đốt tăng rất nhanh, chủ yếu là
trồng cây nuôi rừng; các dự án về sản xuất cồn, chỉ cần có tính khả thi về kinh tế là
được cho vay. Đối với ngành không thể tái sinh nguồn năng lượng, ngân hàng thế
giới và Hiệp hội phát triển quốc tế tăng nhanh các khoản cho vay về dầu mỏ, hơi đốt
và than.
3. Giáo dục:
Từ năm 1962 trở đi ngân hàng thế giới mới cấp vốn cho vay trong lĩnh vực giáo
dục, lúc đầu mức cho vay cũn ớt, những năm 70 có tăng nhanh hơn.
Qui tắc khi cấp vốn cho vay đối với giáo dục là:
Một khi điều kiện tài chính cho phép, ít nhất phải tiến hành giáo dục cơ bản tối
thiểu cho toàn thể nhân dân; hai, để tăng thêm tri thức và kỹ năng cả về số lượng và
chất lượng cho mọi người khiến họ có thể hoàn thành tốt hơn nhiệm vụ kinh tế, xó
hội và phỏt triển, cần phải nõng cao trỡnh độ giáo dục và đào tạo môt cách có lựa
chọn; ba, chế độ giáo dục toàn dân phải gồm cả chính quy và không chính quy; bốn,
để tăng mức sản xuất và bỡnh đẳng xó hội, phải tận dụng mọi khả năng để mọi
người đều có được cơ hội như nhau về giáo dục.
Ngân hàng thế giới chú trọng trợ vốn cho các dự án giáo dục cơ bản và đào tạo
lao động nông thôn của các nước nghèo, đồng thời giúp đỡ một cách có lựa chọn các
dự án nâng cao kỹ năng; cũn đối với các nước có trỡnh độ phát triển cao hơn thỡ
ngõn hàng chỳ trọng trợ vốn cho cỏc dự ỏn giỏo dục trung cấp và cao đẳng.
4. Công ty tài chính phát triển:
Về thưc tế, cho vay đối với các công ty tài chính phát triển cũng là cho vay đổi
với các ngành công nghiệp. Ngân hàng WB cũng cho các công ty tài chính phát triển
của các nước đang phát triển vay vốn, các công ty này đem lại vốn đó cho các xí
nghiệp sản xuất tại cơ sở vay, như vậy là WB nhờ vào các công ty tài chính phát triển
để cho các xí nghiệp loại vừa và nhỏ vay vốn. Làm như thế là WB sở tại, họ hiểu rừ
tỡnh hỡnh hơn, cho nên càng có thể cấp vốn tốt hơn cho những xí nghiệp cần thiết
nhất.
5. Kế hoạch dân số:
Mói tới thỏng 6/1970 WB mới cấp khoản cho vay đầu tiên cho kế hoạch dân số.
WB dần dần nhận ra rằng, dân số tăng nhanh là một trở ngại lớn đối với sư phát
triển kinh tế và xó hội của nhiều nước đang phát triển. Vỡ rằng, tỷ lệ sinh đẻ quá cao
buôc những nước này phải dùng một lượng vốn liếng lớn để duy trỡ mức sống thấp
trước mắt. Vỡ thế WB đó lập ra tiểu ban dõn số, bảo vệ sức khoẻ dinh dưỡng, vạch ra
chính sách cho vay đối với các dự án về dân số. WB phát hiện ra rằng, nhu cầu bức
thiết về lĩnh vực này của nhiều nước đang phát triển là chỉ đạo kỹ thuật chứ không
phải là viện trợ tài chính với quy mô lớn. WB đồng ý giúp chỉ đạo kỹ thuật trong lĩnh
vực này và sẵn sàng trợ vốn để các nước thành viên có được các phương tiện cần
thiết trong việc thực hiện sinh đẻ có kế hoạch.
6. Du lịch:
Trước năm 1969, trong các khoản cho vay của WB đối với các dự án về kết cấu
hạ tầng có cả dự án giao thông phục vụ ngành du lịch. Bắt đầu từ năm 1989, ngân
hàng lập ra tiểu ban dự án du lịch, thông qua tiểu ban này, WB tích cực cho vay đối
với các dự án về du lịch. Song, cho tới nay, cho vay của WB về lĩnh vưc du lịch vẫn chỉ
chiếm tỷ trọng rất nhỏ trong tổng ngạch cho vay.
Iii – các loại hình cho vay.
Trước đây, WB chỉ phân chia các khoản cho vay làm 2 loại là cho vay theo dự án
và cho vay không theo dự án. Việc cho vay thông qua tổ chức tài chớnh trung gian
dần dần hỡnh thành sau này, cũng được liệt vào loại cho vay theo dự án. Nhưng mấy
năm gần đây, để đáp ứng nhu cầu điều chỉnh kinh tế của những nước vay vốn, nhất
là nhu cầu của một số nươc châu Mỹ la tinh và châu Phi, WB đó lập ra loại cho vay
điều chỉnh kết cấu có tính chất chính sách và loại cho vay về điều chỉnh ngành. Hiện
nay, WB có những loại hỡnh cho vay chủ yếu sau đây:
1. Cho vay theo dự án:
Loại hỡnh nay cũn gọi là cho vay đầu tư cụ thể. Loại hỡnh cho vay là bộ phận
cấu thành chủ yếu trong nghiệp vụ cho vay của WB. Đại bộ phận các khoản cho vay
của WB đối với nông nghiệp, nông thôn, giáo dục, năng lượng, công nghiệp, giao
thông, phát triển đô thị và cấp nước đều thuộc loại này. Mục đích chủ ếu của loại
hỡnh cho võy này là tạo ra năng lực sản xuất mới, đào tạo nhân tài, tăng đầu ra của
đầu tư hoặc đảm bảo nhu cầu bảo trỡ, bảo dưỡng thích hợp. Trọng điểm của công
tác cho vay là phân tích khả thi về kỹ thuật, tài vụ và kinh tế của dự án đầu tư cụ thể,
cơ sở chính sách ngành liên quan trực tiếp với hiệu suất sản xuất của đầu tư, như giá
cả nguyên vật liệu và giá sản phẩm, hiệu suất của xi nghiệp, v.v… Việc đánh giá và
giám sát các khoản cho vay theo dự án chủ yếu do viên chức của ngân hàng đảm
nhiệm, thời gian thực hiện các khoản vay theo dự án thường từ 4 đến 9 năm.
