Tải bản đầy đủ (.docx) (29 trang)

Đổi mới cơ chế quản lý đầu tư xây dựng, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư XDCB.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (185.12 KB, 29 trang )

Đổi mới cơ chế quản lý đầu t xây dựng, nâng cao
hiệu quả sử dụng vốn đầu t XDCB.
=======*=======
I. Một số vấn đề tồn tại trong cơ chế quản lý đầu t xây
dựng và thực tế sử dụng vốn đầu t XDCB thời gian qua:
A. Những vấn đề tồn tại trong cơ chế quản lý đầu t và xây dựng:
1. Cha có bộ luật về quản lý đầu t xây dựng:
Quá trình đầu t XDCB hết sức phức tạp, sản phẩm lại có giá trị lớn, vốn đầu
t nhiều, thời gian lâu. Quá trình tạo ra sản phẩm đầu t liên quan đến nhiều nghành,
nhiều cấp. Việc nghiên cứu ban hành bộ luật về quản lý đầu t và xây dựng là một
việc làm hết sức khẩn trơng, cấp bách. Thực tế đến nay ở nớc ta vẫn cha có bộ luật
về quản lý đầu t và xây dựng.
Từ 1958 đặc biệt là năm sau 1975 đến nay Chính Phủ và các Bộ, các
nghành liên tục có những nghị định, thông t qui định và hớng dẫn về quản lý đầu
t XDCB ở nớc ta nhng thiếu đông bộ, lại thờng xuyên thay đổi, bổ sung, làm ảnh
hởng đến tính ổn định, gây nhiều khó khăn, phức tạp trong quản lý, ảnh hởng rất
lớn đến chất lợng và hiệu quả quản lý. Cụ thể, ngày 16/7/1996 Chính phủ đã ban
hành Nghị định 42/CP về Điều lệ quản lý đầu t và xây dựng và Nghị định 43/CP
về quy chế đấu thầu. Đến ngày 23/8/1997, Chính phủ ban hành Nghị định 92/CP
về việc sửa đổi, bổ sung một số điều khoản của Điều lệ quản lý đầu t và xây dựng
và Nghị định 93/CP về việc sửa đổi, bổ sung một số điều khoản của Quy chế đấu
thầu. Đến ngày 8/7/1999 Chính phủ lại ban hành Nghị định 52/1999/NĐ-CP về
Quy chế quản lý đầu t và xây dựng, thay thế điều lệ quản lý đầu t và xây dựng đã
ban hành theo Nghị định 42/CP ngày 16/7/1996 và Nghị định 92/CP ngày
23/8/1997 của Chính phủ. Ngày 5/5/2000, Chính phủ lại ban hành Nghị định số
12/2000/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của quy chế quản lý và xây dựng
ban hành kèm theo Nghị định số 52 nói trên. Và gần đây nhất, ngày 30 tháng 01
năm 2003 Chính phủ đã ban hành Nghị định 07/2003/NĐ-CP về sửa đổi bổ sung
một số điều của Quy chế quản lý đầu t và xây dựng ban hành kèm theo
NĐ52/1999/NĐ-CP và Nghị định 12/2000/NĐ-CP của Chính phủ.
Sự thay đổi văn bản một cách thơng xuyên làm khó khăn và hạn chế hiệu


