LÝ THUYẾT VỀ ĐỊNH GIÁ GIÁ TRỊ GIẢI TRÍ VÀ GIÁ TRỊ PHI SỬ
DỤNG CỦA MỘT VƯỜN QUỐC GIA
1.1. Vườn Quốc gia và Tổng giá trị kinh tế của Vườn Quốc gia
1.1.1.Vườn Quốc gia và sự cần thiết đánh giá giá trị của VQG
1.1.1.1 Vườn Quốc gia
Vườn Quốc gia là một vùng đất tự nhiên được thành lập để bảo tồn hệ sinh thái
chuẩn của một đất nước. Đó là một khu rừng đặc dụng được quản lý và bảo vệ nghiêm
ngặt nhằm bảo vệ lâu dài một hay nhiều hệ sinh thái, bảo đảm các yêu cầu cơ bản sau:
1- Là vùng đất tự nhiên bao gồm mẫu chuẩn của các hệ sinh thái cơ bản (còn
nguyên vẹn hoặc ít bị tác động của con người); các nét đặc trưng về sinh cảnh của các loài
động, thực vật; các khu rừng có giá trị cao về mặt khoa học, giáo dục và du lịch.
2- Là vùng đất tự nhiên đủ rộng để chứa đựng được một hay nhiều hệ sinh thái
và không bị thay đổi bởi những tác động xấu của con người; tỷ lệ diện tích hệ sinh thái
tự nhiên cần bảo tồn phải đạt từ 70% trở lên.
3- Là khu vực có điều kiện về giao thơng tương đối thuận lợi.
Hiện nay, Việt Nam đã thành lập 28 VQG phân bố ở cả ba miền, được quản lý
bảo vệ theo quy chế quản lý rừng đặc dụng. Việc quản lý VQG được phân cấp giao cho
Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn trong trường hợp VQG nằm trên địa bàn của
nhiều Tỉnh, còn lại giao cho Ủy ban nhân dân Tỉnh quản lý nếu VQG nằm trên địa bàn
một địa phương.
Mỗi VQG đều được thành lập một ban quản lý. Ban quản lý là chủ rừng, được
giao đất lâm nghiệp và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, chịu trách nhiệm quản
lý, bảo vệ và xây dựng khu rừng được giao.
Do tầm quan trọng của bảo tồn mà Vườn Quốc gia được chia thành các phân khu
chức năng như sau:
- Phân khu bảo vệ nghiêm ngặt: là khu vực được bảo toàn nguyên vẹn, được
quản lý bảo vệ chặt chẽ để theo dõi diễn biến tự nhiên; nghiêm cấm mọi hành vi làm
thay đổi cảnh quan tự nhiên của khu rừng. Đây là những khu vực có rừng ngun sinh,
có tính đa dạng sinh học cao được bảo vệ nghiêm ngặt.
- Phân khu phục hồi sinh thái : Là khu vực được quản lý, bảo vệ chặt chẽ để
rừng phục hồi, tái sinh tự nhiên; nghiêm cấm việc du nhập những lồi động vật, thực
vật khơng có nguồn gốc tại khu rừng. Thông thường đây là khu vực đang được khoanh
nuôi để rừng tái sinh tự nhiên.
- Phân khu dịch vụ - hành chính : Là khu vực để xây dựng các cơng trình làm
việc và sinh hoạt của Ban quản lý, các cơ sở nghiên cứu - thí nghiệm, dịch vụ du lịch,
vui chơi giải trí.
Đồng thời, để ngăn chặn những tác động xấu, Vườn Quốc gia phải thiết lập vùng
đệm. Vùng đệm là vùng rừng, vùng đất hoặc vùng đất có mặt nước nằm sát ranh giới
với các Vườn Quốc gia; có tác động ngăn chặn hoặc giảm nhẹ sự xâm phạm khu rừng
đặc dụng. Mọi hoạt động trong vùng đệm phải nhằm mục đích hỗ trợ cho công tác bảo
tồn, quản lý và bảo vệ khu rừng đặc dụng; cấm săn bắn, bẫy bắt các loài động vật và
chặt phá các loài thực vật hoang dã là đối tượng bảo vệ. Diện tích của vùng đệm khơng
tính vào diện tích của khu rừng đặc dụng.
Vùng đệm của VQG thường có dân cư sinh sống. Dân cư sống trong VQG chủ
yếu được ổn định tại chỗ phải chấp hành nghiêm chỉnh Luật Bảo vệ và Phát triển rừng,
phải tuân theo các quy định của Ban quản lý khu rừng đặc dụng. Không được di dân từ
nơi khác tới VQG và vùng đệm.
Trong Vườn Quốc gia, có thể xây dựng nhiều điểm, tuyến du lịch dịch vụ theo
nguyên tắc vừa khuyến khích phát triển các hoạt động du lịch để du khách hiểu thêm
giá trị của VQG, vừa không được làm ảnh hưởng xấu đến mục tiêu bảo tồn.
1.1.1.2 Sự cần thiết định giá giá trị của VQG
Định giá giá trị của một VQG hay khu bảo tồn là cơng việc khó khăn song có ý
nghĩa quan trọng và đã được thực hiện tại nhiều quốc gia trên thế giới. Đó là việc sử
dụng các cơng cụ kỹ thuật nhằm lượng giá giá trị bằng tiền của các tài sản môi trường
là các VQG làm cơ sở cho việc hoạch định chính sách về khai thác, sử dụng và quản lý
VQG.
Ở Việt Nam, việc định giá giá trị của tài sản môi trường là một VQG hay khu
bảo tồn thiên nhiên còn mới mẻ song nếu thực hiện được sẽ có ý nghĩa như sau:
Thứ nhất, Nhà nước đang thực hiện đầu tư rất lớn bằng ngân sách cho hoạt động
bảo tồn các hệ sinh thái cảnh quan VQG song lợi ích thu được mới chỉ được nhìn nhận
định tính. Lượng giá giá trị của VQG hay khu bảo tồn thiên nhiên sẽ giúp nhìn nhận lợi
ích từ công tác bảo tồn đầy đủ hơn, cụ thể hơn.
Thứ hai, định giá giá trị VQG giúp tránh gây thiệt hại tới vốn tài nguyên thiên
nhiên quan trọng, chẳng hạn tính đa dạng sinh học, sự tồn tại của các lồi q hiếm…
và cảnh báo những dự án có tác động tới VQG.
Thứ ba, trong một số trường hợp việc lượng giá giá trị bằng tiền của tài sản môi
trường là cơ sở để Nhà nước cân nhắc khi đưa ra một quyết định ảnh hưởng đến vốn tự
nhiên; là cơ sở để Nhà nước xác định mức đền bù hoặc bồi thường khi cá nhân, tổ chức
gây tổn hại đến tài sản tự nhiên.
Thứ tư, khi tài sản môi trường được định giá tức giá trị của chúng được thừa nhận
gồm cả giá trị sử dụng và giá trị phi sử dụng từ đó nâng cao nhận thức về môi trường của
cộng đồng và đưa ra những chỉ dẫn trong quá trình ra quyết định kinh tế của VQG.
1.1.2. Tổng giá trị kinh tế của một Vườn Quốc gia
Vườn Quốc gia là một tài sản môi trường nên tổng giá trị kinh tế của một VQG
về nguyên tắc có thể xem xét thông qua các thành phần giá trị của một tài sản môi
trường.
Các nhà kinh tế học đã rất thành công khi phân loại giá trị kinh tế của một tài sản
mơi trường. Mặc dù thuật ngữ có thể chưa được thống nhất hoàn toàn, nhưng phương
pháp luận này đặt cơ sở cho việc giải thích về sự hình thành của giá trị trên cơ sở sự
tương tác giữa chủ thể con người - người định ra giá trị và khách thể - vật được đánh
giá. Về tổng quan, để đo lường tổng giá trị kinh tế của một tài sản mơi trường nói chung
và một VQG nói riêng, các nhà kinh tế học bắt đầu bằng việc phân biệt giữa giá trị sử
dụng và giá trị phi sử dụng.