2. Cho vay theo ngành:
a) Đầu tư theo ngành và cho vay bảo trợ
Trọng điểm của loai hỡnh cho vay này là cải thiện chớnh sỏch ngành và trọng
điểm đầu tư, tăng cường năng lực và thực hiện kế hoạch đầu tư của nước vay vốn,
đặc biệt là các nước có thu nhập trung bỡnh mà cơ cấu nghiệp vụ mạnh, do các
ngành hữu quan của các nước vay vốn đánh giá và giám sát dự án theo tiêu chuẩn
đó bàn bạc thống nhất với ngõn hàng thế giới. Do cơ cấu nghiệp vụ năng lực lập,
thực hiện kế hoạch đầu tư của các nước đang phát triển được tăng cường và do nhu
cầu nhấn mạnh vấn đề chính sách và thể chế ngành, mấy năm gần đây loại cho vay
này tăng lên rừ rệt. Trước mắt, đại bộ phận các khoản cho vay của WB đối với ngành
vận tải được áp dụng theo hỡnh thức cho vay theo ngành. Thời gian thực hiện của
cỏc khoản vay này thường là 3 - 7 năm.
b) Cho vay để điều chỉnh ngành:
Mục đích chủ yếu của các khoản cho vay để điều chỉnh ngành là giúp một ngành
cụ thể nào đó cải cách toàn bộ chính sách và thể chế, phạm vi mà nó liên quan tới hẹp
hơn so với cho vay để điều chỉnh kết cấu. Khi WB cho rằng năng lực thực hiện của
nước vay vốn không mạnh, mức độ cải cách quản lý kinh tế và chớnh sỏch kinh tế
quốc dõn chưa cho phép điều chỉnh kết cấu, thỡ cú thể cho vay để điều chỉnh ngành.
Loại cho vay này thường là cấp ngoại tệ cho nhu cầu nhập khẩu của ngành, dự kiến
của người hưởng lợi hoặc căn cứ vào tiêu chuẩn mà 2 bên đó bàn bạc thống nhất để
xác định người hưởng lợi. Thời gian thực hiện thường là 2-4 năm. Mấy năm gần đây,
việc cho vay của ngân hàng đối với nhu cầu điều chỉnh ngành có xu thế tăng lên, như
năm 1981 chỉ chiếm có 2% tổng ngạnh cho vay, năm 1987 đó tăng lên 19%.
c) Cho vay thông qua tổ chức tài chính trung gian
Cho vay thông qua tổ chức tài chính trung gian gồm có cho vay đối với ngành
tài chính phát triển và tổ chức tín dụng nông nghiệp. WB cấp vốn cho tổ chức tài
chính trung gian như là cấp cho dự án độc lập, rồi tổ chưc tài chính trung gian chia
ra cấp cho nhiều dự án. Việc lựa chọn dự án, trả lói suất hoàn nợ, đánh giá và giám
sát đều do tổ chức tài chính trung gian thực hiện theo tiêu chuẩn đó bàn định với
WB. Thời gian thưc hiẹn các khoản cho vay khoảng 3-7 năm.
3. Cho vay viện trợ kỹ thuật:
Mục đích là nhằm tăng cường năng lực hoạch định chính sách phát triển và
chuẩn bị dự án đầu tư cụ thể của các tổ chức hữu quan của các nước vay vốn. Có 2
loại viện trợ kỹ thuật:một loại có liên quan tới công trỡnh, là viện trợ vốn cho cụng
tỏc tư vấn kỹ thuật và tư vấn kinh tế đối với những dự án chuẩn bị đầu tư; một loại
có liên quan đến cơ cấu tổ chức là sự giúp đỡ phân tích và giải quyết các vấn đề cơ
cấu hoặc chính sách, cũng có thể là trợ vốn cho quy hoạch nền kinh tế quốc dân, cải
tiến xí nghiệp quốc doanh, quản lý kinh doanh. Thời gian thực hiện cỏc khoản nay
thường là 3-6 năm.
4. Cho vay để điều chỉnh kết cấu:
Các khoản cho vay này giúp cho nước vay vốn điều chỉnh và cải cách toàn diện
nền kinh tế vĩ mô,kinh tế ngành và thể chế, kết cấu kinh tế, sử dụng có hiệu quả hơn
nguồn tài nguyên, từ đó thực hiện cân dối thu chi quốc tế trung hạn, dài hạn bền
chắc hơn, duy trỡ tăng trưởng kinh tế trong điều kiện bất lợi và đặt cơ sở khôi phục
thế tăng trưởng trong thời gian sắp tới. Mục đích của loại cho vay này là: i) Giúp
nước vay vốn cải cách chính sách và thể chế kinh tế, nâng cao hiệu quả sử dung vốn,
tài nguyên, giảm thâm hụt thu chi quốc tế do kết cấu kinh tế gây ra. ii) Giúp nước vay
vốn điều chỉnh kết cấu kinh tế dạng thực phát triển để thích ứng với tỡnh hỡnh kinh
tế thế giới đó biến đổi. iii) Cung cấp cho nước vay vốn ngoại tệ dùng để nhập khẩu
nguyên liệu và linh phụ kiện cần thiết, duy trỡ và khụi phục tăng trưởng kinh tế, giúp
thu hút nguồn vốn từ bên ngoài.
