Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

SKKN: Một vài kinh nghiệm giúp học sinh yếu kém học tốt môn Toán

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (361.38 KB, 7 trang )

MÔ TẢ GIẢI PHÁP
Tên sáng kiến:
Một vài kinh nghiệm giúp học sinh yếu kém học tốt môn Toán
Mã số: ......................................
I. Tình trạng giải pháp đã biết
Qua thực tế  giảng day va tìm hi
̣
̀
ểu tôi nhận thấy có các nguyên nhân 
chủ yếu sau dẫn đến học sinh học yếu đó là:
­ Trươc hêt do cac em mât kiên th
́ ́
́
́ ́ ức cơ ban (do nhiêu nguyên nhân) cho
̉
̀
 
nên cac em co tâm ly s
́
́
́ ợ hoc Toan, nghe đên môn Toan đa “choang”;
̣
́
́
́ ̃
́
­ Môt sô em l
̣ ́
ươi hoc, thiêu s
̀ ̣
́ ự chuân bi chu đao dung cu hoc tâp dân đên


̉
̣
́ ̣
̣ ̣ ̣
̃ ́ 
không năm đ
́ ược cac ki năng cân thiêt trong viêc hoc va viêc giai quyêt cac bai
́ ̉
̀
́
̣
̣
̀ ̣
̉
́ ́ ̀ 
tâp Toan;
̣
́
      ­ Môt sô em thiêu y th
̣ ́
́ ́ ưc tim toi, sang tao trong hoc tâp không co s
́ ̀ ̀ ́
̣
̣ ̣
́ ự phân
́ 
đâu v
́ ươn lên, co thoi quen ch
́ ́
ơ đ

̀ ợi lười suy nghi hay d
̃
ựa vao giao viên, ban be
̀
́
̣
̀ 
hoăc xem l
̣
ơi giai săn trong sach giai môt cach thu đông. 
̀
̉ ̃
́
̉
̣
́
̣ ̣
Ý thức học tập của 
một số  em chưa cao, phương pháp học tập chưa phù hợp. Vì thế  dẫn đến 
chất lượng học tập của học sinh chưa tốt nên  hầu hết các em sợ học, mà đặc 
biệt là môn Toán vì đối với các em đây là một môn học khô khang và khó học;
­ Do kinh tế gia đình khó khăn nên điều kiện học tập thiếu thốn về cả vật  
chất cũng như thời gian, ngoài giờ đến lớp các em còn phải giúp đỡ cha mẹ các 
công việc gia đình, không có thời gian để tự học dẫn đến kết quả học tập bị hạn 
chế;
­ Sự  quan tâm cua môt sô phu huynh đôi v
̉
̣
́
̣

́ ơi con em con han chê. Đăc
́
̀ ̣
́ ̣  
biêt co nh
̣ ́ ưng phu huynh cua hoc sinh yêu kem không bao gi
̃
̣
̉
̣
́ ́
ờ kiêm tra sach v
̉
́ ở  
cua cac em, pho thac viêc hoc cua cac em cho nha tr
̉
́
́ ́
̣
̣
̉
́
̀ ương. 
̀ Một số học sinh do 
hoàn cảnh gia đình nên phải sống với ông bà, xa cha mẹ. Hoặc có một số học 
sinh được cha mẹ  nuôn chiều, đòi gì được đó không quan tâm đến việc học  
của con em mình;
­ Sự phat triên bung nô cua công nghê thông tin cung v
́
̉

̀
̉ ̉
̣
̀ ơi internet v
́
ơi cac
́ ́ 
dich vu vui ch
̣
̣
ơi giai tri hâp dân đa lôi cuôn cac em.
̉ ́ ́ ̃ ̃
́ ́
II. Nội dung giải pháp đề nghị công nhận là sáng kiến
1. Mục đích của giải pháp
Sở  dĩ tôi chọn đề tài này là vì mong muốn tìm được một phương pháp 
tối  ưu để  trong quỹ  thời gian cho phép hoàn thành được một hệ  thống kiêń  


thưc theo qui đ
́
ịnh, nhằm lấp đầy các chỗ hổng kiến thức cua hoc sinh và t
̉
̣
ừng 
bước nâng cao thêm về mặt kỹ năng trong việc giải các bài tập Toán cho học  
sinh. Từ  đó phát huy va kh
̀ ơi dậy khả  năng sử  dụng co hi
́ ệu quả  kiến thức  
vốn có của học sinh, đồng thời thu hút, lôi cuốn các em ham thích học môn  