Giá trị sử dụng là những lợi ích thu được từ việc sử dụng nguồn tài nguyên trên
thực tế. Đơi khi cũng có thể hiểu giá trị sử dụng là giá trị các cá nhân gắn với việc tiêu
dùng một cách trực tiếp hay gián tiếp các dịch vụ do nguồn tài nguyên cung cấp. Ví dụ,
đối với một VQG hay một khu rừng, con người có thể thu được lợi ích từ gỗ làm nhà,
củi đốt; dùng cây cỏ làm thuốc; đi dạo trong rừng, ngắm nhìn các loài động thực vật
hoặc chiêm ngưỡng cảnh đẹp.
Giá trị sử dụng hình thành từ việc thực sự sử dụng tài sản mơi trường, trên thực
tế nó bao gồm:
Giá trị sử dụng trực tiếp là các sản phẩm hàng hoá, dịch vụ trực tiếp cung cấp
mà chúng ta có thể tính được giá cả và khối lượng trên thị trường.
Một quan điểm khác cho rằng giá trị sử dụng trực tiếp là các lợi ích nhận được
từ việc sử dụng trực tiếp tài sản và có thể được chia thành hai loại là sử dụng tiêu hao
và không tiêu hao. Chẳng hạn, giá trị sử dụng trực tiếp của rừng gồm giá trị sử dụng
tiêu hao như sản xuất gỗ, thực phẩm và các lâm sản ngoài gỗ khác; giá trị sử dụng
không tiêu hao bao gồm các hoạt động giải trí và các hình thái du lịch thậm chí chỉ là
xem hình ảnh phóng sự trên tivi.
Giá trị sử dụng gián tiếp là những giá trị chủ yếu dựa trên chức năng của hệ sinh
thái, có ý nghĩa về mặt sinh thái và mơi trường. Nói cách khác đây là các chức năng cơ
bản của môi trường gián tiếp hỗ trợ cho hoạt động kinh tế của con người. Chẳng hạn,
khả năng chống gió bão, khả năng hấp thụ cacbon là giá trị sử dụng gián tiếp của rừng.
Giá trị tuỳ chọn là lượng mà mỗi cá nhân sẵn sàng chi trả để bảo tồn nguồn lực
hoặc một phần nguồn lực để sử dụng cho tương lai. Đây là giá trị do nhận thức, lựa
chọn của con người đặt ra trong hệ sinh thái. Giá trị tuỳ chọn khơng có tính thống nhất
chung và cũng phải được tính về mặt tiền tệ theo tính chất lựa chọn của nó. Tuy nhiên,
trong một số trường hợp ranh giới giữa giá trị tuỳ chọn và giá trị không sử dụng là
khơng rõ ràng.
Giá trị phi sử dụng cịn gọi là giá trị không sử dụng hoặc giá trị chưa sử dụng và
thường trừu tượng hơn giá trị sử dụng.
Giá trị phi sử dụng là thành phần giá trị của một tài sản môi trường thu được
không phải do việc tiêu dùng một cách trực tiếp hay gián tiếp các các hàng hóa dịch vụ
do tài sản mơi trường cung cấp. Nó thể hiện các giá trị phi thị trường nằm trong bản chất
của sự vật, không liên quan đến việc sử dụng trên thực tế, hoặc thậm chí việc chọn lựa sử
dụng tài sản này. Thay vào đó các giá trị này được coi như những yếu tố phản ánh sự lựa
chọn của con người, sự lựa chọn có kể đến cả sự quan tâm đồng cảm và trân trọng đối
với quyền lợi hoặc sự tồn tại của các sinh vật không phải là con người. Các giá trị này
bao hàm cả nhận thức về giá trị tồn tại của các giống loài khác hoặc của cả quần thể hệ
sinh thái. Ví dụ, một cá nhân có thể cảm thấy hài lòng khi biết Vườn Quốc Gia Ba Bể tồn
tại, các loài đặc hữu vẫn được bảo vệ mặc dù họ chưa tới đó bao giờ, và chắc chắn cũng
khơng tới đó trong tương lai.
Giá trị phi sử dụng bao gồm các thành phần:
Giá trị để lại (Bequest value) là thành phần giá trị thu được từ sự mong muốn
bảo tồn và duy trì nguồn tài nguyên cho lợi ích của các thế hệ hiện tại và tương lai.
Chẳng hạn, người dân sống tại vùng cát Quảng Bình hiểu rằng cuộc sống của họ và con
cháu họ trong tương lai phụ thuộc rất nhiều vào rừng phịng hộ chắn cát bay. Họ sẵn
sàng đóng góp tiền bạc và cơng sức để duy trì rừng vì lợi ích của họ và con cháu họ.
Trong trường hợp này, mức sẵn sàng đóng góp của họ được xem là giá trị để lại, giá trị
lưu truyền cho thế hệ sau.
Giá trị tồn tại (Existence value) là giá trị của tài sản mơi trường có được từ nhận
thức rằng tài sản đó cịn tồn tại. Xét về tổng thể, xã hội cũng nhận được các lợi ích từ
hàng hố mơi trường ngồi sự hữu dụng liên quan tới việc sử dụng trực tiếp hay gián
tiếp. Sự tiêu dùng khơng có một hàng hố cụ thể nhưng rõ ràng các cá nhân cảm thấy
hài lòng khi biết một nguồn tài ngun nào đó vẫn cịn tồn tại. Rất khó giải thích tại sao
xã hội lại đánh giá các lợi ích này. Tuy nhiên, chúng ta biết rằng xã hội nói chung sẵn
lịng chi trả để bảo tồn các tài sản này. Trong các trường hợp như vậy lợi ích cho xã hội
đơn giản từ việc biết rằng các tài sản này đang tồn tại và đang được bảo vệ. Thành phần
này của tổng giá trị được biết đến như giá trị tồn tại.
Như vậy, giá trị tồn tại xuất phát từ nhận thức của con người về tài nguyên và
môi trường mà người ta cho rằng sự tồn tại của một cá thể hay một giống lồi nào đó có
ý nghĩa về mặt kinh tế khơng chỉ trước mắt mà còn cả lâu dài buộc người ta phải duy trì
giống lồi đó bằng mọi giá. Trong việc tính tốn giá trị này thì việc xác lập tiền tệ là
khó khăn nhưng sự xác lập nhận thức về mặt giá trị rất dễ dàng.
Về nguyên tắc các giá trị tồn tại là một động cơ quan trọng của nhiều nỗ lực bảo
tồn và cũng là cơ sở ban hành chính sách mơi trường. Một ví dụ thực tế là Đạo luật về
bảo vệ và bảo tồn các loài loài chim và các giống loài cây đang bị đe dọa tuyệt chủng
được áp dụng tại nhiều nước. Đạo luật của Mỹ năm 1973 về các loài đang bị nguy hiểm
là một điển hình về sự thừa nhận của Mỹ về giá trị tồn tại. Đạo luật đã chính thức lên
tiếng bảo vệ tính đa dạng sinh học của trái đất. Kết quả quan trọng của nó là hình thành
một danh sách chính thức về các sinh vật đang có nguy cơ tuyệt chủng, bất kể chúng có
giá trị sử dụng trực tiếp hay gián tiếp đối với con người. Ngoài ra, một bằng chứng xác
thực khác là sự sẵn lòng chi trả của xã hội cho hoạt động của các tổ chức bảo vệ môi
trường mà chương trình hành động của họ tập trung vào việc bảo tồn các loài động thực
vật.
Một nghiên cứu khá sớm khác về giá trị tồn tại của Krutulla (1967) cho rằng
“Khi đề cập đến một kỳ quan lộng lẫy hoặc một hệ sinh thái yếu ớt và duy nhất thì việc
bảo tồn và duy trì sự sẵn có là một phần quan trọng trong thu nhập thực của nhiều cá
nhân”. Điều này có nghĩa việc bảo tồn các giá trị của môi trường là mong muốn của
nhiều người khơng vì mục đích tiêu dùng của họ mà có thể là vì mục đích tiêu dùng của
người khác hoặc giữ gìn cho thế hệ tương lai.
Tiêu dùng của người khác nói đến ý niệm rằng các cá nhân đang đánh giá một
hàng hố cơng cộng vì lợi ích nó mang lại cho người khác cho dù bản thân những người
đó có biết hay khơng. Điều này cho thấy những lợi ích nhận được có tính phụ thuộc lẫn
nhau. Một cá nhân có thể nhận được lợi ích từ sự nhận thức rằng những người khác
đang được hưởng lợi từ hàng hố đó. Cịn giữ gìn cho thế hệ tương lai phát sinh từ ý
thức phải bảo vệ môi trường cho các thế hệ tương lai, từ sự công nhận giá trị tồn tại của
tài nguyên môi trường.