WB cho vay để điều chỉnh kết cấu bắt đầu từ năm 1980. Họ áp dụng các điều
kiện cho vay để điều chỉnh kết cấu khá nghiêm ngặt, hà khắc. Một là, nước vay nợ
phải là nước vỡ kết cấu kinh tế ma rơi vào hoặc đứng trước tỡnh trạng thõm hụt lớn
trong chi tiờu quốc tế, khụng thể một lỳc mà xoay chuyển được tỡnh hỡnh. Hai là,
chính phủ nước vay vốn phải “đối thoại’’ với WB , chấp thuận và lập kế hoạch điều
chỉnh kết cấu, nội dung gồm có điều chỉnh chính sách xuất nhập khẩu, sửa đổi kế
hoạch đầu tư quốc gia, cải cách thể chế tổ chức, phải làm rừ mục tiờu lõu dài và
nhiệm vụ trước mắt. WB sẽ kiểm tra định kỳ viêc thực hiện kế hoach. Ba là, việc cấp
vốn cho vay để điều chỉnh kết cấu được tiến hành nhanh, nhanh nhất là 1 năm cấp 2
lần hết toàn bộ số vốn cam kết cho vay. Nhưng sau nửa năm nước vay nợ không thực
hiện các điều kiện đó định thỡ rỳt vốn đợt 2 sẽ bị đỡnh chỉ. Núi chung tỡnh hỡnh này
rất ớt xảy ra.
5. Cho vay tái thiết khẩn cấp:
Là giúp các nước thành viên đối phó với những ảnh hưởng thiên tai hoặc
những tai hoạ khác. Thí dụ như cấp vốn cho các nước bị động đất xây dựng lại sau
động đất. Mỗi khoản cho vay phải ứng với tỡnh hỡnh cụ thể về tớnh khẩn cấp. Thời
gian thực hiện cỏc khoản cho vay loại này thường là dưới 4 năm.
6. Cho vay liên hợp:
Đây không phải là 1 loại hỡnh cho vay cua WB mà là mụt hỡnh thức cho vay.
Tờn gọi sỏt hợp của nú phải là “cấp vốn chung”, tức là WB và các tổ chức khác cùng
cấp vốn cho dự án được WB trợ vốn. Có trường hợp WB và các tổ chức khác cấp vốn
cho các phần khác nhaucủa cùng một dự án, do WB đánh giá và giám sát thực hiện
dự án; có trường hợp WB chỉ giới thiệu gọi vốn cho kế hoạch xây dựng của dự án.
Chủ yếu có 4 nguồn vốn cho vay liên hợp: i) Vốn cho vay của WB. ii) Viện trợ của
chính phủ, gồm các chính phủ, các tổ chức viện trợ của các chính phủ và các tổ chức
tài chính nhiều bên ( như ngân hàng phát triển các khu vực, tổ chức chuyên ngành
của Liên hợp quốc, các nước A rập, v.v…). iii) Tổ chức tín dụng xuất khẩu, gồm các
ngân hàng xuất nhập khẩu và ngân hang thương nghiệp cấp tín uất khẩu. Loại quỹ
này trực tiếp liên quan tới các tổ chức mua hàng hoá dịch vụ từ một nước nào đó. iv)
Các tổ chức tài chính tư nhân, các công ty bảo hiểm, các quỹ trợ cấp và nguồn vốn tư
nhân khác.
Về cơ bản có 2 phương thức vay liên hợp:
i) Cho vay liên hợp song hành. WB và các tổ chức cho vay khác cùng xuất vốn
cho dự án mà WB cho vay vốn, các tổ chức làm việc theo quy định riêng của mỡnh.
ii) Cho vay liờn hợp theo hỡnh thức tổng hợp, khỏc với phương thức trên ở
chỗ không tách ra sử dụng riêng các nguồn vốn khác nhau, ma sử dụng chung cho
nhu cầu của dự án. Đối với các thiết bị không thể mua tách riêng ra được thỡ thường
áp dụng phương thức này.
7. Cho vay qua “cửa thứ 3”:
Cỏi gọi là cho vay qua “cửa thứ 3” cú nghĩa là loại hỡnh cho vay thứ 3 mà ngõn
hàng thế giới tăng thêm từ 2 loại hỡnh cú sẵn. WB vốn cú 2 loại hỡnh cho vay, một là
loại hỡnh cho vay thông thường do WB xuất vốn với điều kiện chặt chẽ, lói suất cao;
một loại hỡnh khỏc do tổ chức phụ thuộc WB là Hiệp hội phỏt triển quốc tế cho vay
ưu đói, điều kiện dễ dàng hơn, không lấy lói (chỉ thu 0,75% phớ thủ tục), hạn vay cú
thể tới 50 năm. Điều kiện cho vay của loại hỡnh cho vay qua “cửa thứ 3” mới đặt ra
này vào khoảng giữa 2 loại hỡnh trờn. Tức là điều kiện cho vay cua loại hinh này dễ
dàng hơn so với điều kiện cho vay của thông thường của WB. Để cấp các khoản cho
vay với lói suất thấp này phải lập ra “quỹ bự lói”. Quỹ này do cỏc nước giàu (các
nước công nghiệp và các nước sản xuất dầu mỏ tự nguyện ủng hộ). Quỹ này chi cho
WB 4% lói suất. Số chờnh lệch giữa lói suất cho vay thụng thường (8,5%) của WB và
lói suất (4%) do quỹ này bự đắp do nước vay nợ gánh chịu. Do đó, thực tế nước vay
nợ trả lói suất thụng qua “cửa thứ 3” chỉ cú (4,5%). Hạn vay cú thể tới 25 năm. Loại
hỡnh cho vay này chủ yếu ỏp dụng đối với nước có thu nhập thấp, tiêu chuẩn về mức
thu thấp để được cho vay theo loại hỡnh này là những nước có tổng giá trị sản xuất
quốc dân bỡnh quõn đầu người trong năm 1972 dưới 375 đô la Mỹ.