quả trong quản lý. Có những văn bản quy định và hớng dẫn cha đI vào thực tế nh-
ng đã có sự thay đổi hoặc bị thay thế. Tuy có sự bổ sung, thay đổi cho phù hợp với
tình hình mới nhng quy định này mới chỉ giải quyết đợc các vấn đề cấp bách trớc
mắt và cha đồng bộ, thậm chí tráI ngợc nhau. Bên cạnh đó, còn nhiều vấn đề và
lĩnh vực cha đợc quy định và giải quyết một cách triệt để nh: Quy hoạch xây
dựng, trách nhiệm cụ thể, rõ ràng của từng bên liên quan trong từng giai đoạn của
quá trình đầu t và xây dựng
2. Những tồn tại trong công tác quy hoạch:
Chúng ta đều biết răng, quy hoạch xây dựng đòi hỏi phải đI trớc một bớc để
phục vụ cho đầu t-xây dựng các dự án , nhng hiện nay công tác khảo sát xây dựng
và quy hoạch chi tiết trong các đô thị và các khu côngn nghiệp tập trung vẫn cha
đáp ứng đợc yêu cầu phát triển của các đối tợng này. Nguyên nhân chủ yếu vẫn là
tình trạng thiếu vốn đầu t cho các dự án quy hoạch , cộng với cách quản lý phân
bổ vốn hiện nay đã ít lại thiếu tập trung, dàn trải và cha đợc u tiên đúng chỗ, đúng
lúc, làm giảm hiệu quả phục vụ kịp thời công tác đầu t xây dựng.
Khung pháp luật để quản lý xây dựng còn thiếu, cha đông bộ với lĩnh vực
xây dựng nói chung và quy hoạch xây dựng đô thị, các khu công nghiệp tập trung
nói riêng, thể hiện rõ qua quy trình kiểm soát, phát triển ở tầm vĩ mô, mặc dù đã
đợc thiết lập từ khâu lập, xét duyệt quy hoạch, giới thiệu địa điểm xây dựng, cấp
chứng chỉ quy hoạch, cấp đất, cấp phép xây dựng Quản lý quy hoạch xây dựng
phát triển đô thị và các khu công nghiệp là những vấn đề lớn liên quan đến nhiều
nghành, nhiều cấp nhng khung thể chế cho lĩnh vực này đến nay vẫn còn nhiều
điểm cha đợc làm rõ. Đặc biệt, sự phối hợp giữa các nghành trong quản lý phát
triển mạng lới đô thị quốc gia, các vùng trọng điểm, các đô thị lớn nh Hà Nội, TP
Hồ chí Minh, các khu đô thị mới với hàng ngàn ha, các khu kinh tế cửa khẩu và
các đặc khu kinh tế hành chính còn gặp nhiều khó khăn.
3. Trình tự đầu t xây dựng và thủ tục hành chính trong việc chấp hành
trình tự này:
3.1/ Thời gian thực hiện các thủ tục hành chính đối với một dự án đầu t là
quá dài, tối thiểu phải từ 3 tháng và tối đa phải đến vài ba năm, nhng vẫn cha đạt

đợc hiệu quả nh mong muốn.
Tình trạng trên đã làm cho các chủ đầu t nớc ngoài thiếu kiên nhẫn, nhiều
khi phải bỏ cuộc. Còn các chủ đầu t trong nớc thì phải chịu đựng gian khổ. Tỷ lệ
giải ngân rất thấp. Nh vậy, khó khăn trong đầu t hiện nay không phải là thiếu vốn,
mà chính là việc thực hiện các thủ tục hành chính còn quá phiền hà, đã làm giảm
tốc độ giải ngân và thực hiện đầu t với một thực tế đáng lo ngại.
3.2/ Nguyên nhân của tình hình trên đây là do:
- Các văn bản quy phạm pháp luật cha quy định thời gian cụ thể phải hoàn
thành thủ tục hành chính đối với một số bớc nh: Xác định hớng đầu t, lựa chọn
chủ đầu t; lựa chọn xét duyệt địa điểm xây dựng; thẩm định thiết kế sơ bộ; đăng
ký vốn; đăng ký sản xuất kinh doanh; giao nhận đất tại hiện trờng phê duyệt thiết
kế kỹ thuật, tổng dự toán; nghiệm thu công trình; quyết toán vốn đầu t và đăng ký
quyền sở hữu công trình. Ngoài ra, các quy định của pháp luật về thủ tục hành
chính mới chỉ là lý thuyết, thực tế thì diễn ra không đúng nh vậy.
- Hai lĩnh vực đầu t và xây dựng lồng ghép còn nhiều chồng chéo, bất cập.
- Năng lực và sự hiểu biết về pháp luật của các chủ đầu t và cơ quan t vấn
quá hạn chế, không nắm bắt kịp tình hình đổi mới của pháp luật về đầu t và xây
dựng nên khi chuẩn bị các thủ tục đã tỏ ra lúng túng, tốn nhiều thời gian vô ích,
đôi khi còn làm trái quy định của pháp luật.
- Cơ quan quản lý nhà nớc có thẩm quyền và cán bộ thụ lý hồ sơ giải quyết
thủ tục hành chính cũng gây ra những phiền hà, chậm trễ không đáng có. Nguyên
nhân của tình trạng này có thể là:
+ Do kém năng lực gây chậm chễ;
+ Do đạo đức kém, gây phiền hà, tham nhũng, sách nhiễu dân;
+ Do sợ trách nhiệm, đùn đẩy công việc cho nhau;
+ Do sự phối hợp liên ngành kém;
+ Do bộ máy tổ chức không hợp lý. Nhiều địa phơng quan niệm đơn giản
là cứ nhập nhiều sở, ban ngành lại thì sẽ giảm bớt đầu mối, nh vậy cải cách thủ
tục hành chính sẽ tốt.
+ Do thiếu công khai dân chủ. Các thủ tục hành chính không đợc niêm yết