Một cách tổng quát, tổng giá trị kinh tế được hình thành từ giá trị sử dụng trực
tiếp và giá trị sử dụng gián tiếp được minh hoạ bằng công thức và sơ đồ sau:
TEV = UV + NUV hay TEV = (DUV + IUV + OV) + ( BV + EV)
trong đó:
DUV: Giá trị sử dụng trực tiếp
IUV:
Giá trị sử dụng gián tiếp
OV:
BV:
EV:
Giá trị lựa chọn
Giá trị để lại (giá trị lưu truyền)
Giá trị tồn tại
Tổng giá trị kinh tế
Giá
Giá trị SD trực tiếp trị SD gián tiếp Giá trị lựa chọn
Giá trị để lại
Giá trị tồn tại
Lợi ích có thể SD trực tiếptừ chức năng của MT gián tiếp của thế mong muốn bảo tồn cho việchệ sau các giá trị vẫn tồn tạ
Lợi ích
Lợi ích trực tiếp và
Lợi ích từ hệ tương lai Lợi ích từ thế biết rằng
- Thực phẩm- Sinh khối- Chức năng sinh thái- Chốngsinh bão -Bảo tồn MT sống giá trị không thểMT sống-Sự sống của các lồi
- Giải trí- Sức khoẻ- Đa dạng gió học- MT sống- Bảo tồn
- đảo ngược
Tính hữu hình giảm dần
Hình 1.1: Tổng giá trị kinh tế của mơi trường
Nguồn: Giá trị của tài sản môi trường, Monasinghe, 1992
1.1.3. Phương pháp định giá giá trị của một VQG
Tổng giá trị kinh tế của một VQG nói riêng và tổng giá trị của một tài sản mơi
trường nói chung thường được đánh giá thông qua giá trị sử dụng và giá trị chưa sử
dụng. Giá trị sử dụng là những giá trị nhận được từ việc sử dụng trực tiếp VQG bao
gồm giá trị thu được từ gỗ củi, thực phẩm, dược liệu và các sản phẩm phi lâm sản. Nó
cịn bao gồm giá trị từ chức năng sinh thái của VQG như khả năng hấp thụ cácbon, khả
năng chống gió bão cũng như giá trị cảnh quan du lịch, giá trị nghiên cứu khoa học…
Còn giá trị chưa sử dụng là giá trị của tài sản môi trường được đánh giá thông qua nhận
thức của những người đang sử dụng hoặc khơng sử dụng VQG. Nó được đánh giá bằng
sự sẵn lịng chi trả để bảo tồn tài sản mơi trường hoặc bằng lòng chấp nhận một mức đền
bù nếu tài sản môi trường bị xâm hại.
Đối với bộ phận giá trị sử dụng trực tiếp của VQG như giá trị thu được từ gỗ
củi, các sản phẩm phi lâm sản có thể xác định thơng qua giá thị trường. Bộ phận này là
giá trị hiện hữu và được xác định dễ dàng thông qua mức giá từng sản phẩm. Tuy nhiên,
với các VQG ở Việt Nam, giá trị này thường khơng thể hiện vì tồn bộ các sản phẩm
lâm sản hoặc phi lâm sản bị cấm khai thác cho mục đích thương mại.
Bộ phận giá trị sử dụng gián tiếp hoặc giá trị chưa sử dụng thường khơng có giá
trên thị trường, không tồn tại thị trường nên việc định giá phải sử dụng phương pháp
tạo dựng thị trường giả định hoặc đánh giá thơng qua một hàng hóa thay thế. Bốn
phương pháp có thể áp dụng để lượng giá các giá trị này là: Phương pháp định giá ngẫu
nhiên, Phương pháp chi phí du lịch, phương pháp chi phí cơ hội và phương pháp phân
tích sự thay đổi sản lượng.
Trong nghiên cứu này, hai phương pháp được sử dụng là phương pháp chi phí
du lịch và phương pháp định giá ngẫu nhiên. Cả hai phương pháp này đều tiếp cận dựa
trên quan sát hành vi của các cá nhân trong thị trường thực tế hoặc những câu trả lời từ
khảo sát thị trường giả định để đánh giá giá trị hàng hố mơi trường.
1.2. Phương pháp chi phí du lịch định giá giá trị giải trí của VQG
1.2.1. Phương pháp chi phí du lịch (TCM - Travel Cost Method)
Phương pháp chi phí du lịch là phương pháp được dùng để đánh giá giá trị kinh
tế của các hệ sinh thái cảnh quan, các VQG sử dụng cho mục đích giải trí. Đây là một
phương pháp về sự lựa chọn ngầm, có thể dùng để ước lượng đường cầu đối với các địa
điểm giải trí và từ đó đánh giá giá trị các cảnh quan này. Giả thiết cơ bản của phương
pháp TCM rất đơn giản đó là chi phí bỏ ra để đến một địa điểm tham quan phản ánh giá
trị của địa điểm giải trí đó. Vì vậy, chúng ta sẽ phỏng vấn khách tham quan xem họ từ
đâu đến, họ phải bỏ bao nhiêu chi phí cho chuyến đi… Từ những câu trả lời của du
khách, chúng ta có thể tính tốn chi phí du hành của họ và liên hệ với số lần tham quan
trong một năm.
Thông qua phương pháp này, các nhà phân tích có thể tìm được mối quan hệ
hàm số giữa giá một lần tham quan (chi phí du hành) và số lần tham quan được thực hiện.
TCM là một trong các kỹ thuật lượng giá những giá trị phi thị trường đã được sử
dụng từ năm 1974 do Hotelling đề xuất nhằm đánh giá giá trị của các Vườn quốc gia
của Mỹ. Sau đó, phương pháp này được áp dụng rất phổ biến trong các nghiên cứu
lượng giá giá trị của các loại hình giải trí ngồi trời như câu cá, săn bắn, du thuyền và
ngắm cảnh….hoặc đánh giá những thiệt hại ô nhiễm bằng việc quan sát sự thay đổi số
lượng du khách đến một địa điểm giải trí nào đó. Hiện nay, phương pháp chi phí du lịch
có thể sử dụng để đánh giá giá trị của các nguồn lực tự nhiên (VQG, bãi biển, công
viên) được sử dụng cho mục đích giải trí, hoặc đánh giá thiệt hại ơ nhiễm môi trường
thông qua việc quan sát sự thay đổi lượng khách du lịch đến với địa điểm giải trí.
Cơ sở lý thuyết phương pháp TCM dựa trên giả định chi phí về thời gian và chi
phí cho chuyến đi của du khách sẽ đại diện cho giá trị của địa điểm giải trí. Do đó, từ sự
bằng lịng chi trả của du khách cho chuyến đi và số lượt tham quan của du khách có thể
xây dựng đường cầu thể hiện mối quan hệ giữa số lượt tham quan và chi phí tham quan.
Sau đó, giá trị cảnh quan của địa điểm nghiên cứu được đánh giá như là tổng lợi ích của
du khách và được đo bằng phần diện tích dưới đường cầu.
Như vậy, TCM đánh giá giá trị các hàng hoá mơi trường khơng có giá thị trường
thơng qua hành vi tiêu dùng có liên quan tới thị trường. Đặc biệt, các chi phí phải bỏ ra
để được tiêu dùng các dịch vụ môi trường sẽ được xem như là sự thay thế cho giá của
các dịch vụ đó. Các chi phí này bao gồm chi phí đi lại, chi phí vào cửa, các chi phí khác
tại địa điểm giải trí và các chi phí cơ hội về thời gian mà du khách đã bỏ ra để có được
chuyến đi đến địa điểm giải trí.
1.2.2. Mơ hình lý thuyết hàm chi phí du lịch
Một cách tổng quát, chi phí du lịch của du khách i tới địa điểm giải trí j (TCij)
phụ thuộc vào một số biến:
TCij = TC(DCij , Tij , Fi) (1)
i = 1…n, j = 1…..m
Trong đó:
DCij là chi phí về khoảng cách. Chi phí này phụ thuộc vào độ dài quãng đường
tới điểm du lịch và phụ thuộc vào chi phí cho mỗi km đi lại.