IV – Nguồn vốn của ngân hàng thế giới.
Vốn của WB có từ nhiều nguồn nhưng trong đề tài này chỉ đề cập đến một số
nguồn chủ yếu sau:
1.Vốn góp cổ phần của các nước thành viên :
Tất cả các nước thành viên tham gia ngân hàng thế giới phải góp cổ phần vào
ngân hàng.Khi mới thành lập ngân hàng vốn pháp định là 10 tỷ đô chia làm 100
ngàn của cổ phần. Theo quy định thỡ cỏc nước thành viên góp cổ phần thỡ tớnh theo
hàm lượng và tuổi vàng của đồng đô la Mỹ năm 1944. Theo quy định trước đây trong
Hiệp định ngân hàng thỡ cổ phần của cỏc nước thành viên được chia ra làm hai bộ
phận:
i) Khi tham gia các nước thành viên phải nộp 20% tiền cổ phần trong đó 2%
nộp bằng vàng hoặc đụ la Mỹ. Số tiền cổ phần này ngõn hàng cú quyền tự do sử
dụng. Cũn lại 18% được đóng bằng đồng tiền của các nước thành viên, với sự đồng ý
của cỏc nước này mới có quyền mang số tiền này đi cho vay. Số tiền bằng đồng tiền
của các nước thành viên mà chưa dùng tới sẽ được gửi vào ngân hàng trung ương
của các nước thành viên ấy hoặc là nước thành viên làm một phiếu chi không kỳ hạn
không có lói đề tên ngân hàng thế giới rồi gửi vào ngân hàng trung ương hoặc ở tổ
chức khác của nước thành viên. Nếu đồng tiền của các nước thành viên góp cổ phần
vào Ngân hàng thế giới mà mất giá thỡ nước thành viên ấy phải bù vào phần hao
hụt do mất giá bằng đồng tiền của nước mỡnh tớnh theo hối suất đó thay đổi. Ngược
lại đồng tiền của các nước thành viên lên giá thỡ ngõn hàng hoàn trả các nước
thành viên phần dôi ra do đồng tiền của họ tăng giá.
ii) 80% tiền cổ phần cũn lại là tiền gốc cổ phần chờ gúp chỉ khi nào Ngõn hàng
thế giới gọi gúp để ngân hàng trả nợ hoặc bảo trợ cho vay thỡ cỏc nước thành viên
phải góp bằng vàng , đô la Mỹ hoặc bằng tiền mà ngân hàng cần. Các nước thành
viên phải góp ngay không được mươn cớ vỡ cú một hoặc một số nước chưa góp để
từ chối . Khi số tiền mà ngân hàng gọi góp không đủ trả nợ thỡ cú quyền gọi gúp tiếp
cho tới khi đủ để trả nợ nhưng không thể đũi hỏi bất kỳ nước thành viên nào góp quá
mức phần gốc cổ phần chờ góp. Nhưng phần gốc cổ phần chờ góp vốn này là bảo
đảm mạnh mẽ để ngân hàng vay nợ trên thị trường tiền tệ quốc tế. Do vậy thỡ
trường tiền tệ quốc tế là nguồn vốn chủ yếu nhất của Ngân hàng thế giới.
Năm 1959 Hội đồng quản trị Ngân hàng thế giới quyết định vốn pháp định lên
tới 21 tỷ đô các nước thành viên có thể tăng cổ phần của mỡnh lờn gấp đôi. Nhưng
bộ phận cổ phần thực góp của các nước thành viên lại không tăng lên tương ứng do
đó bộ phận cổ phần thực góp chỉ bằng 10% cổ phần trong đó số nộp bằng vàng và đô
la chỉ có 1% góp bằng tiền của nước thành viên là 9% bộ phận gốc cổ phần tăng lên
tương ứng bằng 90%.
Từ nửa cuối năm 1975 đến nay IBRD quyết định tăng vốn của họ làm 2 giai
đoạn
Giai đoạn 1: các nước thành viên có thể không góp vốn theo tỷ lệ cố định như
vậy IBRD có thể tăng vốn của mỡnh lờn một cỏch cú lựa chọn. Vỡ nền kinh tế thế giới
phỏt triển khụng đều có nước thành viên kinh tế phát triển rất nhanh ngân hàng có
thể tăng vốn của các nước này. Tới 5/1976 theo quy định của IBRD số vốn tăng có
lựa chọn khoảng 8.4 tỷ $. Tới năm 1979 vốn pháp định đó tăng lên tới 340 ngàn cổ
phần .
Giai đoạn 2: 4/1/1980 Hội đồng quản trị của Ngân hàng thế giới lại thông qua
"Nghị quyết về tăng tổng số vốn", vốn pháp định lại tăng thêm 331.500 cổ phần bằng
khoảng 40tỷ $, các nước thành viên có thể tăng mức cổ phần lên một cách tương
ứng. Nhưng khi tăng bộ phận cổ phần này thỡ số cổ phần thực gúp đang từ 10% tụt
xuống cũn 7.5% trong đó bộ phận góp bằng vàng hoặc đô la Mỹ chỉ cũn 0.75%, bộ
phận gúp bằng tiền của cỏc nước thành viên cũn 6.75%. Để lần tăng vốn này không
làm suy giảm quyền biểu quyết của một số nước nên Hội đồng quản trị thông qua
một nghị quyết khác tăng thêm 33.500 cổ phẩn vốn pháp định mỗi nước thành viên
có 250 cổ phần nhưng không phải góp tiền cổ phần. Nghị quyết cũn quy định rằng
nếu 331.500 cổ phần tăng lên lần này mà vượt quá 40 tỷ đô la thỡ trờn phiếu ghi
mức cổ phần phải giảm xuống bằng 40 tỷ đô la mức góp cổ phần của mỗi thành viên
giảm xuống.