Toán nhằm hạ thấp tỉ lệ học sinh yếu kém môn Toán, đáp ứng những yêu cầu  
về đổi mới phương pháp và nâng cao chất lượng dạy học hiện nay cũng như 
trao đổi kinh nghiệm với đồng nghiệp trong việc thực hiện nhiệm vụ chuyên 
môn.
2. Những điểm khác biệt, tính mới của giải pháp so với giải pháp 
đã, đang được áp dụng
­ Tổng hợp, phân tích rõ đặc điểm của từng học sinh để chọn phương 
pháp dạy học cho phù hợp và từ đó có định hướng giải pháp phù hợp hơn;
yếu 

­ Giáo viên bộ môn cần tập trung bổ trợ kiến thức cho một đến hai HS  

kém trong giờ học chính khóa sau một thời gian nếu HS có tiến bộ thì chuyển  
sang HS khác;
­ Giáo viên dạy lớp phải lập sổ theo dõi tình hình học tập của từng em  
và theo dõi thường xuyên ở mỗi buổi học;
­ Nếu trong quá trình giảng dạy học sinh đã tiến bộ, kiến thức đã đảm  
bảo thì giáo viên chuyển sang học sinh khác;
­ Tổ  chức kiểm tra kiến thức các em dưới nhiều hình thức và có khen 
thưởng kịp thời để  động viên sự  tiến bộ  của các em. Đồng thời giáo viên tổ 
chức các buổi sinh hoạt ngoại khóa thông qua các tiết giáo dục ngoài giờ  lên 
lớp, thực hành ... để học sinh thấy được “cái đẹp” của môn Toán;
­ Trong tiết dạy giáo viên nên tổ chức từ một đến hai trò chơi học tập 
để học sinh tham gia nhằm tạo sự ham thích học Toán ở học sinh;
­ Lưu ý trong ti ết dạy giáo viên luôn quan tâm, chú ý, “lôi kéo” các  
học sinh học ch ưa t ốt “vào cuộc” bởi việc tham gia các trò chơi, các câu 
hỏi “vừa sức”, hoặc bài tỏ  ý kiến về  một vấn đề  nào đó, hoặc chỉ  ra các 
lỗi sai của m ột bài giải ...;
­ Giáo viên bộ  môn cùng với GV chủ  nhiệm kết hợp với phụ  huynh  
thông qua sổ  theo dõi tình hình học tập của học sinh gửi về phụ huynh hàng 

tuần để phụ huynh nắm và kết hợp giáo dục có hiệu quả hơn;
­ Kết hợp với ban tư  vấn học đường để  giáo dục về  ý thức học tập 
của các em cũng như về đạo đức đối với các học sinh chưa ngoan.
3. Mô tả chi tiết bản chất của giải pháp
3.1. Chọn học đối tượng sinh học
2


­ Thông qua k ết qu ả  h ọc t ập t ừ  h ọc b ạ  ho ặc s ổ  g ọi tên ghi điể m,  
tham kh ả o thêm ý ki ế n c ủ a giáo viên đã tr ự c ti ế p gi ả ng d ạ y h ọ c sinh  
c ủ a năm h ọ c tr ướ c;
­ Lựa chọn từ  một vài bài kiểm tra  ở đầu năm giáo viên nhận xét, phê  
và sửa kỹ cho học sinh. Giáo viên lập sổ theo dõi cụ thể từng học sinh được 
chọn phụ đạo nhưng phải theo dõi cả quá trình học tập.
3.2. Tìm hiểu nguyên nhân học sinh yếu kém môn Toán
­ Sau khi đã chọn đối tượng học sinh học, công việc   tiếp theo là xây 
dựng kế hoạch và thực hiện kế hoạch; 
­ Tìm hiểu nguyên nhân gây ra sự yếu kém môn Toán ở học sinh;
­ Phân loại đối tượng học sinh từ đó lựa chọn các biện pháp phù hợp và 
lập kế hoạch  khắc phục hiện trạng yếu kém đó;
­ Thực hiện kế hoạch khắc phục yếu kém trong học sinh về môn Toán;
­ Rút kinh nghiệm trong công tác giảng dạy đối tượ ng học sinh yếu  
kém Toán.
3.3. Định hướng phương pháp, cách thức thực hiện
­ Trên giờ  chính khóa giáo viên tranh thủ  thời gian ôn tập cho các học  
sinh yếu kém, hệ thống các kiến thức liên quan trong điều kiện có thể:
+ Trong tiết luyện tập gọi các em giải các bài tập đơn giản, phù hợp,  
nêu các kiến thức có liên quan;
+ Nếu HS khác lên bảng giải bài tập thì GV đến bên HS yếu kém để 
hướng dẫn và chỉ  ra các kiến thức đã vận dụng. Thường xuyên hướng dẫn 

các em trong các bài tập;
+ Tập trung ở thời gian hướng dẫn về nhà, cho các dạng bài tập tương 
tự mà các em đã giải được ở lớp hướng dẫn thật cụ thể và chi tiết. Động 
viên khuyến khích các em làm bài.
­ Ngoài ra còn dành thời gian phụ đạo vào đầu tháng 10. Thời gian phụ 
đạo là 2 tiết/ tuần;
­ Từng lúc sau mỗi phần ôn tập kiến thức thì tiến hành kiểm tra để 
đánh giá kết quả  của từng học sinh để  định hướng cho việc phụ  đạo tiếp 
theo;
­ Ngoài ra giáo viên còn phải tìm hiểu từng đối tượng học sinh để  có 
cách thức, phương pháp giảng dạy hợp lý:
+ Đối với những em do hoàn cảnh kinh tế gia đình quá khó khăn ví dụ 
như  các em bị  thiếu thốn sách vở  đồ  dùng học tập. Ngoài các buổi đến lớp 
các em phải phụ giúp gia đình không có thời gian để học tập. Sau khi tìm hiểu 
biết được hoàn cảnh của các em tôi đã có ý kiến đề xuất lên ban lãnh đạo nhà  
3


trường có thể  miễn giảm cho các em một phần nào các khoản đóng góp có 
thể được, giảm bớt gánh nặng về vật chất cho các em. Tạo điều kiện thuận 
lợi hơn cho các em đó trong học tập. Ngoai ra nh
̀
ư  cha mẹ đi làm ăn xa, hay 
những trường hợp có những cú sốc về  tình cảm trong gia đình mà các em bị 
ảnh hưởng, có một  số em phải ở với ông bà bị thiếu thốn về tình cảm và sự 
chăm sóc của cha mẹ... Thông qua học sinh và phụ  huynh tôi  thường xuyên  
trò chuyện thân mật riêng với các em, động viên an ủi để các em có thể vượt 
qua cơn khủng hoảng về  tinh thần, góp phần nào giúp các em trở  lại trạng  
thái cân bằng về tình cảm và tập trung vào việc học tốt hơn;
+   Với   đối   tượng   học   sinh   yếu   kém   do   lười   học.   Tôi   trực   tiếp   trò 

chuyện riêng với các em, phân tích cho các em hiểu mặt tốt, xấu và sự  liên  
quan đến tương lai của các em. Bên cạnh đó tôi còn giới thiệu các em đến với  
ban tư vấn học đường nhờ các giáo viên trong ban này giáo dục tư vấn các em  
để các em hiểu rõ hơn về việc học. Về mặt chuyên môn, tôi tăng cường công 
tác kiểm tra việc học và làm bài về  nhà (vưa s
̀ ưc v
́ ơi cac em), trong các gi
́ ́
ờ 
học tôi khuyến khích cho các em phát biểu, gọi các em lên bảng và có lời khen  
kịp thời, cho điểm khuyến khích, động viên các em, giúp các em tự  tin và 
hứng thú  học tập hơn. Sau khi tạo được tâm thế thoải mái về tinh thần trong  
học sinh thì việc tiếp theo đóng vai trò quan trọng và quyết định. Đó chính là 
thực hiện các biện pháp phù hợp nhằm giúp các học sinh yếu kém có điều 
kiện về mặt kiến thức để theo kịp yêu cầu chung của những tiết học trên lớp, 
tiến tới có thể hoà nhập vào việc dạy học đồng loạt.
­ Kiên th
́ ức Toán học của học sinh là một hệ thống kiến thức liên tục 
từ khi các em bắt đầu đi học cho nên việc giải một bài toán nói chung, cũng 
như làm một bài toán số học nói riêng vừa phải tiếp tục công việc trước đó, 
vừa phải hoàn thành nhiệm vụ của lớp nối tiếp sau, nên ở mỗi giai đoạn, giáo 
viên phải vừa xây dựng kiến thức mới, vừa có kế hoạnh nhắc lại các kiến 
thức làm nến tảng. Để tiết học trên lớp có kết quả thường đòi hỏi  những 
tiền đề nhất định về trình độ kiến thức, kỹ năng sẵn có của học sinh. Đối với 
diện học sinh yếu kém thì thiếu hẳn tiền đề này. Vì thế cần giúp nhóm học 
sinh này có đủ tiền đề đảm bảo trình độ xuất phát cho những tiết lên lớp đạt 
hiệu quả;
­ Trước hết, tôi nghiên cứu kỹ  nội dung chương trình, vạch rõ khối 
lượng tri thức và những kỹ năng cần thiết như những tiền đề xuất phát thông  
qua SGK, SGV, chuẩn kiên th

́ ức ...;
­ Sau đó, phân tích những tri thức kỹ năng có sẵn ở học sinh ở mức độ 
nào (qua quá trình tìm hiểu, quan sát  ở  học sinh trên lớp, qua các bài kiểm 
tra ...);
­ Tiếp đến, tôi tập trung vào việc tái hiện những tri thức và tái tạo 
những kỹ năng cần thiết một cách tường minh thông qua việc cho học sinh ôn 
tập những tri thức, kỹ năng trước khi dạy nội dung mới;
4


­ Có hệ thống câu hỏi từ đơn giản đến phức tạp, phù hợp với từng đối 
tượng học sinh, đặc biệt là tạo mọi điều kiện cho các em yếu kém có cơ hội 
phát biểu ý kiến của mình, với những câu hỏi thích hợp;
­ Các yêu cầu mà giáo viên đặt ra phải vừa sức với học sinh đại trà, 
dành nhiều thời gian để các em có thể tự tìm ra lời giải;
­ Chú trọng vào việc phân dạng các bài tập, nhằm giúp học sinh nắm  
được phương pháp giải đặt trưng của mỗi dạng, hình thành được mối liên hệ 
có tính hệ thống giữa các dạng bài tập;
­ Giáo viên cần nghiên cứu kỹ về hệ thống câu hỏi dẫn dắt, gợi ý trong quá  
trình soạn giảng, phải vừa sức, kích thích được óc tư duy, sáng tạo của học sinh;
­ Qua tìm hiểu thực tế cho thấy:  Kiến thức có nhiều “lỗ hổng” là một 
“bệnh” phổ biến của học sinh yếu kém Toán. Vai trò của việc đảm bảo trình 
độ  xuất phát là cần thiết nhưng chỉ  để  phục vụ  cho nội dung sắp học. Còn 
việc lấp lỗ  hổng về  kiến thức kỹ  năng là nhiệm vụ  cần thiết nhưng mang  
tính tổng quát không  phụ thuộc ý đồ chuẩn bị cho một bài học cụ thể nào sắp 
tới;
­ Trong quá trình dạy học người thầy cần quan tâm phát hiện những lỗ 
hổng về kiến thức, kỹ năng của học sinh. Tìm ra những “lỗ hổng” điển hình 
đối với học sinh yếu kém mà  ở  trên lớp vì điều kiện thời gian chưa khắc  
phục được để có kế hoạch tiếp tục giúp đỡ;

­ Trước hết phải làm cho các em hiểu rõ đề bài: Đề bài cho biết cái gì? 
Yêu cầu cái gì? Nếu học sinh không hiểu đề  bài thì không thể  tiếp tục quá 
trình giải toán để  đưa lại kết quả  đúng được. Để  rèn một kiến thức hay kỹ 
năng nào đó thì số  lượng bài tập cùng mức độ, cùng thể  loại đối với các em  
yếu kém cần nhiều hơn bình thường. Do đó giáo viên cần chú ý gia tăng  số 
lượng bài tập cùng thể  loại. Thông thường khi ra bài tập cho đối tượng học 
sinh yếu, kém không nên ra quá nhiều và khó, các dạng bài tập phải vừa sức  
với các em đặc biệt là có kiểm tra, chấm, chữa và cho điểm để  động viên, 
khuyến khích các em;
­ Được bước đi theo từng bậc thang vừa sức với mình, các em yếu kém 
sẽ  tự  tin hơn, không còn cảm giác bị  hụt hẫng và sợ  ngã. Sự  tự  tin giúp các  
em có thể tự leo hết các nấc thang dành cho mình. Từ đó dần dần chiếm lĩnh 
tri thức và kỹ năng cơ bản cần thiết. Các bậc thang dù có thấp song sự kiên trì  
và nghị lực mới là điều quan trọng giúp các em vượt qua tình trạng yếu kém  
hiện tại;
­ Hướng dẫn cho học sinh có phương pháp học tập tích cực và khoa 
học, có sổ tay toán học nhằm tích lũy những kiến thức cơ bản và quan trọng,  
đặc biệt là phải nắm vững các phương pháp đặc thù của một bài toán. Một  
thực tế vẫn xảy ra thường xuyên là học sinh không biết cách học như thế nào 
cho có hiệu quả. Các em do không có kỹ năng học tập nên thường chưa học  
5


kỹ, thậm chí chưa hiểu lý thuyết đã lao vào làm bài tập, đọc chưa kỹ  đề  đã 
đặt bút vào làm bài, trong khi làm bài các em thường vẽ  hình cẩu thả, viết  
nháp lộn xộn...Vì thế việc hướng dẫn các em phương pháp học cũng đóng vai  
trò hết sức quan trọng.
Trước hết cần nói rõ yêu cầu cơ bản của việc học Toán: 
­ Phải nắm vững lý thuyết trước khi làm bài tập;
thận;