Tij là chi phí thời gian. Chi phí này phụ thuộc vào thời gian để tới được điểm du
lịch và giá trị về thời gian của mỗi cá nhân.
Fi là phí vào cửa của địa điểm j.
Giả sử Vi là số lượt tham quan của du khách i tới địa điểm j, khi đó V i là biến
phụ thuộc vào chi phí của chuyến đi (TCij) và một số biến thể hiện đặc điểm xã hội của
du khách. Hàm biểu thị số lượt tham quan của du khách như sau:
Vi = a + b.TCij + c. INCi + d. EDUi + e. AGEi + f. SEXi.
Trong đó:
Vi là số lượt viếng thăm địa điểm j của du khách i
TCij: Chi phí của một lần viếng thăm địa điểm j
INCi: Thu nhập của du khách i
EDUi: Trình độ học vấn của cá nhân i
AGEi: Độ tuổi của du khách i
SEXi: Giới tính của du khách i
Hệ số a, b, c, d, e, f lần lượt là các hệ số cần được ước lượng.
Sau khi ước lượng được các hệ số tiếp tục xây dựng đường cầu mô tả mối quan
hệ giữa số lượt tham quan và chi phí tham quan. Phần diện tích nằm dưới đường cầu sẽ
thể hiện giá trị cảnh quan của địa điểm giải trí.
Một phương pháp tiếp cận khác có thể dựa trên mơ hình tối đa hố độ thoả dụng.
Xuất phát từ bài tốn tối đa hóa độ thỏa dụng của người tiêu dùng:
U(x,r,q)
trong đó:
max
x - là lượng hàng hóa tiêu dùng,
r - là số chuyến đi đến địa điểm giải trí,
q- là chất lượng của địa điểm.
Với hai giới hạn: giới hạn ngân quỹ, giới hạn thời gian có thể xác định 2 ràng buộc:
m + tww = x + cr
t w = t − (t1 + t 2 )r
trong đó: m- là thu nhập ngoại sinh, w- là mức lương, tw- là thời lượng dùng để làm
t
việc, c- là chi phí bằng tiền của mỗi chuyến đi, - là thời gian tổng cộng, t1- là thời gian
di chuyển cho một chuyến đi khứ hồi, t2- là thời gian ở tại địa điểm.
Kết hợp hai ràng buộc nói trên, ta có:
t
m + w = x + [c + (t1+t2)w]r
⇒ c + (t1+t2)w = pr là tổng chi phí cho mỗi chuyến đi. Bao gồm chi phí bằng
tiền cũng như chi phí cơ hội về thời gian dùng cho chuyến đi. Giải bài toán của người
tiêu dùng sẽ có được các hàm cầu cho x và r. Số chuyến đi tối ưu là một hàm của pr, m
và q hay r(pr,m,q).
1.2.3. Một số phương pháp tiếp cận chi phí du lịch
Có ba phương pháp tiếp cận chi phí du lịch để đánh giá giá trị giải trí gồm:
- Phương pháp tiếp cận chi phí du lịch theo vùng (ZTCM): sử dụng chủ yếu dữ
liệu thứ cấp và một số thông tin từ khách du lịch.
- Phương pháp tiếp cận chi phí du lịch của cá nhân (ITCM): sử dụng chủ yếu các
thông tin phỏng vấn được từ du khách.
- Phương pháp tiếp cận dựa trên độ thoả dụng ngẫu nhiên (RUA): sử dụng thông
tin từ điều tra và các nguồn dữ liệu khác kết hợp với một số kỹ thuật thống kê.
1.2.3.1 Phương pháp chi phí du lịch theo vùng (ZTCM)
Tiếp cận chi phí du lịch theo vùng (Zone Travel Cost Approarch) là cách tiếp cận
đơn giản và ít tốn kém. Để lượng giá giá trị cảnh quan thông qua chi phí du lịch bằng
phương pháp này cần thực hiện 7 bước:
Bước 1: Phân chia khu vực xung quanh địa điểm du lịch được nghiên cứu thành các
vùng du lịch cơ bản. Các vùng này có thể được phân chia theo các đường tròn đồng tâm kể
từ điểm du lịch nhưng cũng có thể phân chia theo khu vực hành chính có cùng đặc điểm
nào đó. Thơng thường, số liệu về dân số thu thập theo địa giới hành chính dễ dàng hơn thu
thập theo các đường tròn đồng tâm. Số lượng các vùng có thể tương đối lớn tùy theo đặc
thù của địa điểm nghiên cứu.
Bước 2: Thu thập thông tin về số lượng du khách tới từ các vùng khác nhau và tổng
số chuyến tham quan tới điểm du lịch ở thời điểm trước năm nghiên cứu. Thông tin về
lượng khách có thể thu thập từ số liệu thứ cấp tại địa điểm nghiên cứu hoặc thu thập từ các
cơng ty lữ hành.
Bước 3: Tính tỷ lệ du khách (VR- Visitation Rate) đến thăm điểm du lịch trên 1000
dân mỗi vùng. Tỷ lệ du khách đến thăm điểm du lịch được xác định bằng cách lấy tổng số
du khách đến điểm giải trí trong năm của mỗi vùng chia cho tổng dân số của vùng đó tính
theo đơn vị nghìn người.
Bước 4: Ước lượng khoảng cách trung bình và thời gian di chuyển từ các vùng tới
điểm du lịch. Giả định ở vùng 0 (vùng kề cận điểm du lịch) khoảng cách và thời gian đi lại
trung bình bằng 0. Khoảng cách trung bình và thời gian đi lại sẽ tăng dần theo khoảng cách
địa lý.
Sau khi ước lượng được khoảng cách trung bình và thời gian đi lại, người nghiên
cứu xác định tồn bộ chi phí đi lại. Chi phí đi lại có thể xác định dựa trên thông tin về loại
phương tiện sử dụng và mức chi phí trên mỗi km hoặc trên mỗi giờ.
Với chi phí cơ hội về thời gian dành cho chuyến đi thường có nhiều phức tạp hơn.
Cách đơn giản nhất để ước tính chi phí thời gian là xác định chi phí thời gian dựa trên mức
lương theo ngày.
Bước 5: Sử dụng phân tích hồi quy để tìm ra mối liên hệ giữa tỷ lệ du khách với chi phí
du lịch và một số biến xã hội quan trọng khác. Hàm mô tả mối quan hệ này sẽ có dạng:
Vzj = V(TCzj, Sz) (*)
Trong đó: Vzj là tỷ lệ du khách từ vùng Z tới địa điểm j,
TCzj là chi phí du lịch của du khách vùng Z tới địa điểm j,
Sz là các biến kinh tế - xã hội của du khách vùng Z.
Bước 6: Xây dựng đường cầu du lịch cho địa điểm nghiên cứu trên cơ sở kết quả
của phân tích hồi quy. Mức chi phí du lịch sẽ tăng lên cho đến khi số lần viếng thăm của
khách giảm xuống bằng 0, nói cách khác có ít hơn một khách sẵn sàng bỏ ra mức phí đó để
được vào thăm khu du lịch. Điểm đầu của đường cầu là số lượng du khách đến với điểm
giải trí trong trường hợp chi phí du lịch bằng 0. Các điểm khác trên đường cầu được xác
định bằng số lượng du khách ứng với từng mức chi phí khác nhau. Điều này được thể hiện
bởi mơ hình sau đây:
Chi phí
P0
P2
P1
V2
V1
V0
Lượng khách
Hình 1.2 : Đường cầu du lịch
Trong mơ hình trên, lượng khách đến từ vùng 0 (vùng kề cận điểm du lịch) là
V0. Từ hàm quan hệ giữa chi phí du lịch và lượng khách có thể xác định các điểm cịn
lại trên đường cầu. Chẳng hạn, tại mức phí du lịch P1, lượng khách sẽ giảm từ V0 xuống
V1, nếu mức phí tăng lên mức P 2 thì số lượng khách sẽ giảm xuống mức V 2. Những tổ
hợp chi phí - lượng khách là các dự đoán dựa trên quan hệ giữa chi phí du lịch với
lượng khách du lịch. Giả thuyết quan trọng nhất ở đây là khi chi phí du lịch được xác
định trong biểu thức (*) tăng lên thì số lượng khách tới thăm khu du lịch giảm đi.