Theo quy định trong hiệp định về ngân hàng vốn của các nước thành viên chia
làm hai phần là vốn thực góp và phần chờ góp. Vốn thực góp bằng khoảng 10% vốn
cổ phần chủ yếu được dùng để chỉ nghiệp vụ ngân hàng. 90% vốn cổ phần cũn lại gọi
là vốn chờ góp. Vốn chờ góp vẫn do các nước thành viên giữ dùng để đảm bảo lợi ích
của người có trái khoán ngân hàng không dùng để cho vay và chi trả hành chính.
Việc sử dụng vốn chờ góp do tỡnh hỡnh vốn trả nợ của ngõn hàng quyết định. Nếu
ngân hàng thiếu tiền trả nợ tới hạn thỡ ngõn hàng thụng bỏo cho cỏc nước thành
viên giao nộp vốn chờ góp, mức nộp do ngân hàng quyết định. Nếu có nước thành
viên không nộp được vốn chờ góp thỡ cũng khụng thể tăng hoặc giảm mức góp của
các nước thành viên khác. Gọi góp lần thứ nhất không đủ sử dụng thỡ cú thể gọi tiếp
cho tới khi đủ để trả nợ tới hạn. Khi ngân hàng tăng cổ phần mà nước thành viên
được ưu tiên góp cổ phần không thực hiện quyền ưu tiên của họ thỡ cú thể để nước
thành viên khác góp thay vốn cổ phần. Như vậy cổ phần của nước thành viên góp
thay cũng tăng lên. Sau nhiều lần tăng vốn tới 1987 vốn pháp định tương đương 80
tỷ đô la.
2. Vốn vay :
Vốn thực cú của Ngõn hàng thế giới rất cú hạn và Ngõn hàng thế giới khụng thể
lấy tiền gửi ngắn hạn làm nguồn vốn chủ yếu của mỡnh. Lúc đó Ngân hàng thế giới
gom vốn chủ yếu bằng cách phát hành trái khoán thông qua thị trường tài chính các
nước và quốc tế. Trong tổng số vốn mà ngân hàng cho vay có khoảng 70% là nhờ vào
phát hành trái khoán. Với đà phát triển nhanh chóng của nghiệp vụ cho vay số vốn
mà ngân hàng gom được bằng cách phát hành trái khoán cũng tăng lên không
ngừng. Năm 1970 vốn vay là 753 triệu đôla, năm 1980 mà 5,173 tỷ đôla, năm 1986
là 10,607 tỷ đôlam , tới ngày 30/7/19987 nợ chưa trả cũn 79,420 tỷ đôla trong đó
nợ ngắn hạn chiếm 5,66%, nợ trung hạn và dài hạn là 94,34%.
a) Phương thức vay vốn:
Ngân hàng thế giới vay vốn chủ yếu bằng hai phương thức bán trái khoán: Một
là, bán trái khoán trung hạn và ngắn hạn cho các chính phủ, các cơ quan của chính
phủ và ngân hàng trung ương các nước thành viên; hai là, bán trái khoán trên thị
trường đầu tư tư nhân thông qua các đại lý trung gian như ngân hàng đầu tư, ngân
hàng thương nghiệp. Trong hai phương thức này thỡ tỷ trọng bỏn ra của phương
thức sau tăng lên không ngừng, mấy năm gần đây đó vượt quá 2/3 tổng ngạch vốn
vay của hai phương thức này, có thời gian thậm chí bằng 3/4.
Hạn vốn vay bằng phương pháp thứ nhất tương đối ngắn. Như tới ngày
30/6/1979 khoảng 8 tỷ đôla vốn vay bằng phương thức này có hạn vay bỡnh quõn
3,75 năm, khi hết hạn thỡ chuyển thành trỏi khoỏn mới, khụng phải trả nợ. Ngõn
hàng coi vốn vay ngắn hạn của cỏc chớnh phủ cỏc nước thành viên, lói suất được
điều chỉnh định kỳ này là nguồn vốn thường xuyên. Trong đó chủ yếu là trái khoán kỳ
hạn hai năm bán cho ngân hàng trung ương hoặc các tổ chức của chính phủ, đó liờn
tục bỏn ra hơn hai chục năm, mỗi năm bán hai lần. Trong những năm 50, kim ngạch
mỗi lần bán ra là 50 triệu đôla. Những năm gần đây kim ngạch bán ra mỗi lần lên tới
350 triệu đôla, lượng mua thường vượt mức. Trong đó có các trái khoán như trái
khoán đôla kỳ hạn hai năm hàng ngày có báo giá trên báo chí tài chính.
Kỳ hạn vốn vay bằng phương pháp thứ hai, phát hành trái khoán trên thị
trường đầu tư tư nhân thỡ tương đối dài. Như tới ngày 30 tháng 6 năm 1979,
khoảng 18 tỷ đôla vốn vay tư nhân có hạn vay bỡnh quõn là 7 năm. Người mua trái
khoán lại này rải rác khắp thế giới, có ngân hàng, công ty bảo hiểm, quỹ dưỡng lóo,
người được uỷ thác, các tổ chức tài chính và các nhà đầu tư tư nhân,… Phương thức
vay vốn này là bán trái khoán trên thị trường đầu tư tư nhân thông qua các đại lý
trung gian. Trỏi khoỏn cú phỏt hành được thuận lợi hay không chủ yếu là do lựa
chọn hóng đại lý trung gian có thích hợp hay không. Ngân hàng thế giới căn cứ vào
năng lực nghiệp vụ và khả năng nắm vững tỡnh hỡnh thị trường để lựa chọn hóng
đại lý trung gian, chứ không căn cứ vào các yếu tố về tiếng tăm hoặc các yếu tố về
chính trị, xó hội. Chức năng của hóng đại lý trung gian là phát hành trái khoán của
ngân hàng chứ không phải là ở chỗ họ mua và nắm giữ những trỏi khoỏn này. Mõý
năm gần đây Ngân hàng thế giới thường có trong tay khoảng 10 tỷ đôla vốn lưu
động, khiến họ có khả năng linh hoạt khá lớn trong việc xác định kế hoạch vay vốn.