­ Trước một bài tập cần đọc kỹ đầu bài, vẽ  hình rõ ràng, viết nháp cẩn  

­ Sau khi học xong một chương cần giúp học sinh hệ  thống hoá kiến 
thức (tốt nhất là bằng bảng hoặc bằng sơ  đồ  tư  duy). Tóm tắt lý thuyết cơ 
bản và các công thức quan trọng cũng như cách giải một số dạng toán cơ bản 
và dán vào góc học tập;
­ Tổ chức các trò chơi thông qua việc tìm đáp số của một bài toán, tạo 
không khí sôi nổi, thoải mái trong giờ học, kích thích các hoạt động của học 
sinh;
­ Thông qua các bài học hay bài tập giáo viên cần tăng cường giáo dục 
thực tế nếu có để các em thấy được toán học đã vận dụng vào thực tế cuộc 
sống như thế nào, toán học quan trọng với cuộc sống chúng ta ra sao. Ví dụ 
như sau bài: Ứng dụng thực tế của tam giác đồng dạng mà chúng đã đo được 
chiều cao của vật và khoảng cách giữa hai địa điểm, cũng với yêu cầu như 
thế ta lại giải quyết được kiến thức của lớp 9 sau bài ứng dụng thực tế các tỉ 
số lượng giác của góc nhọn...;
­ Bên cạnh đó việc liên hệ kiến thức toán vào các môn học khác cũng 
không kém phần quan trọng. Ví dụ như sau khi học về tỉ lệ xích ở lớp 6 cho 
học sinh thấy liên quan đến môn Địa lí ...;
­ Tạo điều kiện cho các em tham gia thực hành ngoài trời, tô ch
̉ ức cho 
các em tham gia các giờ học ngoại khóa, tạo cho các em cảm giác tự do, thoải 
mái trong giờ học giúp các em hứng thú để đat k
̣ ết quả tốt hơn.
Nhưng để  làm được những điều trên, cần có một quá trình luyện tập 
lâu dài, cần có sự phối hợp đồng bộ giữa các khối lớp, ca hai phía giáo viên và
̉
 
học sinh, cần có sự  thống nhất trong mọi hoạt động. Mặt khác, đòi hỏi giáo 

viên phải biết nắm bắt được mặt mạnh ở mỗi em, gợi ý, hướng dẫn các em  
theo cách gần gũi và hiểu được ý đồ của các em nhằm tạo cho các em cảm giác 
thoải mái trong giờ học.     
III. Khả năng áp dụng của giải pháp
Sáng kiến kinh nghi ệm m ột vài kinh nghi ệm giúp học sinh yếu kém 
học tốt môn Toán đang trình bày nói chung không nặng tính lí luận mà chủ 
yếu đi vào thực tế  giảng dạy. Do  đó, mọi giáo viên làm công tác giảng 
dạy hầu như  đều có thể  áp dụng ngay trong công việc của bản thân tại 
6


bất kì đơn vị  nào, hoặc rút tỉa trong đó một vài điểm  mà mình tâm đắ c để 
thực hiện. Trong quá trình thực dạy, qua t ừng ti ết, t ừng bài, từng học kì, 
từng năm học, bằng kinh nghi ệm th ực t ế c ủa mình có thể  khái quát thành  
những vấn đề mang tính cụ thể hơn để thực hiện.
IV. Hiệu quả lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp 
dụng giải pháp
Với những kinh nghiệm trên tôi đã áp dụng vào thực tế công tác giảng 
dạy trong các năm qua. Với cách làm này các em rất hứng thú và yêu thích 
môn Toán hơn, tự  tin hơn trong học tập và bản thân người viết đã thu được  
một số kết quả như sau:
Năm học

Giỏi

Khá

Trung bình

Yếu


Kém

2017 ­ 2018

32,88%

32,88%

27,40%

6,85%

0%

có.

V.  Những người tham gia tổ chức áp dụng sáng kiến lần đầu: Không 
VI . Tài liệu kèm theo: Không có.

7



×