Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

GIẢI PHÁP NHẰM GÓP PHẦN NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG THẨM ĐỊNH TÀI CHÍNH DỰ ÁN ĐẦU TƯ TẠI NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG HOÀN KIẾM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (132.63 KB, 12 trang )

GIẢI PHÁP NHẰM GÓP PHẦN NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG THẨM
ĐỊNH TÀI CHÍNH DỰ ÁN ĐẦU TƯ TẠI NGÂN HÀNG CÔNG
THƯƠNG HOÀN KIẾM
I. Giải pháp nhằm góp phần nâng cao chất lượng thẩm định tài
chính dự án đầu tư tại NHCT Hoàn Kiếm
1. Nâng cao trình độ cho cán bộ thẩm định
Năng lực của cán bộ thẩm định là yếu tố quan trọng nhất, quyết định
chất lượng của công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư. Do đó, để hoàn
thiện công tác thẩm định cần phải hoàn thiện yếu tố con người. Với cán bộ
thẩm định đòi hỏi phải có trình độ, hiểu biết và phẩm chất đạo đức vì họ
chính là những người thu thập và xử lý thông tin cần thiết của dự án đầu tư.
- Để có được những cán bộ giỏi, kinh nghiệm và đạo đức tốt, trước hết
ngân hàng cần phải chú trọng khâu tuyển dụng. Trong tuyển chọn, bố trí cán
bộ cần kết hợp hài hòa giữa năng lực chuyên môn và tư chất đạo đức. Cần
hướng dẫn cho nhân viên mới nắm rõ mục tiêu, quy định của Ngân hàng và
các chế độ chính sách pháp luật liên quan.
- Trong quá trình làm việc cán bộ không chỉ đòi hỏi giỏi, năng động
linh hoạt mà còn đòi hỏi có đạo đức, kinh nghiệm, khả năng giao tiếp với
khách hàng, thu hút khách hàng, nhạy bén với thông tin… Muốn thế ngân
hàng phải tạo ra các hoàn cảnh điều kiện phù hợp để cán bộ mạnh dạn và
phát huy hết những phẩm chất đó của mình.
- Nâng cao trình độ nghiệp vụ cho cán bộ thẩm định. Ngân hàng cần
thường xuyên cho các cán bộ thẩm định tham gia các lớp đào tạo ngắn hạn
1
1
về nghiệp vụ thẩm định, các buổi tọa đàm trao đổi kinh nghiệm, cung cấp
thông tin thẩm định,…
- Ngân hàng nên có những đãi ngộ hợp lý với những cán bộ làm việc
tốt, có thành tích tốt để tạo cho họ một sự động viên khích lệ trong công
việc. Hiện nay tại ngân hàng CTHK cán bộ tín dụng phải làm luôn cả công
việc thẩm định do đó có quá nhiều công việc chồng chất nhau dẫn đến hiệu