Bước 7: Ước lượng giá trị cảnh quan của điểm nghiên cứu thơng qua tính thặng
dư tiêu dùng đối với du khách hoặc xác định phần diện tích nằm phía dưới đường cầu.
1.2.3.2 Phương pháp tiếp cận chi phí du lịch cá nhân (Individual Travel Cost
Method – ITCM)
Với phương pháp tiếp cận dựa trên chi phí du lịch của từng cá nhân, hàm chi phí
du lịch được xác định như sau:
Vi = f(TCi, Si)
Trong đó: Vi là số lượt tham quan của cá nhân i trong năm,
TCi là chi phí du lịch của cá nhân i,
Si là các biến số xã hội của cá nhân i như độ tuổi, giới tính, thu nhập,
trình độ học vấn, tình trạng hơn nhân.
Phương pháp tiếp cận chi phí du lịch cá nhân cũng khơng q phức tạp song đòi
hỏi dữ liệu thu thập từ cuộc điều tra nhiều hơn so với sử dụng phương pháp tiếp cận
theo vùng. Chẳng hạn, nếu địa điểm du lịch là một công viên hay VQG mà du khách
thường lui tới trong năm thì các thơng tin sau cần phải thu thập:
-
Khoảng cách từ nơi ở của du khách đến địa điểm giải trí
-
Số lần du khách tới địa điểm giải trí đó trong năm qua hoặc trong mùa vừa qua
-
Thời gian lưu lại tại địa điểm giải trí
-
Các khoản chi tiêu cho chuyến đi
-
Thu nhập cá nhân của du khách
-
Các thông tin về đặc điểm xã hội của đối tượng phỏng vấn
-
Các địa điểm khác mà du khách muốn ghé thăm trong chuyến đi
-
Sự hài lòng về cảnh quan và chất lượng môi trường
-
Các địa điểm thay thế cho địa điểm này.
Sử dụng những dữ liệu từ cuộc điều tra có thể xác định mối quan hệ giữa số lượt
tham quan của du khách với chi phí mà họ phải bỏ ra. Tương quan này sẽ cho chúng ta
hàm cầu về tỷ lệ du khách đến tham quan địa điểm giải trí và phần diện tích nằm dưới
đường cầu cho biết thặng dư tiêu dùng trung bình. Trên cơ sở số liệu về dân số của
vùng mà du khách sinh sống có thể ngoại suy tổng thặng dư tiêu dùng của địa điểm giải
trí.
Do có thêm các thơng tin về đặc điểm xã hội của du khách, địa điểm thay thế,
chất lượng mơi trường tại địa điểm giải trí nên có thể đưa thêm các biến số này vào mơ
hình. Việc có thêm thơng tin về chất lượng của địa điểm giải trí có thể giúp đánh giá sự
thay đổi giá trị khi chất lượng của địa điểm giải trí thay đổi. Cụ thể, có thể xây dựng hai
đường cầu ứng với từng mức độ chất lượng môi trường, khi đó khoảng cách giữa hai
đường cầu sẽ đo lường sự thay đổi trong thặng dư tiêu dùng khi chất lượng mơi trường
thay đổi.
Chi phí
A
D
V1
V2
C
B
Số lượt tham quan
Hình 1.3: Đường cầu du lịch trong trường hợp chất lượng môi trường thay đổi
Theo mơ hình trên, đường cầu du lịch trước khi có sự thay đổi chất lượng mơi
trường là V1, sau khi chất lượng môi trường thay đổi là V2. Phần tổn thất lợi ích do thay
đổi chất lượng mơi trường được đo lường bằng diện tích ABCD cũng là phần giảm
thặng dư tiêu dùng.
1.2.3.3 Phương pháp TCM tiếp cận dựa trên độ thoả dụng ngẫu nhiên (Random
Utility Approach).
Cách tiếp cận dựa trên độ thoả dụng là phức tạp nhất, tốn kém chi phí nhất trong
các phương pháp chi phí du lịch. Đây là cách tiếp cận tiên tiến vì nó tạo ra sự linh hoạt
trong tính tốn lợi ích. Cách tiếp cận này cũng cho phép đánh giá lợi ích khi có sự thay
đổi chất lượng của địa điểm giải trí hoặc so sánh các điểm giải trí trong trường hợp có
nhiều địa điểm cần so sánh.
Cách tiếp cận dựa trên độ thoả dụng ngẫu nhiên giả định các cá nhân sẽ lựa chọn
địa điểm giải trí mà họ ưa thích. Các cá nhân sẽ đưa ra quyết định địa điểm giải trí dựa
trên chất lượng và giá cả của từng điểm. Người nghiên cứu sẽ đưa ra thơng tin về địa
điểm giải trí mà các cá nhân có thể lựa chọn, chất lượng của từng địa điểm và chi phí
của từng địa điểm.
Chẳng hạn, nếu đánh giá giá trị của một địa điểm câu cá giải trí thì người nghiên
cứu có thể gọi điện thoại phỏng vấn trực tiếp ngẫu nhiên một số người dân địa phương
xem họ có đi câu cá giải trí hay khơng. Nếu trả lời “có”, tiếp tục phỏng vấn họ về số lần
đi trong năm vừa qua, địa điểm họ tới, khoảng cách từ nơi ở đến các địa điểm và các
thông tin liên quan đến chi phí họ đã bỏ ra cho chuyến đi. Có thể phỏng vấn họ về số
lượng cá đánh bắt được mỗi lần, các loài cá đặc biệt ở mỗi lần đánh bắt...
Sử dụng những thơng tin này, chúng ta có thể xây dựng mơ hình xác định mối
quan hệ giữa sự lựa chọn câu cá hay không với những nhân tố ảnh hưởng (biến ngoại
sinh) được lựa chọn trong mơ hình. Nếu có biến độc lập là chất lượng địa điểm thì mơ
hình có thể dễ dàng xác định giá trị của việc thay đổi chất lượng địa điểm giải trí. Ví
dụ, nếu một cá nhân nào đó sẵn sàng di chuyển xa hơn để tới một nơi có số lượng cá
nhiều hơn hoặc chất lượng tốt hơn thì giá trị của chất lượng bổ sung được đo lường bởi
chi phí di chuyển bổ sung.
1.2.4. Tổng quan các nghiên cứu sử dụng phương pháp chi phí du lịch để
đánh giá giá trị cảnh quan
Phương pháp chi phí du lịch được áp dụng đầu tiên vào năm 1974 khi Tổ chức
các Vườn Quốc gia Mỹ có ý xác định giá trị của các VQG để bảo tồn. Harold Hotelling
là người đầu tiên đưa ra phương pháp này.
Ý tưởng của Hotelling là các cá nhân đến tham quan một VQG đều phải bỏ ra
một khoản chi phí, đặc biệt là chi phí du lịch. Vì mỗi người đến từ một địa điểm khác
nhau nên chi phí du lịch của họ cũng khác nhau. Điều này có thể kết hợp với số lượt
tham quan để xây dựng đường cầu giải trí cho địa điểm đó.
Hotelling cũng gợi ý tập hợp các chuyến đi của du khách từ địa điểm khác nhau
theo vùng lấy tâm là VQG. Từ đó, chi phí du lịch của các cá nhân đến từ bất kỳ địa
điểm nào trong một vùng có thể coi bằng nhau. Với mỗi vùng cần xác định số lượt tham
quan của du khách, chi phí bỏ ra cho chuyến đi và dân số của mỗi vùng để xây dựng
đường cầu du lịch trong đó “giá” là chi phí cho chuyến đi và “lượng” là số lượt tham
quan.
Do khả năng ứng dụng rộng rãi của phương pháp chi phí du lịch mà sau này đã
có rất nhiều nghiên cứu trong và ngoài nước áp dụng phương pháp này.
So sánh các phương án xây dựng đường ở vùng rừng Grampian là ứng dụng đầu
tiên của phương pháp TCM ở Australia. Sau đó Ulph và Reynolds (1978) suy ra giá trị
100$ thặng dư tiêu dùng trung bình trong một ngày ở công viên quốc gia
Warrumbungle - New South Wales. Nghiên cứu cũng sử dụng chi phí du hành này để
so sánh các lợi ích giải trí và các chi phí của cơng viên.