b) Phương thức vay vốn:
Đối với mỗi khoản vay vốn, Ngân hàng thế giới đều phải vay theo thủ tục nhất
định. Cứ đầu mỗi tài khoá, Hội đồng giám đốc điều hành phải xem xét thẩm tra kiến
nghị của chủ tịch ngân hàng về kim ngạch vốn vay trong tài khoá ấy. Ban tài vụ phụ
trách giữ liên lạc thường xuyên với thị trường tư bản chủ yếu và phụ thuộc mà ngân
hàng có thể vay vốn, nắm vững lói suất, chớnh sỏch tiền tệ và tỡnh hỡnh thi chi quốc
tế của họ. Hầu như ngày nào Ban tài vụ cũng phải giữ liên lạc bằng điện tín với các
hóng đại lý trung gian rải khắp các nước, không ngừng thu thập tin tức tài chính có
liên quan trên thị trường tư bản để cung cấp cho cơ quan hữu quan lựa chọn vay
vốn. Các hóng đại lý trung gian và ngân hàng đưa ra các kiến nghị hoặc khai giá với
Ngân hàng thế giới. Cuối cùng, Ngân hàng thế giới quyết định: từ lúc bắt đầu tới khi
kết thúc, mỗi khoản vay vốn phải mất thời gian, ngắn là một tuần, dài có khi đến hai
tháng. Mỗi năm Ngân hàng thế giới vay khoảng 40 khoản bằng nhiều loại tiền.
Thường có 4-5 viên chức ngân hàng chuyên lo mọi công việc từ lúc đặt vấn đề, soạn
thảo văn bản đến lúc đàm phán. Chủ tịch và phó chủ tịch chủ quản tài vụ thường
xuyên tự thẩm tra kỹ lưỡng mỗi khoản vay, sau đó chủ tịch ngân hàng trỡnh từng
khoản lờn Hội đồng giám đốc điều hành thẩm duyệt.
c) Chi phí vay vốn và hạn vay:
Tuy mức vay vốn của Ngân hàng thế giới tăng lên không ngừng, nhưng do họ có
thể vay trên nhiều thị trường quốc tế bằng nhiều loại tiền, và do họ có một lượng lớn
vốn lưu động, họ sẽ không vay khi lói suất trờn thị trường tư bản quá cao hoặc dao
động quá lớn, cho nên chi phí vay vốn của họ tương đối ổn định.
Trong số trái khoán do Ngân hàng thế giới phát hành loại kỳ hạn 2-5 năm
chiếm tỷ trọng lớn nhất, sau đó nữa là loại có kỳ hạn 6-10 năm, sau đó là loại có kỳ
hạn 11 năm trở lên, loại kỳ hạn 1 năm chiếm tỷ trọng nhỏ nhất.
d) Chính sách vay vốn:
Chính sách cơ bản của Ngân hàng thế giới, trong vấn đề vay vốn là: phân tán thị
trường vay vốn để đề phũng quỏ phụ thuộc vào một thị trường. Như vậy, khi thị
trường nước nào đó, mức dự trữ giảm, lói suất quỏ cao hoặc thu chi quốc tế ở vào
thời kỳ mất cân đối, thỡ ngõn hàng cú khả năng linh hoạt tạm thời không vay vốn
trên thị trường ấy.
Đó từ lõu, để không phụ thuộc vào một thị trường tư bản quốc tế cụ thể nào đó,
phân tán nợ trên nhiều thị trường tư bản quốc tế, Ngân hàng thế giới vay vốn từ
nhiều nguồn. Hiện nay ngân hàng vay vốn của các tổ chức tài chính và tư nhân tại
hơn 100 nước (khu vực) ở Châu Phi, Châu á, Châu úc, Châu Âu. Khu vực Trung Cận
Đông là con nợ lớn nhất trên thế giới, đồng thời cũng là chủ nợ lớn nhất toàn cầu.
Hiện nay, nhỡn từ gúc độ mức độ chưa trả, thị trường chủ yếu mà Ngân hàng thế
giới vay vốn là Đức, Mỹ, Nhật, Thuỵ sĩ và tổ chức các nước xuất khẩu dầu lửa. Thích
ứng với điều này Ngân hàng thế giới lựa chọn đồng tiền vay nợ với điều kiện có lợi
nhất và tránh quá phụ thuộc vào một thị trường. Tuy đồng đô la Mỹ từ trước tới nay
là đồng tiền chủ yếu mà Ngân hàng thế giới sử dụng để vay vốn, nhưng những năm
gần đây tỷ trọng sử dụng đồng mác Đức, đồng Phrăng Thuỵ sĩ và đồng yên Nhật
tăng nhanh.
Một phương châm khác mà Ngân hàng thế giới tuân thủ khi cho vay là: không
gánh chịu rủi ro do giá trị đồng tiền thay đổi, mà do nước vay vốn của Ngân hàng
phải gánh chịu. Biện pháp mà Ngân hàng thế giới áp dụng là, khi Ngân hàng thế giới
cho vay, nước vay vốn vay bằng đồng tiền nào thỡ khi trả nợ và lói cũng phải trả
bằng đồng tiền ấy. Nói chung, ngân hàng thực hiện 6-7 năm mới hết một khoản cho
vay. Trong thời gian đó, trong tay có đồng tiền nào thỡ ngõn hàng cho vay bẳng đồng
tiền ấy. Như vậy ngân hàng có thể cho một nước vay bằng nhiều đống tiền khác
nhau. Khi trả nợ, nước vay vốn cũng phải trả bằng những đồng tiền ấy.