rõ ràng và không có cán bộ tiếp dân đủ năng lực để hớng dẫn cho dân...;
+ Lợng của cán bộ thi hành công vụ cha tơng xứng với hao phí lao động bỏ
ra. Do vậy một bộ phận công chức tinh thần trách nhiệm thấp, thiếu nhiệt tình
trong giải quyết công việc.
+ Chi phí cho việc giải quyết thủ tục hành chính cho các cơ quan hành
chính sự nghiệp còn quá thấp.
- Do quy định của pháp luật đôi khi còn cứng nhắc, nặng nề về cơ chế "xin
cho", không phù hợp với thực tế khách quan. Ví dụ:
+ Việc thu hồi đất, giao đất không nên để Thủ tớng Chính phủ quyết định
quá nhiều mà nên phân cấp cho UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ơng.
Chính phủ chỉ nên chỉ đạo về quy hoạch, kế hoạch, chính sách, kiểm tra và chỉ thu
hồi, giao lại đất đối với các dự án đầu t và xây dựng công trình sử dụng vào mục
đích quốc phòng, an ninh, lợi ích công cộng. Còn đối với các dự án đầu t và xây
dựng công trình sản xuất kinh doanh, thì nên cho phép chuyển quyền sử dụng đất
thông qua giao dịch dân sự.
+ Việc đền bù giải phóng mặt bằng là khâu then chốt, thờng chiếm 60%
thời gian thực hiện đầu t và có thể kéo dài từ 2 đến 3 năm. Không phải chỉ do giá
cả, đặc biệt là việc phải chuẩn bị trớc các khu tái định c.
+ Việc rà soát, đổi mới văn bản pháp quy thiếu đồng bộ, thiếu thống nhất
và nhiều khi mâu thuẫn nhau, cũng gây ra tình trạng chờ đợi không cần thiết. Ví
dụ: việc bãi bỏ giấy phép xây dựng đối với công trình sử dụng vốn ngân sách nhà
nớc; việc cho phép chủ đầu t các dự án sử dụng vốn không thuộc ngân sách nhà n-
ớc tự quyết định đầu t, đã bất cập với thủ tục giao đất, cho thuê đất...
+ Một số dự án đã giải quyết theo trình tự thủ tục đầu t từ trớc tới nay
không còn phù hợp với các quy định pháp luật mới nữa, nhng cũng không đợc
xem xét chỉ đạo, tháo gỡ kịp thời, dẫn đến sự trì trệ lớn nh: Dự án khu đô thị mới
Nam TP. Hồ Chính Minh; khu đô thị mới Bắc Thăng Long, Vân Trì, Hà Nội...
4. Hệ thống chuẩn mực áp dụng trong lĩnh vực quản lý đầu t và xây
dựng còn nhiều hạn chế:
Tình trạng quản lý đầu t XDCB hiện nay có nhiều bất cập đã gây ra tình

trạng thất thoát, lãng phí và tham nhũng nhiều. Môt phần là ở việc xây dựng các
chuẩn mực để lập dự toán, thanh quyết toán còn nhiều hạn chế. Các chuẩn mực
này của ta hiện nay vừa thiếu, vừa lạc hậu, có những tiêu chuẩn từ những năm 60
vẫn còn đợc áp dụng và nhất là không đông bộ. Mặt khác, các bộ định mức chuẩn
về chi phí chung, về các loại công tác xây lắp, về chi phí vận chuyển, về hệ số đào
đắp, vận chuyển đất đá, cát, các quy định về giá cho công trình trọng điểm, cho
khu vực và địa phơng... vẫn còn chứa đựng nhiều bất cập và gây tranh cãi, khó
khăn cho việc quản lý cha nói đến vấn đề hiểu sai gây hậu qảu cho quản lý.
Có thể lấy ví dụ, có công trình mà nếu áp dụng tỷ lệ chi phí chung là 5,5%
chứ không áp dụng tỷ lệ 8,4% thì đã tiết kiệm đợc hơn 6 tỷ đồng; nếu áp dụng chi
phí đào, xúc, vận chuyển đất cát bằng đất cấp 1 chứ không phải bằng 85% đất cấp
3 thì đã tiết kiệm đợc hơn 2,155 tỷ đồng; nếu áp dụng hệ số K cho đất đạt K98 là
1,1 chứ không phải là 1,2 đã có thể tiết kiệm đợc 3,883 tỷ đồng...Chính điều này
đã chứng minh rằng bản thân các cơ chế, chính sách đã bao hàm những khả năng
dẫn tới lãng phí, thất thoát. Từ những vấn đề đó, chúng ta cần phải nhanh chóng
xây dựng, sửa đổi, bổ sung để có đợc một chuẩn mực khách quan, phù hợp, hiệu
qảu trong quản lý, bảo vệ đợc lợi ích Nhà nớc, tập thể doanh nghiệp và ngời lao
động. Trong quản lý nếu thiếu hệ thống chuẩn mực này, dù có cố gắng đến đâu
cũng không đem lại hiệu quả, thậm chí còn phản tác dụng và gây hậu quả.
B. Những tồn tại trong thực tế sử dụng vốn đầu t XDCB thời gian qua:
1. Tình trạng đầu t dàn trải, thiếu tập trung:
Trong suốt thời gian 10 năm thực hiện đầu t xây dựng cơ bản, điều
đáng quan tâm là đầu t cha tập trung và bám sát các mục tiêu quan trọng của
nền kinh tế. Cùng với việc phân cấp mạnh trong đầu t, vấn đề dàn trải đã xảy
ra ở khắp các Bộ, ngành, địa phơng. Mặc dù trong suốt thời gian qua chúng
ta đã đa ra nhiều biện pháp nhằm hạn chế việc đầu t dàn trải nhng mức độ
giảm cha đợc nhiều, năm 1997 có 6824 công trònh; năm 1998 khoảng 5000
công trình; năm 1999 gần 4000 công trình.
Đầu t dàn trải dẫn đến nhiều công trình không thực hiện đúng tiến độ
kéo dài thời gian thi công, khối lợng dở dang quá lớn gây lãng phí vốn và