Bennett và Thomas (1982) khảo sát việc đưa chi phí thời gian như một thành
phần của chi phí du lịch cho việc giải trí ở vùng sơng Muray ở Tây Australia. Hunloe
(1990) ước lượng thặng dư của người tiêu dùng cho du khách đến thăm vùng dãy san
hô lớn của Australia (Great Barrier Reef) bằng 118 triệu đơ la hàng năm. Giá trị này sau
đó đã được so sánh với các phương án sử dụng khác.
Phương pháp chi phí du lịch cũng cho phép tính tốn những giá trị có ích để so
sánh các địa điểm khác nhau. Chẳng hạn nghiên cứu của Sinden (1990) đã đánh giá và
so sánh lợi ích của việc giải trí tại 25 địa điểm dọc sông Ovens và King ở Đông bắc
Victoria. Uỷ ban đánh giá tài nguyên (1992) cũng sử dụng phương pháp này để đánh
giá giá trị tham quan giải trí ở vùng rừng Đơng Nam (Úc), từ đó so sánh lợi ích của việc
bảo tồn với lợi ích thu được từ việc đốn gỗ.
Một nghiên cứu sự thay đổi của chất lượng nước dẫn đến sự thay đổi hàm cầu du
lịch được thực hiện bởi Choe và cộng sự năm 1996 tại Vịnh Davao (Philippin). Bằng
việc xây dựng hàm cầu giải trí trước và sau khi có sự thay đổi chất lượng nước, Choe
đã chỉ ra rằng tổn thất phúc lợi là 10.800.000 pesos (tương đương 432.000USD) và tổn
thất trung bình của mỗi hộ gia đình hàng tháng do ô nhiễm nước là 10 peso (tương
đương 0,4USD).
Một nghiên cứu được thực hiện sớm tại Việt Nam là nghiên cứu của Nguyễn Thị
Hải và Trần Đức Thành tại VQG Cúc Phương năm 1996. Nghiên cứu sử dụng phương
pháp chi phí du lịch theo vùng để xây dựng hàm cầu du lịch và tính được tổng lợi ích du
lịch là 1.502.186 ngàn đồng, tổng thặng dư tiêu dùng của du khách đến tham quan là
105.415 ngàn đồng. Tuy nhiên, nghiên cứu này chỉ tính tốn cho khách du lịch trong
nước mà khơng tính cho khách du lịch nước ngồi.
Nghiên cứu của Phạm Khánh Nam và Trần Võ Hùng Sơn tại Đảo Hòn Mun
thuộc Vịnh biển Nha Trang là một nghiên cứu xác định chi phí du lịch cho cả khách
trong nước và khách quốc tế. Bằng cả phương pháp chi phí du lịch theo vùng (ZTCM)
và chi phí du lịch cá nhân (ITCM), nghiên cứu đã xây dựng đường cầu du lịch cho cả
khách trong nước và nước ngồi. Giá trị cảnh quan được tính là 17,9 triệu đơ la/năm
bằng phương pháp chi phí du lịch theo vùng và 8,7triệu đơ/năm theo phương pháp chi
phí du lịch cá nhân. Nghiên cứu cũng chỉ rằng việc mở rộng cảng biển có thể làm giảm
20% giá trị cảnh quan tại khu vực này.
1.2.5. Một số ưu điểm hạn chế của phương pháp chi phí du lịch
Phương pháp chi phí du lịch được sử dụng để lượng giá giá trị cảnh quan du lịch
của các địa điểm giải trí nói chung và các vườn quốc gia nói riêng dựa trên một giả định
giá trị cảnh quan của một địa điểm giải trí được phản ánh thơng qua sự sẵn lòng chi trả
của du khách để đến địa điểm đó. Việc lượng giá giá trị cảnh quan của một địa điểm
nào đó thường được các nhà nghiên cứu sử dụng phương pháp TCM bởi một số ưu
điểm sau:
1. Xuất phát từ chi phí thực sự của du khách cho chuyến đi và sử dụng kỹ thuật
phân tích để đánh giá mà không phải thiết lập một thị trường giả định nên phương pháp
chi phí du lịch khơng gây ra sự tranh cãi về kỹ thuật đánh giá.
2. Kết quả ước tính giá trị cảnh quan thường có độ tin cậy cao vì du khách dễ
dàng bộc lộ các thơng tin về chuyến đi cũng như các thông tin về đặc điểm xã hội của
mình.
3. Có thể mở rộng mẫu điều tra cho một địa điểm giải trí nhất là đối với một địa
điểm được nhiều người quan tâm. Ngay cả trong trường hợp một VQG có du khách chỉ
tập trung một mùa trong năm thì phương pháp này vẫn cho phép lựa chọn mẫu tại các
thời điểm khác nhau để phân tích.
4. Phương pháp chi phí du lịch thường có chi phí rẻ hơn các phương pháp tiếp
cận khác. Kết quả tính tốn dễ giải thích, phân tích.
Tuy nhiên, sử dụng phương pháp chi phí du lịch cũng bộc lộ một số nhược điểm
sau:
1. Phương pháp chi phí du lịch giả định du khách biết được chi phí cho chuyến
đi của mình song trên thực tế nhiều du khách thấy khó ước tính vì tại thời điểm phỏng
vấn du khách có thể chưa kết thúc chuyến đi hoặc họ được tài trợ cho chuyến đi.
2. Mơ hình đơn giản nhất của TCM dựa trên giả định chuyến đi của du khách chỉ
đến một địa điểm giải trí song trên thực tế có nhiều du khách đến nhiều điểm trong
cùng một chuyến đi nên phải có kỹ thuật tốt mới phân tách được các khoản chi phí gộp.
3. Việc tính tốn chi phí cơ hội về thời gian của du khách cho chuyến đi thường
dựa trên thu nhập hàng tháng của du khách song du khách khơng dễ bộc lộ thu nhập của
mình.
4. Để ước lượng đường cầu giải trí cần có đủ quan sát về sự thay đổi khoảng
cách đến địa điểm giải trí ảnh hưởng tới chi phí du lịch và chi phí du lịch tác động tới
số lượt tham quan. Song với những địa điểm giải trí chỉ có du khách địa phương thường
xun viếng thăm thì khơng có sự khác biệt về khoảng cách và do đó khó xây dựng được
đường cầu.
1.3. Phương pháp định giá ngẫu nhiên trong định giá giá trị phi sử dụng
1.3.1. Phương pháp định giá ngẫu nhiên (Contingent Valuation Method - CVM)
Khi dữ liệu thị trường khơng sẵn có hoặc khơng đáng tin cậy, các nhà kinh tế có
thể sử dụng một phương pháp ước lượng thay thế dựa trên các điều kiện thị trường giả
định. Phương pháp này sử dụng các số liệu điều tra để thăm dò mức sẵn sàng chi trả
(WTP) của các cá nhân một hàng hóa dịch vụ mơi trường nào đó. Cách tiếp cận dựa vào
số liệu khảo sát để ước lượng lợi ích được gọi là phương pháp định giá ngẫu nhiên
(CVM) bởi vì các kết quả có tính phụ thuộc hoặc có tính ngẫu nhiên theo các điều kiện
thị trường đưa ra.
“Phương pháp định giá ngẫu nhiên là phương pháp xác định giá trị kinh tế của
các hàng hóa và dịch vụ khơng mua bán trên thị trường. Phương pháp này sử dụng
bảng hỏi phỏng vấn để xác định giá trị của hàng hóa dịch vụ khơng trao đổi và do đó
khơng có giá trên thị trường”(Theo Katherine Bolt – Estimating the Cost of
Environmental Degradation).
Như vậy, phương pháp đánh giá ngẫu nhiên là một cách tiếp cận dựa trên thị
trường giả định để đánh giá giá trị của một hàng hố khơng tồn tại thị trường. Mọi
người sẽ được hỏi rằng họ sẵn sàng trả bao nhiêu tiền cho sự cải thiện mơi trường đến
một mức nào đó hoặc họ sẽ chấp nhận mức bao nhiêu cho đền bù những thiệt hại mơi
trường. Tổng mức sẵn lịng chi trả (WTP) hoặc bằng lịng chấp nhận (WTA) chính là
giá trị của tài sản môi trường.