Tuy nước vay nợ phải gánh chịu rủi ro do giá trị đồng tiền thay đổi, nhưng khi
gom vốn, ngân hàng vẫn xuất phát từ lợi ích của nước vay vốn, cố gắng giảm rủi ro
này. Khi tính toán đúng đồng tiền nào để cho vay, ngân hàng lấy mức chênh lệch khi
đó giữa lói suất của đồng tiền ấy với lói suất của cỏc đồng tiền chủ yếu khác so sánh
với mức tăng (hoặc giảm) giá trị có thể xảy ra trong tương lai giữa đồng tiền ấy với
các đồng tiền chủ yếu khác.
Mấy năm nay, sở dĩ Ngân hàng thế giới hầu như đều cho vay bằng đồng mác
Đức, đồng yên Nhật và đồng phrăng Thuỵ sĩ, là vỡ họ cho rằng mức chờnh lệch giữa
lói suất của đồng đô la Mỹ và lói suất của ba đồng tiền ấy vượt mức mất giá của
đồng đô la Mỹ, cho vay bằng đồng đô la Mỹ là mạo hiểm. Cách làm này của Ngân
hàng thế giới khiến nước vay vốn có được hai điều lợi là: vay vốn với lói suất thấp và
tớnh lại giỏ trị đồng đô la Mỹ.
Ngân hàng thế giới không thực hiện cách cho vay khoản nào dùng vào khoản
ấy, khi chỉ định khoản cho vay nào chỉ chuyên dùng vào hạng mục nào hoặc chỉ cho
nước nào vay. Vốn lưu động của Ngân hàng thế giới có từ các nguồn khác nhau, như
tiền cổ phần do các nước thành viên góp, thu nhập rũng tồn trữ, vốn và lói do cỏc
nước vay nợ hoàn trả. Các khoản vốn vay bằng cách phát hành trái khoán cũng là
một trong những nguồn vốn lưu động ấy. Vốn lưu động này gồm có khoảng 40 loại
tiền khác nhau, cho nên, căn bản không thể xác định nguồn nào chuyên dùng cho dự
án nào.
e) Bảo đảm tín dụng cho vay:
Trái khoán của ngân hàng thế giới được tín nhiệm nhất trên thị trường tài
chính quốc tế, vỡ ngõn hàng cú bảo đảm tín dụng tốt đối với những trái khoán đó. Sự
bảo đảm này có từ các nguồn sau:
i) Vốn của Ngân hàng thế giới, ngoài tiền cổ phần thực góp của các nước
thành viên ra cũn cú lượng tiền gốc cổ phần chờ góp có thể trưng gom bất cứ lúc nào
làm hậu thuẫn.
ii) Hiệp định về ngân hàng thế giới quy định rằng, số dư cho vay của ngân
hàng không được vượt quá mức vốn cổ phần (gồm cả tiền cổ phần thực góp và tiền
gốc cổ phần chờ góp) cộng với kim ngạch dự trữ, tức là tỷ lệ cao nhất cũng chỉ là
1/1. Nói chung tỷ lệ giữa cho vay và vốn của ngân hàng thương nghiệp là 15/1 thậm
chí 20/1.
iii) Ngõn hàng thế giới luụn luụn cú lói, hơn nữa mức lói rũng đang tăng lên
không ngừng.
iv) Nói một cách tương đối, thời hạn mà Ngân hàng thế giới cho vay, thị
trường mà họ đi vay và hạn vay của họ đều đa dạng hoá.
v) Từ ngày khai trương doanh nghiệp tới nay chưa xảy ra trường hợp nào
ngân hàng không thu hồi được vốn. Điều đó nhờ vào việc ngân hàng kiên quyết phản
đối trỡ hoón hạn trả nợ. Ngõn hàng chưa bao giờ cho vay đối với nước không đáng
tin cậy. Ngân hàng bỏ nhiều thời gian, công sức để đánh giá nhu cầu ngoại tệ và viễn
cảnh phát triển kinh tế của nước thành viên xin vay vốn. Ngân hàng thẩm tra kỹ
lưỡng mức thu lợi về kinh tế và tài vụ của những dự án được trợ vốn.
g) Lựa chọn thời cơ và thị trường vay vốn:
Bằng cách đi vay mà Ngân hàng thế giới có lượng vốn lớn. Khi ngõn hàng vay
vốn thỡ họ đó nghiờn cứu vấn đề có thể nảy sinh khi trả nợ. Điều đáng chú ý là việc
cân nhắc, lựa chọn của họ khi vay nợ. Nếu dự tính có thể vay được mức vốn cần cho
sự phát triển nghiệp vụ của họ, lói suất trờn thị trường tư bản quốc tế lại thớch hợp,
thỡ họ lại tỡm cỏch gom vốn. Trỏi lại, nếu lói suất cho vay trờn thị trường tư bản
quốc tế khá cao, hoặc hạn vay không thích hợp, thỡ họ khụng vay. Như vậy họ ít phải
trả nợ, tồn trữ một bộ phận vốn lưu động ngắn hạn để duy trỡ hoạt động bỡnh
thường của ngân hàng.
Những năm gần đây Ngân hàng thế giới đặc biệt chú ý tỡnh hỡnh thị trường
thế giới, tăng cường điều tra, nghiên cứu thị trường, căn cứ vào tỡnh hỡnh thực tế
để quyết định kim ngạch và thời cơ vay vốn. Trong cuộc khủng hoảng kinh tế phương
Tây năm 1979-1982, có nước ở đó lói suất của tư bản quốc tế quá cao, Ngân hàng
thế giới đó trỏnh vay vốn cú lói suất cao, họ tới nước khác gom vốn.