quả không cao. Ngân hàng nên có một phòng thẩm định riêng để giúp cán bộ
thẩm định làm việc có hiệu quả hơn.
2. Nội dung, phương pháp thẩm định tài chính dự án đầu tư cần
đầy đủ, khoa học và chính xác hơn
- Có thể nói rằng thẩm định tài chính là khâu cần thiết nhất trong việc
xác định dự án có hiệu quả hay không. Chính vì vậy cần quan tâm hơn đến
khâu thẩm định tài chính dự án đầu tư. Trước hết để hỗ trợ cho cán bộ thẩm
định, Ngân hàng có thể xây dựng những quy trình, phương pháp thẩm định
tài chính cụ thể cho các dự án phân theo nhóm ngành nghề nhất định để cán
bộ thẩm định có thể tránh hay chú trọng đối với những dự án có đặc điểm ,
điều kiện khác nhau. Tuy vậy khi thẩm định một dự án phải thẩm định đầy
đủ các nội dung trong công tác thẩm định, và trong từng nội dung phải xem
xét kĩ tìm những giải pháp hợp lý để không mang tính hình thức, phải khoa
học, chính xác và đáp ứng được mục tiêu chung.
- Chú ý thẩm định tính đầy đủ của vốn đầu tư
Ngân hàng cần xem xét đầy đủ từng bộ phận trong tổng vốn đầu tư:
Vốn đầu tư cho tài sản cố định, vốn lưu động dòng, vốn dự phòng, vốn tài
trợ cho các chi phí khác. Trong đó cần chú ý đến vốn đầu tư cho tài sản cố
2
2
định, vì nó chiếm tỉ trọng lớn trong tổng vốn đầu tư, ngân hàng cần căn cứ
vào bản thiết kế công trình để xem xét đầy đủ các hạng mục các thiết bị, số
lượng và đơn giá. Ngân hàng cần xem xét giá trị còn lại trên sổ sách, giá trị
sau khi đánh giá lại xem có hợp lý không. Chủ đầu tư thường giảm bớt tổng
vốn đầu tư xuống để dễ vay vốn ngân hàng hơn. Vì thế khi xem xét ngân
hàng không nên chú ý nhiều đến những bảm tường trình của chủ đầu tư mà
cần xem xét các bản thiết kế tuỳ theo các lĩnh vực mà tính toán tổng vốn đầu
tư cho hợp lý và chính xác. Điều này giúp ngân hàng tránh được những rủi
ro cần thiết khi dự án đi vào thực hiện như thiếu vốn, dự án đình trệ.
- Trong quá trình thẩm định về nguồn vốn vay cần chú ý khi đánh giá

về nguồn tài trợ, cần đặc biệt xem xét điều kiện cụ thể của từng nguồn vay:
Trước hết ngân hàng cần đánh giá xem dự án khi vay cần bao nhiêu vốn vay
và tỷ trọng của vốn chủ sở hữu chiếm có nhiều không. Thông thường các
ngân hàng thường cho không cho vay các dự án mà có vốn chủ sở hữu nhỏ.
Điều này lại ngược lại với tâm lý của chủ đầu tư, họ chỉ muốn đầu tư nhiều
nhờ nguồn vốn vay chứ không phải từ nguồn chủ sở hữu là chính. Chính vì
thế ngân hàng cần xem xét kĩ lưỡng dự án phân tích xem nguồn tài trợ gồm
những bộ phận nào, điều kiện của từng nguồn vay, nhất là về lãi suất, thời
hạn trả, từ đó đánh giá liệu dự án có gánh nặng về trả nợ hay không. Hai
nguồn trả nợ chính của dự án là lợi nhuận sau thuế và khấu hao, nhưng điều
này được ngân hàng rất ít quan tâm, vì thế khi rủi ro xảy ra chủ đầu tư không
phải chỉ trả nợ mỗi ngân hàng mà nhiều chủ nợ khác.
- Nâng cao độ chính xác khi dự toán các yếu tố doanh thu chi phí,
dòng tiền của dự án: Đây là khâu quan trọng, và khó khăn nhất. Để dự đoán
3
3
được các yếu tố này chính xác ngân hàng cần xem xét kĩ dự án. Các chỉ tiêu
này không phải chỉ dự đoán trong thời gian gần mà suốt cả đời của dự án.
Các chỉ tiêu tính toán về chi phí sản xuất, giá thành sản phẩm và các
chỉ tiêu phản ánh hiệu quả của dự án, ngân hàng cần tính toán một cách hợp
lý, chính xác theo các chỉ tiêu như chi phí cố định, chi phí biến đổi, tổng chi
phí. Ngân hàng cần đặc biệt chú ý đến nguồn nguyên liệu đầu vào, xem xét
chúng nhập từ trong nước hay nước ngoài, từ đó tính toán các chi phí hợp lý.
Để xác định được doanh thu ngân hàng phải chú trọng đến 3 yếu tố
chính đó là công suất thực hiện, mức tiêu thụ và giá bán sản phẩm, muốn dự
đoán được công suất thực hiện thì khâu thẩm định kĩ thuật phải chính xác.
Ngân hàng cần xem mức độ phù hợp của công nghệ và trang thiết bị về
chủng loại số lượmg,…công việc này đòi hỏi cán bộ thẩm định phải hiểu
biết về kĩ thuật. Muốn dự đoán được mức tiêu thụ và giá bán sản phẩm thì
khâu thẩm định thị trường phải là chính xác. Ngân hàng có thể ngiên cứu đối

thủ cạnh tranh, nghiên cứu điểm mạnh yếu, cơ hội rủi ro của doanh nghiệp,
của sản phẩm, đánh giá chất lượng sản phẩm, tiến hành định vị sản phẩm
trên thị trường, đồng thời áp dụng các mô hình thống kê, kinh tế lượng để
xác định mức tiêu thụ và giá bán. Ngân hàng cũng nên tham khảo các dự báo
về tình hình kinh tế, tình hình thị trường.
- Lựa chọn những chỉ tiêu phản ánh hiệu quả tài chính phù hợp với
những đặc điểm của từng dự án.
Trong quá trình thẩm định dự án có rất nhiều các phương pháp và chỉ
tiêu khác nhau. Dù ngân hàng có các dự đoán chính xác đến đâu thì cũng
không thể nói nó chính xác hoàn toàn được. Vì vậy cần tìm ra các chỉ tiêu
4
4
phù hợp với những dự án có những đặc điểm khác nhau, các chỉ tiêu mà ta
thường thấy đó là :
+ NPV: Khi sử dụng NPV như một tiêu chuẩn để đánh giá dự án đầu
tư, ta phải phân biệt giữa hai tình huống. Trường hợp thứ nhất ta coi dự án
đầu tư độc lập với những dự án khác. Trường hợp thứ hai ta phải lựa chọn
một trong các dự án loại trừ nhau. Khi sử dụng chỉ tiêu này Ngân hàng nên
tính với các mức lãi suất khác nhau, với những dự án dài hạn thì nên sử dụng
kết hợp với những phương pháp IRR, thời gian hoàn vốn.
+ IRR: Suất hoàn vốn đo lường tỷ lệ hoàn vốn của một dự án đầu tư,
nó cũng được sử dụng làm tiêu chuẩn để xem xét dự án. Tương tự NPV, khi
sử dụng IRR lên một tiêu chuẩn đầu tư ta cần phân biệt giữa hai trường hợp
như vậy. Chỉ tiêu này cũng rất được chú ý với những dự án dài hạn.
+ Chỉ tiêu hoàn vốn: Thời gian hoàn vốn (PP) của một dự án là độ dài
thời gian để thu hồi toàn bộ khoản đầu tư ban đầu của dự án. Theo phương
pháp đánh giá thời gian hoàn vốn, nếu rút ngắn được thời gian hoàn vốn sẽ
tốt hơn cho một dự án đầu tư. Chỉ tiêu này cho phép đo lường mức độ rủi ro
của dự án, và cũng là chỉ tiêu để ngân hàng đánh giá xem dự án có bảo đảm
đủ tiến độ hoàn trả nợ của dự án hay không?

+ Ngoài các chỉ tiêu trên ngân hàng còn có thể sử dụng các chỉ tiêu
khác như PI, MIRR, tỷ lệ lợi ích chi phí- BCR.
Nói chung với mỗi một dự án đầu tư ngân hàng chỉ nên áp dụng
những chỉ tiêu nào phù hợp để áp dụng. Sau đó tổng hợp lại và đưa ra quyết
định đúng đắn. Điều quan trọng trong việc tính toán các chỉ tiêu trên là ngân
hàng phải lấy một mức lãi suất chiết khấu hợp lý. Các ngân hàng thường lấy
lãi suất cho vay làm lãi suất chiết khấu nhưng điều này là không hợp lý.
5
5

×