không đa công trình vào khai thác sử dụng đúng tiến độ. Năm 1997 bố trí
6824 công trình, trong đó Trung ơng 2864 công trình có 978 công trình khởi
công mới, 186 công trình trọng điểm của Bộ giao thông vận tải (đờng Láng -
Hoà Lạc, quốc lộ 51, các công trình thoát lũ đồng bằng sông Cửu Long...)
Chính phủ yêu cầu phải hoàn thành trong năm 1997 nhng giá trị khối lợng
xây dựng cơ bản thực hiện còn lại phải chuyển sang năm 1998 thi công tiếp
341 tỷ đồng, cha kể khối lợng phải vay vốn của Ngân hàng cổ phần Hàng hải
để thi công. Vậy nhng do các Bộ, ngành vẫn bố trí vốn dàn trải, cha xuất
phát từ tiến độ thực hiện dự án, từ nhu cầu thực tế và sự cần thiết của công
trình nên nhiều công trình khối lợng thực hiện lớn nhng lại bố trí kế hoạch
vốn thấp nên không có vốn để thanh toán. Chính do sự đầu t dàn trải theo cơ
chế cấp phát mang tính chất chia phần. Mỗi ngành, cấp, địa phơng hàng
năm chỉ nhận đợc một khối lợng vốn nhất định để đầu t. Nếu đủ thì không
sao nhng lại có những công trình bị thiếu đang thi công bị dừng lại không
thể tiếp tục đợc. Còn có những công trình bị thừa, vì vậy đến nay vẫn còn
tình trạng nhiều Bộ, địa phơng vẫn đang làm thủ tục điều chỉnh vốn từ các
công trình không thực hiện đợc hay thừa vốn sang các công trình đã có khối
lợng thực hiện hay đang thực hiện mà bị dừng lại do thiếu vốn.
2. Tiến độ thực hiện đầu t và giải ngân vốn đầu t XDCB còn chậm:
Theo nh quy định về việc lập kế hoạch đầu t, tuy Chính phủ giao kế
hoạch đầu t xây dựng cơ bản từ rất sớm nhng các Bộ, ngành địa phơng phân
khai kế hoạch vẫn chậm, nhiều dự án với số vốn lớn khoảng 1000 tỷ đồng
cha có quyết định đầu t, tổng dự án đợc duyệt nhng vẫn đợc bố trí vào kế
hoạch đàu t kể cả các công trình quan trọng của Nhà nớc nh quốc lộ 1A,
trung tâm hội nghị Hùng Vơng...
Trong năm 1997 vốn đầu t xây dựng cơ bản là 12526 tỷ đồng trong đó
vốn Nhà nớc là 8092 tỷ đồng, vốn ngoài nớc là 4434 tỷ đồng, bao gồm cả vợt
kế hoạch năm 1996 là 400 tỷ đồng. Các công trình Trung ơng quản lý 8902
tỷ, địa phơng quản lý 3624 tỷ. Cuối năm 1997 giá trị khối lợng xây dựng cơ
bản thực hiện 8626,6 tỷ đồng, đạt 69% kế hoạch (vốn trong nớc 6354,3 tỷ

đồng đạt 79% kế hoạch và vốn ngoài nớc 2274,3 tỷ đồng đạt 51% kế hoạch).
Trong đó giá trị khối lợng xây dựng cơ bản thực hiện các công trình trung -
ơng 5456 tỷ đồng đạt 61% kế hoạch (vốn trong nớc 3556 tỷ đồng đạt 72% kế
hoạch, ngoài nớc là 1900,4 tỷ đồng đạt 50% kế hoạch). Các công trình địa
phơng là 3172 tỷ đồng đạt 88% kế hoạch (vốn trong nớc 2798,3 tỷ đồng dạt
94% kế hoạch, vốn ngoài nớc 373,9 tỷ đồng đạt 59% kế hoạch).
Tình trạng này tiếp tục diễn ra trong những năm tiếp theo đặc biệt năm
2000 trong 6 tháng đầu năm chỉ đạt đợc khối lợng vốn đầu t xây dựng cơ bản
thuộc Ngân sách Nhà nớc là 11400 tỷ đạt 44,3% so với kế hoạch mặc dù các
Bộ, ngành, địa phơng đã có rất nhiều cố gắng.
Nguyên nhân của sự chậm trễ này là do: Các cấp các ngành triển khai
rất chậm các giải pháp về kích cầu đầu t cha thấy đợc hết yêu cầu cấp bách
và ý nghĩa quan trọng trong việc tập trung chỉ đạo điều hành đẩy nhanh tiến
độ thực hiện kế hoạch đầu t xây dựng cơ bản nhằm đạt cho đợc mục tiêu
tăng trởng kinh tế và ổn định xã hội năm 2000. Mặt khác, quy trình thông
qua kế hoạch đầu t xây dựng ở một số ngành, địa phơng còn rờm rà qua
nhiều lần xem xét, tốn nhiều thời gian thẩm định và ra quyết định. Một số
Bộ, ngành địa phơng do cha thực hiện hết nguồn vốn bổ sung năm trớc nên
cha khẩn trơng phân bổ nguồn vốn năm sau. Đồng thời nguồn vốn dành cho
đầu t xây dựng cơ bản hàng năm còn hạn hẹp làm cho việc bố trí vốn đầu t
còn theo kiểu bao cấp mang tính bình quân.
Nguyên nhân thứ hai là chất lợng chuẩn bị dự án đầu t còn thấp. Điều
này đợc thể hiện ở khâu điều tra, khảo sát ban đầu không tính toán hết khả
năng, dẫn đến không sát với thực tế. Nhiều dự án chất lợng khả thi cha cao,
cha xem xét đầy đủ đến yếu tố đầu ra nên trong quá trình triển khai thờng bị
vớng mắc và phải thay đổi nhiều lần về quy mô, tổng mức đầu t, thiết kế kỹ
thuật, tổng dự toán... làm chậm tiến độ thực hiện dự án.
Nguyên nhân thứ ba là cơ chế quản lý trong lĩnh vực đầu t và xây dựng
thể hiện trong các nghị định của Chính phủ dù đã đợc đổi mới nhng vẫn còn
hạn chế. Thêm vào đó việc hớng dẫn thi hành còn thực hiện chậm.

Nguyên nhân thứ t là chủ trơng phân cấp thẩm định và phê duyệt dự
án cha đi đôi với việc tăng cờng bộ máy quản lý nghiệp vụ về đầu t xây dựng
cơ bản ở các cấp. Trớc hết phải thấy rằng chủ trơng phân cấp này là đúng
nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho cơ sở, song việc này lại cha làm rõ trách
nhiệm cụ thể của từng ngành từng cấp, cha có các chế tài đối với các cá nhân
và đơn vị không thực hiện theo đúng quy định.
Cuối cùng là việc chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng
đất của các thành phố, thị xã thực hiện rất chậm do sự phối hợp không đồng
bộ giữa các ngành địa chính và xây dựng. Các thủ tục cấp đất cho thuê đất đã
đợc cải tiến nhng thực tế chủ đầu t vẫn gặp không ít khó khăn, mất nhiều
thời gian và chi phí tốn kém...
3. Cơ cấu đầu t trong xây dựng cơ bản còn có mặt cha hợp lý
Sự cha hợp lý này không phải diễn ra ở sự phân bố giữa các ngành mà
trong từng ngành: Trong nông nghiệp ít chú ý đến đầu t nâng cao chất lợng
sản phẩm hàng hoá, công nghệ sinh học, giống, công nghệ sau thu hoạch nh
chế biến và bảo quản, mạng lới dịch vụ tiêu thụ sản phẩm...
Đầu t cho công nghiệp còn thấp cha đủ cơ cấu lại ngành công nghiệp
khả năng cạnh tranh cha chú trọng đầu t để tăng công suất nâng cao chất l-
ợng sản phẩm mà đầu t ồ ạt và một số ngành cung vợt quá cầu nh thép, xi
măng, ô tô, rợu, bia, nớc ngọt... Rất nhiều công ty liên doanh hoạt động
trong lĩnh vực này nh thép Việt Hàn, Việt úc, xi măng liên doanh Việt Pháp
nh Bút Sơn, Việt - Nhật nh Nghi Sơn gây nên sự d thừa không cần thiết.
4. Tình trạng vốn chờ dự án, thừa-thiếu vốn giả tạo:
Một nghịch lý đang diễn ra gay gắt trong lĩnh vực đầu t xây dựng cơ
bản là trong khi nhiều dự án quan trọng không thể triển khai đợc do thiếu
vốn thì những dự án đã ghi kế hoạch lại không thể tiêu hết số vốn đã đợc
phân bổ. Cho đến đầu năm 2000 nguồn vốn Ngân sách dành cho đầu t xây
dựng cơ bản năm 1999 còn đọng trên 2000 tỉ đồng nằm chờ công trình. Mặc
dù Thủ tớng chính phủ đã đồng ý cho Ngân sách đợc cấp phát nguồn vốn kế
hoạch năm 1999 đến hết ngày 31-3-2000 (thêm 3 tháng) nhng theo Kho bạc