3.Thu nhập rũng
Từ ngày khai trương vào năm 1947 tới nay, trừ năm đầu có lỗ chút ít, cũn
những năm sau Ngân hàng thế giới đều có lói. Mức thu nhập rũng mỗi năm một
tăng. Năm 1977, thu nhập rũng đạt 209 triệu đôla, năm 1980 đạt 585 triệu đôla,
năm 1986 đạt 1,243 tỷ đôla, năm 1987 có giảm đôi chút đạt 1,112 tỷ đôla. Thu nhập
rũng của ngõn hàng chủ yếu từ lợi tức cho vay và lói đầu tư, như năm 1987, lợi tức
cho vay đạt 5,878 tỷ đôla, lói đầu tư 1,504 tỷ đôla, trừ đi chi phí vay vốn và chi hành
chính, cũn lại 1,112 tỷ đôla thu nhập rũng.
Ngõn hàng thế giới khụng phõn phối thu nhập rũng cho cổ đông. Trừ tặng
biếu Hiệp hội phát triển quốc tế và cho quỹ đặc biệt khu vực châu Phi phía nam
Xahara, cũn đều giữ lại làm tiền dự trữ, làm vốn tự có của ngân hàng. Cho tới ngày
30 tháng 6 năm 1987, tổng cộng số tiền này lên tới 6,576 tỷ đôla, bằng khoảng
8,68% tổng kim ngạch đó cho vay. Khoản vốn này ngõn hàng cú thể tự do sử dụng.
Xét về căn bản, mức thu nhập rũng trong những nghiệp vụ của Ngõn hàng thế
giới được quyết định ở chỗ họ kịp thời điều chỉnh lói suất cho vay theo điều kiện trên
thị trường dao động trong một thời gian dài, Ngân hàng thế giới thường xuyên điều
chỉnh lói suất cho vay. Hiện nay, cứ mỗi quý điều chỉnh một lần. Điều quan trọng hơn
nữa là hiện Ngân hàng thế giới có gần 10 tỷ đôla tiền vốn không phải trả lói ( gồm cú
tiền cổ phần thực gúp của cỏc nước thành viờn và tiền dự trữ), giỳp ngõn hàng cú
thể thu lói suất thấp mà vẫn cú thu nhập rũng lớn.
4.Thu hồi vốn
Trong năm 1987, số vốn Ngân hàng thế giới cho vay đó tới hạn thu hồi để lại
cho vay là 5,776 tỷ đôla.
5.Chuyển nhượng vốn
Ngõn hàng thế giới cũn chuyển nhượng nợ cho các nhà đầu tư tư nhân, chủ
yếu là ngân hàng thương nghiệp, để thu lại một phần vốn nhằm tăng khả năng quay
vũng của đồng vốn cho vay.
V - đIểm qua các mốc lịch sử của ngân hàng thế giới.
1/1944: Hội thảo tài chính tiền tệ Liên hiệp quốc xây dựng điều khoản về Ngân hàng thế giới
trong hiệp định Bretton Wood, New Hampshire, Mỹ với 44 nước tham dự. Mục tiêu
chính của tổ chức mới này là tái thiết Châu Âu sau thế chiến II.
2/1946: Ngân hàng thế giới chính thức bắt đầu hoạt động vào 25 tháng 6. Đơn xin vay vốn
đầu tiên là của Chile, Tiệp khắc, Đan mạch, Pháp, Luxemburg, Ba lan.
3/1947: Khoản vay đầu tiên trị giá 250 triệu đôla cấp cho Pháp.
4/1948: Khoản vay phát triển đầu tiên trị giá 13,5 triệu đôla cấp cho Chile.
5/1951: Phần lan và Nam tư là hai nước đầu tiên trả hết nợ vay.
6/1956: Tổ chức tài chính quốc tế (IFC) được thành lập với tư cách là một chi nhánh của
Ngân hàng; tổ chức này cho khu vực kinh tế tư nhân ở các nước đang phát triển vay
vốn, với tổng số vốn là 100 triệu đôla.
7/1960: Tổ chức phát triển quốc tế (IDA) được thành lập với tư cách là một chi nhánh của
Ngân hàng; tổ chức này cho các nước nghèo nhất thế giới vay vốn với tổng số vốn
ban đầu là 912,7 triệu đôla.
8/1963: Bài phát biểu “ tôi có một giấc mơ” của Martin Luther King con tại đài tưởng niệm
tổng thống Lincoln vào ngày 28/8. 18 nước Châu phi mới dành độc lập gia nhập
Ngân hàng thế giới. Ngân hàng đưa ra chương trỡnh tuyển dụng và đào tạo nhân
viên trẻ ( hiện gọi là chương trỡnh nhõn viờn trẻ ).
9/1970: Cam kết mới của Ngân hàng lần đầu tiên vượt mức 2 tỷ đôla.
11/1974: Chủ tịch Ngân hàng thế giới Robert McNama phát biểu tại hội nghị thường niên và
lần đầu tiên xoá đói giảm nghèo trở thành nhiệm vụ quan trọng nhất của Ngân hàng.
12/1980: Cộng hoà nhân dân Trung hoa cử đại diện tham gia và nhanh chóng trở thành nước
vay vốn nhiều nhất.
13.1992: Báo cáo phát triển thế giới của Ngân hàng thế giới tập trung vào vấn đề môi trường.
14/1994: Ngân hàng công bố chương trỡnh hỗ trợ người Palestine sống ở Bờ Tây và Giải
Gaza với giá 1,3 tỷ đôla để họ chuyển đổi sang chế độ tự trị.
15/1998: Ngân hàng lần đầu tiên tổ chức chương trỡnh Thị trường Phát triển để trao thưởng
cho những sáng kiến trong lĩnh phát triển.
16/1999: Ngân hàng áp dụng khuôn khổ phát triển toàn diện (CDF) .
17/2000: Toàn cầu hoá trở thành tâm điểm của các phong trào đấu tranh chống IMF và Ngân
hàng thế giới tại Hội nghị thường niên tại Prague.
18/2002: Các nước Châu phi đưa ra Chương trỡnh hợp tác phát triển Châu phi mới (NEPAD)
dưới sự hỗ trợ của Ngân hàng thế giới. Ngân hàng thế giới và đối tác của mỡnh đưa