Thực hiện cách tiếp cận dựa vào khảo sát này bao gồm ba cơng việc sau đây:
•
Xây dựng một mơ hình chi tiết về thị trường giả định, bao gồm các đặc điểm của
hàng hoá và bất kỳ điều kiện nào ảnh hưởng đến thị trường.
•
Thiết kế một cơng cụ khảo sát để đạt được một ước lượng không chệch về mức
bằng lịng chi trả (WTP) của các cá nhân.
•
Đánh giá tính trung thực của thơng tin thu thập được từ cuộc khảo sát.
Các nghiên cứu gần đây thường ưa thích phương pháp CVM vì nó có thể áp
dụng được cho nhiều loại hàng hố mơi trường khác nhau và vì nó có thể đánh giá giá
trị tồn tại cũng như giá trị sử dụng. Tuy nhiên, do phương pháp này đưa ra các kết luận
về các thị trường thực từ một mơ hình giả định nên kết quả ước lượng chệch được xem
như một khiếm khuyết đặc trưng. Chẳng hạn, sự khơng sẵn lịng bộc lộ WTP của một
cá nhân do vấn đề sử dụng miễn phí hoặc sự trả giá mang tính chống đối khi đối tượng
phỏng vấn biết mình khơng phải chi trả.
Để đối phó lại với khả năng ước lượng chệch tiềm ẩn, các nhà kinh tế khơng
ngừng cải tiến phương pháp CVM. Ví dụ, một số nghiên cứu đưa thêm một chi tiết vào
các mô hình giả định của họ, số khác cải tiến khâu thiết kế cơng cụ khảo sát. Một số
khảo sát có dùng các bản đồ để minh hoạ vị trí của hàng hoá hoặc các bức ảnh về hàng
hoá và khu vực bị ảnh hưởng để đối tượng được hỏi có thêm thơng tin. Nhưng dù là
dưới hình thức nào thì mục tiêu đều giống nhau: làm cho tình huống thị trường giả định
càng thật và càng gần với các điều kiện thực tế càng tốt.
1.3.2. Mơ hình lý thuyết về định giá ngẫu nhiên
Các nghiên cứu đánh giá giá trị phi sử dụng của một VQG từ trước đến nay đều
xuất phát từ khái niệm phúc lợi trong kinh tế học. Giả định rằng các cá nhân hay hộ gia
đình đều tìm cách tối đa hóa độ thỏa dụng khi thu nhập khơng thay đổi bằng cách lựa
chọn hàng hóa cá nhân và hàng hóa cơng cộng. Nếu coi bảo tồn VQG là một hàng hóa
cơng cộng thì sự bằng lòng chi trả của các cá nhân là một hàm của chi phí bảo tồn, giá
của các hàng hóa thay thế, thu nhập và sở thích. Trong đó sở thích tiêu dùng lại phụ
thuộc vào các biến số xã hội như độ tuổi, giới tính, trình độ học vấn, nhận thức môi
trường của các cá nhân.
Một cuộc thăm dị được tiến hành có thể thấy rằng cá nhân i sẵn sàng trả X $ cho
hoạt động bảo tồn VQG nếu như độ thỏa dụng của họ trong trường hợp bảo tồn cao hơn
độ thỏa dụng trong trường hợp không bảo tồn. Tức là:
U(0, Y; S) ≤ U(1, Y - X; S) trong đó:
0: Trường hợp khơng bảo tồn VQG,
1: Trường hợp có bảo tồn VQG,
Y: Thu nhập của cá nhân,
X: Mức sẵn lòng chi trả,
S: Biến số xã hội có ảnh hưởng đến sự bằng lòng chi trả.
Một cách tiếp cận khác dựa trên lý thuyết về độ thỏa dụng ngẫu nhiên (Random
Utility Theory - RUT). Lý thuyết này cho rằng việc một cá nhân lựa chọn một hàng hố
trong một nhóm các hàng hố phụ thuộc vào độ thoả dụng U của hàng hoá đó so với độ
thoả dụng của các hàng hố khác (Morrison và cộng sự 1996). Nói cách khác, cá nhân q
sẽ chọn phương án i thay vì phương án j khi và chỉ khi U iq > Ujq (i≠j
∈
A), trong đó A là
tập hợp các lựa chọn.
Cũng theo RUT, độ thoả dụng của một hàng hoá được cho là phụ thuộc vào các
biến số quan sát được như vectơ của các thuộc tính của hàng hố (x) và các đặc điểm cá
nhân (s), cũng như các biến số không quan sát được (e). Các biến (e) được gọi là nhiễu
và được xử lý như các đại lượng ngẫu nhiên tuân theo qui luật phân bố nào đó. Độ thoả
dụng của một hàng hố có thể được thể hiện như sau:
Uiq = V(sq , xiq ) + eiq
Trong đó:
Uiq
Độ thoả dụng của hàng hoá i của cá nhân q,
V
Hàm thỏa dụng gián tiếp,
sq
Véctơ đặc điểm của cá nhân q,
xiq
Véctơ thuộc tính của hàng hố trong phương án I,
eiq
Các yếu tố khơng quan sát được (nhiễu của mơ hình).
Xác suất của việc lựa chọn phương án i có thể được thể hiện như sau:
∈
P(i/i,j A) = P[(Viq + eiq) > (Vjq + ejq)]
(*)
Trong đó:
∈
P(i/i,j A)
xác suất lựa chọn phương án i thay vì phương án j trong tập A
Theo cách thể hiện này, xác suất mà một cá nhân chọn i thay vì j tương đương
với xác suất của độ thoả dụng đã định (V) cộng với độ thoả dụng ngẫu nhiên (e) đối với
i lớn hơn đối với j.
Bằng cách biến đổi biểu thức (*), xác suất một cá nhân ngẫu nhiên từ mẫu
nghiên cứu sẽ chọn phương án i tương đương với xác suất mà hiệu số giữa độ thoả
dụng ngẫu nhiên của i và j nhỏ hơn hiệu số giữa độ thoả dụng đã định của i và j:
∈
P(i/i,j A) = P[(Viq - Vjq) > (eiq - ejq)]
Mặt khác, sự lựa chọn tiêu dùng một hàng hóa là thể hiện sự bằng lòng chi trả
(WTP) của cá nhân cho hàng hóa đó. Đến lượt nó, WTP của một cá nhân lại chịu ảnh
hưởng bởi nhiều các yếu tố khác. Các yếu tố này bao gồm các đặc điểm về kinh tế xã
hội của người được phỏng vấn như thu nhập (w), độ tuổi (a), trình độ học vấn (e), và
các biến đo lường “số lượng” của tài nguyên được định giá.
Nói cách khác, WTP có thể được biểu diễn bằng hàm số thể hiện quan hệ của
các biến như sau:
WTP = f(wi, ai, ei, q)
Trong đó:
i:
Chỉ số của quan sát hay người được điều tra,
WTP: Mức độ sẵn lòng chi trả,
wi:
Thu nhập của cá nhân I,
ai:
Tuổi của cá nhân i,
ei:
Trình độ học vấn của cá nhân i,
q:
Số lượng của tài nguyên được định giá.
Hồi qui WTP theo các biến nêu trên sẽ xem xét được ảnh hưởng của các yếu tố
tới WTP.
1.3.3. Các bước tiến hành định giá ngẫu nhiên
Một nghiên cứu sử dụng CVM có sáu bước:
• Bước 1: Thiết lập thị trường giả định
Đây là bước quan trọng có ảnh hưởng rất lớn đến kết quả thu thập được sau này.
Nội dung của thiết lập thị trường giả định gồm:
-
Mô tả các dịch vụ được định giá.
-
Các tình huống giả định mà trong đó dịch vụ được cung cấp cho người trả lời phỏng
vấn.
-
Làm rõ cơng cụ trả giá: Thơng thường có thể có các cách thức trả giá như thuế, phí,
đóng góp từ thiện…
• Bước 2: Thu nhận các giá được trả
Sau khi đã tiến hành xây dựng thị trường giả định, người nghiên cứu có thể thực
hiện cuộc khảo sát bằng cách phỏng vấn gặp trực tiếp, phỏng vấn qua điện thoại hay
gửi thư.