Nhà nớc thì việc giải ngân là không đúng hạn. Nguyên nhân chính vẫn là do
tiến độ triển khai của nhiều dự án còn chậm khiến khối lợng thực hiện không
có hoặc nếu có thì cũng không bằng so với kế hoạch để chuyển tới thanh
toán cho kho bạc.
Theo thống kê cho thấy, đến hết tháng 12 năm 1999, riêng nguồn vốn
Trung ơng dành cho đầu t xây dựng còn thừa tới gần 1900 tỷ đồng. Cùng với
nguồn vốn Ngân sách địa phơng, vốn Ngân sách vay trong và ngoài nớc
(theo ớc tính còn 2000 tỉ đồng)... đã tạo ra áp lực rất lớn về giải ngân trong
những tháng đầu năm 2000. Mặc dù chính phủ đã đề ra các giải pháp tháo gỡ
bằng các văn bản ban hành cho phép chủ đầu t đợc tạm ứng trớc một phần
vốn hay cho thanh toán trớc tới 80% khối lợng công việc đã hoàn thành nhng
cha đủ thủ tục thanh toán, đơn giản hoá thủ tục thanh toán vốn đầu t xây
dựng cơ bản. Đặc biệt, việc nghiệm thu khối lợng thực hiện, chất lợng công
trình mà trớc đây Tổng cục đầu t phát triển thờng lấy làm lí do chính để kéo
dài thời gian cấp phát vốn nay đã không còn đợc áp dụng đối với hệ thống
kho bạc. Các bên A (chủ dự án) và bên B (đơn vị thi công) tự chịu trách
nhiệm về việc này và cứ có xác nhận của bên A là Kho bạc cấp phát vốn. Tuy
nhiên, những biện pháp thông thoáng này vẫn cha khắc phục đợc tình trạng
chậm trễ trong giải ngân nguồn vốn đầu t xây dựng cơ bản bằng vốn Ngân
sách. Sang đến năm 2001, tình trạng vốn chờ dự án lại đợc tái diễn và dờng
nh đây là một căn bệnh khó chữa mà chúng ta đang gặp phải. Theo báo cáo
của Kho bạc Nhà nớc các tỉnh, Thành phố thuộc Trung ơng, qua 10 tháng
thực hiện kế hoạch đầu t xây dựng cơ bản năm 2001 giá trị khối lợng xây
dựng cơ bản hoàn thành đạt 36,6% so với kế hoạch năm, trong đó Trung ơng
đạt 40,1% kế hoạch, địa phơng đạt 34,6%. Vốn thanh toán gồm cả tạm ứng
đạt 41,3% so với kế hoạch năm, trong đó Trung ơng đạt 46,1%, địa phơng
đạt 38,7% kế hoạch. Số vốn thanh toán 10 tháng đầu năm là 20700 tỉ đồng
trong đó vốn thanh toán cho kế hoạch năm 2000 kéo dài khoảng 6000 tỉ
đồng và thanh toán cho kế hoạch năm 2001 đạt khoảng 14700 tỉ đồng cao
hơn so với cùng kỳ năm 2000 (16000 tỉ đồng).

Nguyên nhân của việc tỷ lệ vốn thanh toán so với kế hoạch còn thấp là
do nhiều dự án mặc dù đã có khối lợng thực hiện nhng rất thiếu các điều
kiện thanh toán cho nên không thể thanh toán đợc. Đối với các dự án nhóm
A, kể cả các dự án chuyển tiếp nh dự án xây dựng 38 cầu giao thông nông
thôn đồng bằng sông Mê Kông, dự án hồ Tả Trạch, dự án làng văn hoá du
lịch các dân tộc Việt Nam... tiến độ triển khai còn rất chậm, bổ sung hợp
đồng nên đã ảnh hởng lớn đến tiến độ thực hiện và thanh toán...
5. Lãng phí thất thoát vốn trong đầu t xây dựng cơ bản.
Thiếu vốn cho tăng trởng kinh tế đang là vấn đề cấp bách đặt ra đối
với nớc ta, song vấn đề sử dụng cha có hiệu quả nhất là thất thoát lãng phí lại
vẫn đang tồn tại. Hiện nay, nhiều ý kiến cho rằng mức thất thoát vốn đầu t
xây dựng cơ bản vào khoảng 15%, 20%, 25% thậm chí con số này có thể lên
tới 30% hoặc hơn, nh ở Hà Nội trong 3 năm 1991 - 1993 Ngân hàng đầu t và
phát triển Thành phố đã tiến hành thẩm định, giám sát dự toán các công trình
và hạng mục công trình đợc đầu t bằng vốn ngân sách Trung ơng, qua đó đã
rút giảm đợc 27,7 tỉ đồng chiếm 5% giá trị quyết toán. Tính chung lại tỷ lệ
vốn đã rút giảm đợc 10% so với vốn dự toán ban đầu. Riêng năm 1993 Sở
giao dịch của Ngân hàng đầu t và phát triển Việt Nam và các chi nhánh trong
toàn quốc đã tiến hành thẩm định 3487 dự án đầu t bằng vốn ngân sách
Trung ơng với tổng giá trị 2439 tỉ đồng. Qua công tác thẩm định đã tiết kiệm
cho ngân sách Nhà nớc 88 tỷ đồng chiếm 3,7% tổng vốn đầu t nói trên, rút
giảm ở khâu thanh toán và quyết toán đợc 40 tỷ đồng. Trong đó, Hải Phòng
số vốn giảm đợc 9,7 tỷ đồng chiếm gần 11% Gia Lai 6,5 tỷ đồng chiếm 10%
, theo đánh giá sơ bộ của n ớc ta năm 1992 tổng vốn đầu t xây dựng cơ bản
toàn xã hội là 200000 tỷ đồng, thất thoát khoảng 700 tỷ đồng. Năm 1993,
tổng vốn đầu t xây dựng cơ bản toàn xã hội là 30000 tỷ đồng thất thoát
khoảng 910 tỷ đồng
Trong năm 1998, vốn đầu t xây dựng cơ bản đã bị cắt giảm nhằm hạn chế
lãng phí và thất thoát là838 tỷ đồng so với dự toán, riêng khâu kiểm tra quyết toán
cắt giảm 105 tỷ đồng thẩm tra phiếu giá 423 tỷ đồng . Đây chỉ là những con số

sơ bộ, nhiều Bộ, ngành ngoài sự thẩm tra của tổng cục đầu t phát triển đã tiếnhành
các biện pháp kiên quyết nh: Bộ thơng mại cắt giảm 126 tỷ đồng, nhỏ nh tỉnh Bắc
Giang cũng tiết kiệm đợc 10 tỷ đồng, Hà Nội cắt giảm bình quân từ 8 10% so
với giá trị tổng dự toán đã đợc duyệt.
Nguyên nhân của hiện tợng này là do cả nguyên nhân trực tiếp và gián tiếp:
- Thất thoát do nguyên nhân trực tiếp vì cố tình vi phạm các quy định về
chế độ quản lý của Nhà nớc. Theo báo cáo kết quả thanh tra tài chính năm 2001
do thanh tra Bộ tài chính thực hiện thì công tác quản lý vốn đầu t xây dựng cơ bản
đang vi phạm nghiêm trọng quy chế, quy định về xây dựng cơ bản.
- Thất thoát do nguyên nhân gián tiếp vì có những sơ hở trong chính sách,
chế độ quản lý kinh tế của nhà nớc ở các khâu của quá trình hoạt động đầu t và
xây dựng.
6/ Đánh giá tình hình thực hiện và giải ngân vốn đầu t XDCB năm
2002:
6.1/ Những tồn tại:
Theo báo cáo của KBNN ngày 14/1/2003 thì đến 31/12/2002 tổng giá trị
khối lợng XDCB hoàn thành trên phạm vi cả nớc gửi đến hệ thống KBNN để
thanh toán là 30602 tỷ đồng, đạt 59,4% kế hoạch cả năm. Trong đó, giá trị khối l-
ợng thực hiện các dự án do các ngành trung ơng quản lý là 9.924 tỷ đồng, đạt
51,2% so với kế hoạch; giá trị khối lợng thực hiện các dự án do địa phơng quản lý
là 20.679 tỷ đồng, đạt 64,4% so với kế hoạch đợc giao.
Tổng số vốn đầu t đợc thanh toán (giải ngân) qua hệ thống KBNN là
32.746 tỷ đồng (giá trị khối lợng thực hiện - KLTH: 30.603 tỷ đồng), bằng 63,6%
so với kế hoạch, song so với giá trị khối lợng thực hiện đạt 107%. Trong đó, số
vốn đầu t đợc giải ngân của các công trình trung ơng là 10235 tỷ đồng. So với kế
hoạch đợc giao đạt 52,8%, so với giá trị khối lợng thực hiện đạt 103,13%; tổng số
vốn thanh toán của các công trình địa phơng là 22.512 tỷ đồng, đạt 70,1% kế
hoạch đợc giao, so với giá trị khối lợng thực hiện đạt 108,86%.
Tình hình thực hiện giải ngân vốn đầu t XDCB theo kế hoạch đầu t năm
2002 cho thấy một số vấn đề cần khắc phục:

- Tình hình thực hiện vốn đầu t so với kế hoạch đợc giao đạt thấp, công
trình thuộc nguồn vốn NSTW đạt 51,2%; công trình thuộc nguồn vốn NSĐP đạt
64,4%.
- Giải ngân vốn đầu t XDCB cho các dự án so với kế hoạch đợc giao đạt
còn thấp, song so với tỷ lệ giữa giá trị khối lợng thực với kế hoạch vẫn cao hơn từ
1,6% đến 5,7%: Tỷ lệ thanh toán vốn đầu t so với kế hoạch đạt 63,6%; tỷ lệ giá trị
KLTH so với kế hoạch đạt 60,3%. Trong đó công trình thuộc NSTW có tỷ lệ vốn
thanh toán so với kế hoạch đợc giao đạt 52,8%, cao hơn tỷ lệ giá trị KLTH so với
kế hoạch (đạt 51,2%) là 1,6%; công trình thuộc vốn NSĐP có tỷ lệ vốn thanh toán
so với kế hoạch đạt 70,1%, cao hơn tỷ lệ giá trị KLTH so với kế hoạch (64,4%) là
5,7%.
- Công tác quản lý và giải ngân vốn đầu t XDCB luôn theo sát giá trị khối l-
ợng thực hiện. Vì vậy, tỷ lệ vốn đầu t XDCB đợc thanh toán (giải ngân) so với giá
trị khối lợng thực hiện đều đạt trên 100%, từ 102,2% đến 109,3% (trừ các dự án
thuộc chơng trình mục tiêu mới đạt 85,9%).
6.2/ Những nguyên nhân:
- Việc bố trí kế hoạch đầu t năm 2002 của các Bộ, ngành Trung ơng và địa
phơng vẫn cha đảm bảo tuân thủ đúng quy định về các điều kiện bố trí kế hoạch.
Nhiều dự án cha đủ thủ tục đầu t và xây dựng vẫn đợc các bộ, ngành, địa phơng
bố trí vào danh mục kế hoạch để rồi sau đó mới làm các thủ tục đầu t; đối với dự
án nhóm C thì hiện tợng bố trí vợt qui định 2 năm là phổ biến.
- Việc phân khai chi tiết kế hoạch đầu t cho từng dự án, công trình của các
Bộ, ngành, địa phơng rất chậm thờng sau 2-3 tháng, nhiều dự án đến tháng 6 hoặc
lâu hơn nữa (kể từ ngày Thủ tớng Chính phủ giao kế hoạch đầu t năm 2002) mới
triển khai.
- Ngoài kế hoạch đầu t năm, năm 2002 Chính phủ còn giao kế hoạch bổ
sung hai lần: tháng 3/2002 giao kế hoạch bổ sung theo Quyết định số 216/QĐ-
TTg là 1000 tỷ đồng; tháng 12-2002 tại Quyết định số 1117/QĐ-TTg là 1500 tỷ
đồng. Việc giao kế hoạch bổ sung chậm cũng làm ảnh hởng lớn đến triển khai
thực hiện kế hoạch nên giá trị khối lợng thực hiện của dự án đạt thấp dẫn đến tỷ lệ

vốn đầu t đợc giải ngân so với kế hoạch đạt thấp.
- Không chỉ các Bộ, ngành, địa phơng đã giao kế hoạch đầu t năm chậm
mà các chủ đầu t triển khai cũng chậm, bởi lẽ, một mặt, những tháng đầu năm các
chủ đầu t còn lo các thủ tục kế hoạch để thanh toán cho khối lợng các dự án đợc

×