Mục đích của cuộc khảo sát là xác định mức sẵn lòng chi trả lớn nhất của đối
tượng cho những cải thiện chất lượng môi trường. Để thu thập thơng tin về WTP có thể
sử dụng một số cách sau:
-
Trị chơi đấu giá: Đưa ra hàng hóa dịch vụ cần định giá sau đó hỏi mức giá mà họ có
thể trả bằng bao nhiêu. Mức giá thu được bằng cách phỏng vấn này thường cao nhất vì
đối tượng phỏng vấn có thể đánh giá quá cao giá trị của tài sản.
-
Trưng cầu ý kiến hay bỏ phiếu với câu hỏi đóng “Nếu cung cấp dịch vụ với giá xx
USD, bạn có quan tâm và chấp nhận khơng?”
-
Câu hỏi mở: Bạn sẵn lòng trả bao nhiêu cho hàng hóa này hoặc mức giá của hàng hóa
này nên là bao nhiêu?
•
Bước 3: Tính WTP/WTA trung bình
Tính số trung bình và số trung vị của giá được trả và loại bỏ các trả giá mang
tính chống đối.
• Bước 4: Ước tính các Đường Trả giá (Đường biểu diễn WTP/WTA)
Mục đích bước này là khảo sát các yếu tố ảnh hưởng tới WTP/WTA. Vì vậy,
WTP/WTA được coi là biến phụ thuộc và chúng ta cần xác định hàm hồi quy đối với
một loạt các biến độc lập như thu nhập, giới tính, độ tuổi, trình độ học vấn...
•
Bước 5: Tổng gộp dữ liệu
Tổng gộp dữ liệu nhằm xác định tổng mức sẵn lòng chi trả hoặc sẵn lòng chấp
nhận của toàn bộ các cá nhân tại địa điểm nghiên cứu cho hàng hóa dịch vụ mơi trường.
Vậy làm thế nào để tính từ giá trị trung bình của mẫu giá trị cho toàn bộ dân số? Để
tổng gộp dữ liệu có thể thực hiện theo một trong hai cách:
1. Nếu mẫu mang tính đại diện, có thể nhân WTP/WTA trung bình của mẫu cho
tổng số dân là một ước lượng điểm tốt cho tổng giá trị.
2. Nếu mẫu phản ánh thiên lệch tổng thể là dân số liên quan, cần thực hiện các
điều chỉnh bằng các kỹ thuật của kinh tế lượng.
• Bước 6: Đánh giá cuộc khảo sát CVM đã tiến hành
Để đánh giá cuộc khảo sát CVM đã tiến hành cần trả lời các câu hỏi: Cuộc khảo
sát có nhiều trả giá mang tính chống đối khơng? Có bằng chứng cho thấy những người
trả lời phỏng vấn đã hiểu về thị trường giả định không? So với các kết quả nghiên cứu
khác, các mức giá được trả giá có phù hợp khơng? Trong trường hợp này có thể làm các
kiểm định để xác định độ tin cậy của các câu trả lời.
1.3.4. Tổng quan các nghiên cứu sử dụng CVM đo lường giá trị phi sử dụng
của môi trường
Một lĩnh vực nghiên cứu phổ biến của CVM là đo lường WTP của xã hội
đối với việc cải thiện chất lượng nước. Hai ví dụ điển hình là nghiên cứu của
Smith, Desvoiusges (1986) tại một khu vực nước đặc thù - sơng Monogahela ở
bang Pennylvania và một phân tích của Carson và Mitchell (1988) ước tính một
mức sẵn lòng chi trả cho tất cả các con sông ở Mỹ. Nghiên cứu của Smith và
Desvousges (1986) cho thấy hộ gia đình trung bình ở miền Tây bang
Pennsylvania sẵn lịng trả 25 đơla/năm (theo giá năm 1981) để cải thiện sơng
Monongahela từ mức chất lượng nước có thể vận tải được đến mức chất lượng
nước có thể ni cá được. Nghiên cứu trên phạm vi toàn quốc của Carson và
Mitchell (1988) cho thấy một người trả lời trung bình sẵn sàng trả 80 đơla/năm
(theo giá 1983) cho những cải thiện chất lượng nước. Do mức sẵn lòng chi trả
theo nghiên cứu trên phạm vi quốc gia cao hơn kết quả đánh giá trên phạm vi
địa phương của Smith và Desvousges (1986), nên sự khác biệt này có thể được
tính cho giá trị tồn tại. Tại sao lại như vậy? Vì những người trả lời phỏng vấn
trong khảo sát trên phạm vi cả nước sẵn lòng trả cho những cải thiện chất lượng
nước trên khắp nước Mỹ, mặc dù họ không mong đợi sẽ sử dụng các nguồn
nước này cho chính bản thân họ.
Các lợi ích tăng thêm từ cải thiện chất lượng khơng khí cũng được ước
lượng theo phương pháp CVM. Song trên thực tế nhiều người lập luận rằng
phương pháp CVM đặc biệt hữu ích cho việc đánh giá những cải thiện có thể
nhận thấy được tại các công viên quốc gia, nơi mà giá trị tồn tại có thể là quan
trọng. Nghiên cứu rất sớm của Schulze và Brookshire (1983) dường như ủng hộ
giả thuyết này. Nghiên cứu chỉ ra rằng giá trị sử dụng của việc cải thiện tầm
nhìn xa ở cơng viên quốc gia Grand Canyon từ 70 đến 100 dặm là dưới 2
đôla/du khách/năm. Ngược lại, nghiên cứu lại thấy rằng các hộ gia đình chấp
nhận một mức đền bù là 95 đơla hộ/năm nếu tầm nhìn bị giảm ở cơng viên quốc
gia Grand Canyon.
Vì phương pháp CVM có thể đo lường giá trị tồn tại, nên nó cũng được
sử dụng để đánh giá các lợi ích bảo tồn hệ sinh thái như việc bảo tồn một lồi
đang bị đe dọa. Ví dụ, một nghiên cứu ước tính rằng các cá nhân có thể sẵn lòng
trả 22$/năm (theo giá năm 1983) để cứu loài sếu châu Mỹ. Một nghiên cứu khác
nhận ra người ta có thể trả 11$/năm để bảo tồn đại bàng trọc ở Mỹ.
Áp dụng CVM, Gutierrez và Pearce (1992) trong nghiên cứu của mình về giá trị
tồn tại của rừng Amazon ở Brazin cho thấy mức độ sẵn lòng chi trả của người dân là
30$/ha. Kết quả này được tính tốn dựa trên mức WTP tổng hợp ở nhóm người trong
độ tuổi thanh niên.
Một trong những nghiên cứu sử dụng CVM gần đây đã được Dioxon và
Sherman (1995) tiến hành nhằm xác định mức chi trả cao nhất để bảo tồn loài voi tại
rừng quốc gia Khao Yai, Thái Lan. Mức WTP trung bình thu được là 7$/người. Tuy
nhiên điểm hạn chế của nghiên cứu này khoản tiền trên được xem như giá trị không sử
dụng của việc bảo tồn. Trên thực tế các tác giả vẫn chưa phân tách được giá trị tồn tại
và giá trị phụ thuộc của việc bảo tồn đàn voi.
White và Lovett (1999) đã ước lượng WTP cho việc bảo tồn tự nhiên ở Vườn
quốc gia North York Moors tại Anh thông qua việc sử dụng CVM. Kết quả cho thấy
CVM trung bình của một người để bảo tồn tài nguyên ở đây là 3,1 bảng Anh. Nghiên
cứu này chỉ ra có sự ủng hộ đáng kể từ xã hội cho công tác bảo tồn, nâng cấp cảnh quan
của Vườn Quốc gia không phụ thuộc vào vấn đề sử dụng.
Ngoài ra, Michell và Carson trong nghiên cứu của mình cũng đưa ra danh sách
100 nghiên cứu của Mỹ có sử dụng CVM. Ở Anh có 26 nghiên cứu áp dụng CVM cũng
được Green và các cộng sự đề cập đến trước đó. Có thể xem CVM như một phương pháp
ưu việt trong việc đánh giá giá trị phi sử dụng của tài ngun.
Bảng sau trình bày tóm tắt một vài nghiên cứu có liên quan tới giá trị tồn tại và
giá trị để lại trong giá trị phi sử dụng tại một số khu rừng và VQG: