Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

Bình luận các quy định của pháp luật hiện hành về chủ thể nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (120.97 KB, 14 trang )

MỞ ĐẦU
Hiện tượng phá sản phát sinh từ rất sớm. Lịch sử phá sản của thế giới ghi
nhận rằng Italia là nước khai sinh ra đạo luật phá sản đầu tiên từ thời kỳ La Mã.
Đến thời kỳ Trung cổ, các quốc gia Châu Âu cũng ban hành Luật Phá sản. Lúc đầu,
luật này được áp dụng và lĩnh vực thương nghiệp, sau đó mở rộng ra nhiều lĩnh
vực hoạt động sản xuất kinh doanh. Hiện tượng phá sản trở lên phổ biến trong thời
kỳ tư bản chủ nghĩa, nó là một trong những nguyên nhân thúc đẩy sự phát triển
kinh tế, hình thàn nên những tập đoàn kinh tế tư bản độc quyền. Ở Việt Nam, hiện
tượng phá sản mới chỉ xuất hiện và pháp luật phá sản mới chỉ ra đời do sự chuyển
hướng nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang cơ chế thị trường. Ở những mức độ
khác nhau, phá sản bao giờ cũng kéo theo những hậu quả kinh tế- xã hội nhất định
mà trực tiếp nhất là ảnh hưởng đến lợi ích kinh tế của chủ nợ, của bản thân doanh
nghiệp mắc nợ và của những người làm công.
Để đảm bảo quyền lợi cho các chủ thể nêu trên, sau nhiều lần ban hành, sửa
đổi bổ sung từ năm 1993, Luật phá sản đã đưa ra yêu cầu và giải quyết yêu cầu phá
sản ở Việt Nam, trong đó có những quy định về chủ thể nộp đơn yêu cầu mở thủ
tục phá sản. Để tìm hiểu rõ hơn về các chủ thể này, em xin phép được lựa chọn đề
tài số 14: “Bình luận các quy định của pháp luật hiện hành về chủ thể nộp đơn
yêu cầu mở thủ tục phá sản.”
Do vốn tri thức còn hạn chế nên trong bài làm không tránh khỏi những thiếu
sót, rất mong nhận được sự nhận xét, đánh giá và giúp đỡ của thầy/ cô để bài viết
được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cám ơn!


NỘI DUNG
Khái quát về phá sản, pháp luật phá sản và thủ tục phá sản doanh nghiệp,

I.

hợp tác xã.


1.

Khái niệm phá sản:

Theo quy định tại khoản 2 Điều 4 Luật Phá sản 2014 định nghĩa về thuật ngữ
“Phá sản” như sau: “ Phá sản là tình trạng của doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả
năng thanh toán và bị Tòa án nhân dân ra quyết định tuyên bố phá sản.”
Về thực chất doanh nghiệp, hợp tác xã là những thực thể xã hội và như vậy,
cũng như các thực thể xã hội khác, doanh nghiệp cũng có quá trình sinh ra, phát
triển và diệt vong. Giai đoạn diệt vong của doanh nghiệp, hợp tác xã được gọi là
Phá sản.
Dưới sự tác động của quy luật cạnh tranh, một số doanh nghiệp mạnh dần lên
chiếm lĩnh thị trường, ngược lại, một số doanh nghiệp khác yếu dần đi, sản xuất
kinh doanh đình đốn, nợ nần chồng chất, đi tới chỗ mất khả năng chi trả các nghĩa
vụ tài chính của mình và thực chất đã lâm vào tình trạng phá sản.
Tóm lại, phá sản luôn là một hiện tượng tất yếu trong nền kinh tế thị trường,
nó hiện hữu như là một sản phẩm của quá trình cạnh tranh, chọn lọc và đào thải tự
nhiên của nền kinh tế thị trường, bất kể đó là nền kinh tế thị trường phát triển ở các
nước trên thế giới hay nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam.1
2. Thủ tục phá sản

Trong tiếng Việt, thủ tục là những việc cụ thể phải làm theo một trật tự
quy định, để tiến hành một công việc có tính chất chính thức. Theo Nguyễn
Văn Thâm và Võ Kim Sơn, thủ tục có nghĩa là phương thức hay cách thức
giải quyết công việc theo một trình tự nhất định. Như vậy, thủ tục phá sản
1 Trường đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Thương mại Việt Nam I, nxb. Tư pháp, tr.430.


được hiểu là trình tự từng bước tiến hành giải quyết việc phá sản theo quy

định của pháp luật.2
Theo Luật Phá sản năm 2014, trình tự thực hiện thủ tục phá sản gồm
các bước chủ yếu sau: bước một, Đề nghị mở thủ tục phá sản; bước hai,
Xem xét, thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản; bước ba, mở thủ tục phá
sản; bước bốn, tổ chức hội nghị chủ nợ; bước năm, Phục hồi hoạt động kinh
doanh/ tuyên bố doanh nghiệp phá sản; bước sáu, Thi hành quyết định tuyên
bố doanh nghiệp phá sản.
Thủ tục phá sản là thủ tục do cơ quan tư pháp tiến hành. Đối tượng của
hoạt động tố tụng là các quan hệ pháp lý phát sinh giữa các chủ nợ (bên có
quyền được thanh toán) và con nợ (bên có nghĩa vụ thanh toán) theo cơ chế
đặc biệt. Xét về bản chất, thủ tục phá sản là một thủ tục đòi nợ tập thể và là
một thủ tục giải quyết tình trạng mất khả năng thanh toán. Trong nhiều
trường hợp, thủ tục phá sản còn có thể mở ra cơ hội phục hồi hoạt động sản
xuất kinh doanh cho con nợ, ngược lại cũng có thể chấm dứt sự tồn tại pháp
lý của con nợ bị phá sản.
Thủ tục phá sản được Nhà nước ghi nhận để bảo vệ lợi ích khác nhau
của nhiều chủ thể trong nền kinh tế. Thứ nhất, bảo vệ một cách hiệu quả
nhất quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ nợ; thứ hai, để bảo vệ lợi ích của
người mắc nợ, tạo cơ hội để người mắc nợ rút khỏi thương trường một cách
trật tự và để bảo vệ lợi ích của người lao động.
3. Đơn yêu cầu và chủ thể nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản
Đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản là yêu cầu của chủ nợ đề nghị Tòa án mở
thủ tục phá sản đối với doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán nợ.
Phá sản chỉ được tòa án xem xét, giải quyết trên cơ sở có yêu cầu mở thủ tục
phá sản.
2 Dương Kim Thế Nguyên, Khái niệm phá sản, thủ tục pháp sản và những liên hệ đến luật phá sản năm 2014, Khoa
luật- Đại học Kinh tế TP.HCM, 2017.


Nộp đơn yêu cầu tuyên bố phá sản là thủ tục bắt buộc đầu tiên của trình

tự giải quyết yêu cầu phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã. Chủ thể có quyền và
nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản được quy định cụ thể trong
Luật Phá sản. Chủ thể nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản là những cá nhân
liên quan đến doanh nghiệp, hợp tác xã đang lâm vào tình trạng phá sản có
quyền yêu cầu mở thủ tục phá sản.
Thời điểm phát sinh quyền và nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá
sản sẽ xuất hiện khi doanh nghiệp, hợp tác xã bị coi là lâm vào tình trạng
phá sản. Việc xác định chính xác thời điểm nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá
sản là rất quan trọng, không chỉ đối với chính doanh nghiệp, hợp tác xã lâm
vào tình trạng phá sản, mà còn đối với các chủ nợ, với người lao động và
những người có quyền nộp đơn khác. Nếu nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá
sản sớm sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động của doanh nghiệp, hợp tác
xã bị yêu cầu, họ sẽ bị mất bạn hàng, giảm uy tín, nếu không có sự can thiệp
kịp thời có thể do hậu quả đó mà dẫn họ đến tình trạng phá sản thực sự.
Nhưng nếu nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản muộn sẽ dẫn đến tình trạng
lẽ ra doanh nghiệp, hợp tác xã có thể phục hồi được lại không được hưởng
lợi từ việc áp dụng thủ tục phục hồi, doanh nghiệp, hợp tác xã không còn tài
sản, chủ nợ, những người liên quan không còn khả năng thu hồi tốt nhất
khoản nợ của mình. Để xác định chính xác thời điểm nộp đơn yêu cầu mở
thủ tục phá sản, cần thiết phải làm rõ khái niệm tình trạng phá sản theo pháp
luật Việt Nam.
II.

Chủ thể nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản theo quy định của pháp luật
hiện hành
Doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản chỉ được Tòa án
xem xét giải quyết trên cơ sở có yêu cầu mở thủ tục phá sản. Theo Điều 5,


Luật Phá sản 2014 quy định về các đối tượng sau đây có quyền và nghĩa vụ

nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản.
1. Các chủ thể có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản theo quy

định của Luật phá sản 2014
Thứ nhất, Chủ nợ không có bảo đảm, chủ nợ có bảo đảm một phần có
quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản khi hết thời hạn 3 tháng kể từ ngày
khoản nợ đến hạn mà doanh nghiệp, hợp tác xã không thực hiện nghĩa vụ thanh
toán.
Khoản 1 Điều 5 Luật phá sản 2014 quy định:
“Chủ nợ không có bảo đảm, chủ nợ có bảo đảm một phần có quyền nộp đơn yêu
cầu mở thủ tục phá sản khi hết thời hạn 03 tháng kể từ ngày khoản nợ đến hạn
mà doanh nghiệp, hợp tác xã không thực hiện nghĩa vụ thanh toán”.
Mục đích của Luật Phá sản trước tiên là nhằm bảo vệ quyền tài sản cho các
chủ nợ, vì vậy các chủ nợ là đối tượng đầu tiên có quyền nộp đơn yêu cầu mở
thủ tục phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã để thu hồi các khoản nợ của mình. Tuy
nhiên, không phải tất cả các chủ nợ đều có quyền nộp đơn yêu cầu tuyên bố phá
sản mà chỉ có chủ nợ không có bảo đảm và chủ nợ có bảo đảm một phần mới có
quyền nộp đơn yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp. Các chủ nợ có bảo đảm
không được quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản vì khoản nợ của họ đã
được bảo đảm bằng tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã con nợ hay bảo lãnh
bên thứ ba.
Thời điếm phát sinh quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản của chủ nợ
không có bảo đảm và chủ nợ có bảo đảm một phần là hết thời hạn 03 tháng kể từ
ngày khoản nợ đến hạn mà doanh nghiệp, hợp tác xã không thực hiện nghĩa vụ
thanh toán (tức là thời điểm doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán).
Thứ hai, Những người lao động, công đoàn cơ sở, công đoàn cấp trên trực
tiếp cơ sở ở những nơi chưa thành lập công đoàn cơ sở có quyền nộp đơn yêu


cầu mở thủ tục phá sản. Các đối tượng này cũng được phép nộp đơn yêu cầu mở

thủ tục phá sản khi hết thời hạn 03 tháng kể từ ngày phải thực hiện nghĩa vụ trả
lương, các khoản nợ khác đến hạn đối với người lao động mà doanh nghiệp, hợp
tác xã không thực hiện nghĩa vụ thanh toán. Người lao động, suy cho cùng, cũng
chính là chủ nợ của doanh nghiệp, hợp tác xã đối với các khoản nợ lương nếu
lương của người lao động không được thanh toán đầy đủ.
Khoản 2 Điều 5 Luật phá sản quy định:
“Người lao động, công đoàn cơ sở, công đoàn cấp trên trực tiếp cơ sở ở những
nơi chưa thành lập công đoàn cơ sở có quyền nộp đơn yêu cầu mở tủ tục phá
sản khi hết thời hạn 03 tháng kể từ ngày phải thực hiện nghĩa vụ trả lương, các
khoản nợ khác đến hạn đối với người lao động mà doanh nghiệp, hợp tác xã
không thực hiện nghĩa vụ thanh toán”.
Thời điểm phát sinh quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản của những
chủ thể này là thời điểm hết thời hạn 03 tháng kể từ ngày phải thực hiện nghĩa
vụ trả lương, các khoản nợ đến hạn đối với người lao động mà doanh nghiệp,
hợp tác xã không thực hiện nghĩa vụ thanh toán. Đối với chủ thể này, thời điểm
phát sinh quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản của họ có thêm một thời
điểm riêng nữa đó là hết thời hạn 03 tháng kể từ ngày phải thự hiện nghãi vụ trả
lương mà doanh nghiệp, hợp tác xã không thực hiện nghĩa vụ. Do đặc điểm
riêng biệt của chủ thể này là người lao động, công đoàn cơ sở, công đoàn cấp
trên trực tiếp cơ sở ở những nơi chưa thành lập công đoàn cơ sở, họ làm công
cho doanh nghiệp, hợp tác xã và doanh nghiệp, hợp tác xã nợ họ là nợ công lao
động (không thực hiện nghĩa vụ thanh toán tiền lương).
Thứ ba, cổ đông hoặc nhóm cổ đông sở hữu từ 20% số cổ phần phổ thông
trở lên trong thời gian liên tục ít nhất 6 tháng có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ
tục phá sản khi CTCP mất khả năng thanh toán. Cổ đông hoặc nhóm cổ đông sở
hữu dưới 20% số cổ phần phổ thông trong thời gian liên tục ít nhất 06 tháng có


quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản khi CTCP mất khả năng thanh toán
trong trường hợp Điều lệ công ti quy định. Quy định này nhằm bảo vệ lợi ích

các cổ đông, nhóm cổ đông nhỏ trong CTCP.
Khoản 5 Điều 5 Luật phá sản năm 2014 quy định:
“Cổ đông hoặc nhóm cổ đông sở hữu từ 20% số cổ phần phổ thong trở lên
trong thời gian liên tục ít nhất 06 tháng có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục
phá sản khi công ty cổ phần mất khả năng thanh toán. Cổ đông hoặc nhóm cổ
đông sở hữu dưới 20% số cổ phần phổ thông trong thời gian liên tục ít nhất 06
tháng có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản khi công ty cổ phàn mất
khả năng thanh toán trong trường hợp Điều lệ công ty quy định”.
Thời điểm phát sinh quyền và nghĩa vụ của chủ thể này là thời điểm công
ty cổ phần mất khả năng thanh toán, tức là công ty cổ phần không thực hiện
nghĩa vụ thanh toán các khoản nợ trong thời hạn 03 tháng kể từ ngày đến hạn
thanh toán.
Thứ tư, Thành viên hợp tác xã hoặc người đại diện theo pháp luật của hợp
tác xã thành viên của liên hiệp hợp tác xã có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục
phá sản khi hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã mất khả năng thanh toán.
Khoản 6 Điều 5 Luật phá sản quy định:
“Thành viên hợp tác xã hoặc người đại diện theo pháp luật của hợp tác xã thành
viên của liên hiệp hợp tác xã có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản khi
hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã mất khả năng thanh toán”.
Thời điểm phát sinh quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản là thời điểm
hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã mất khả năng thanh toán. Tức là thời điểm hợp tác
xã, liên hiệp hợp tác xã không thực hiện nghĩa vụ thanh toán các khoản nợ khi đến
hạn thanh toán.
2. Các chủ thể có nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản theo

quy định của Luật phá sản 2014


Luật phá sản năm 2014 quy định các chủ thể có nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu mở thủ
tục phá sản tại hai khoản của Điều 5 Luật này.

Một là, Khoản 3 Điều 5 Luật phá sản 2014 quy định:
“người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp, hợp tác xã có nghĩa vụ nộp đơn
yêu cầu mở thủ tục phá sản khi doanh nghiệp mất khả năng thanh toán”.
Hai là, khoản 4 Điều 5 Luật phá sản 2014 quy định:
“Chủ doanh nghiệp tư nhân, Chủ tịch Hội đồng quản trị của công ty cỏ phần, Chủ
tịch Hội đồng thành viên của công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên,
chủ sở hữu công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên, thành viên hợp danh của
công ty hợp danh có nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản khi doanh
nghiệp mất khả năng thanh toán”.
Theo đó, chủ thể co nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản bao gồm:


Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp, hợp tác xã



Chủ doanh nghiệp tư nhân, Chủ tịch Hội đồng quản trị của công ty cỏ
phần, Chủ tịch Hội đồng thành viên của công ty trách nhiệm hữu hạn hai
thành viên trở lên, chủ sở hữu công ty trách nhiệm hữu hạn một thành
viên, thành viên hợp danh của công ty hợp danh

Thứ nhất, người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp, hợp tác xã có nghĩa
vụ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản khi doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng
thanh toán. Như vậy, đối với doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán thì
việc nộp đơn không chỉ là quyền mà còn là nghĩa vụ. Quy định này nhằm giúp
doanh nghiệp, hợp tác xã mắc nợ có cơ sở để tự giải thoát mình khỏi tình trạng mất


khả năng thanh toán, giải quyết một các hợp pháp các quan hệ nợ nần hoặc dưới sự
giám sát của Tòa án, doanh nghiệp, hợp tác xã mắc nợ có thể cùng các chủ nợ thỏa

thuận các biện pháp hòa giải, tổ chức lại hoạt động sản xuất kinh doanh, hạn chế
thiệt hại.
Thứ hai, Chủ doanh nghiệp tư nhân, chủ tịch hội đồng quản trị của công ty
cổ phần, chủ tịch hội đồng thành viên của công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành
viên trở lên, chủ sở hữu công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên, thành viên
hợp danh của công ty hợp danh có nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản
khi doanh nghiệp mất khả năng thanh toán.
Riêng nhóm chủ thể thứ hai này chỉ áp dụng cho đối tượng là doanh nghiệp.
vì thành viên chỉ ở các loại hình doanh nghiệp mới xuất hiện các chủ thể trên. ở
Hợp tác xã thì chỉ có thành viên hợp tác xã và hợp tác xã thành viên của liên hiệp
hợp tác xã, các chủ thể này đã được quy định có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục
phá sản tại Khoản 6 Điều 5 Luật này..
Thời điểm phát sinh nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản là khi
doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán, không trả được các khoản nợ
đến hạn.
Với 6 nhóm chủ thể trên, Luật Phá sản năm 2014 đã mở rộng chủ thể được
phép yêu cầu mở thủ tục phá sản so với Luật Phá sản năm 2004, trong đó có các
chủ thể mới như công đoàn, người đại diện theo pháp luật của các doanh nghiệp...
Việc mở rộng chủ thể có quyền hoặc nghĩa vụ yêu cầu giải quyết phá sản nhằm tạo
điều kiện cho các đối tượng liên quan khác tham gia thực hiện thủ tục phá sản, hạn
chế tình trạng doanh nghiệp không còn cơ hội phục hồi nhưng không có đơn yêu
cầu mở thủ tục phá sản.
Ngoài ra, Luật Phá sản năm 2014 cũng bổ sung quy định trách nhiệm pháp
lý đối với những người thuộc nhóm đối tượng có nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu mở thủ
tục phá sản. Nếu như các đối tượng này không nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản
khi doanh nghiệp mất khả năng thanh toán thì phải chịu trách nhiệm về những thiệt


hại phát sinh do việc không nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản và phải bồi
thường.

III.
Một số hạn chế của pháp luật quy định về chủ thể nộp đơn yêu cầu mở
thủ tục phá sản theo quy định của Luật Phá sản 2014.
1. Một số hạn chế của pháp luật quy định về chủ thể nộp đơn yêu cầu mở
thủ tục phá sản theo quy định của Luật Phá sản 2014.
Ở hầu hết các nước, các chủ thể có quyền yêu cầu Tòa án mở thủ tục giải
quyết phá sản doanh nghiệp trước hết là các chủ nợ của doanh nghiệp mắc nợ và
doanh nghiệp mắc nợ (con nợ); đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản phải làm bằng văn
bản. Thông thường thì các chủ nợ có bảo đảm một phần và các chủ nợ có bảo đảm
khác đều có quyền yêu cầu Tòa án xem xét, quyết định mở thủ tục giải quyết phá
sản doanh nghiệp. Đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản của con nợ phải được gửi kèm
theo danh sách các chủ nợ và yêu cầu của các chủ nợ. Tùy theo pháp luật phá sản ở
các nước mà trong trường hợp con nợ là doanh nghiệp đang hoạt động kinh doanh
còn phải cung cấp thêm các thông tin cần thiết khác.3
Trong khi đó, theo Luật Phá sản Việt Nam năm 2014 thì các chủ nợ không
có bảo đảm và các chủ nợ có bảo đảm một phần có quyền nộp đơn yêu cầu Tòa án
mở thủ tục phá sản; còn các chủ nợ khác có bảo đảm thì không có quyền này.
Chủ nợ có quyền nộp đơn không ưu tiên lựa chọn việc nộp đơn yêu cầu mở
thủ tục phá sản trên thực tế. Luật Phá sản năm 2014 vẫn chỉ trao quyền chủ động
nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản cho chủ nợ không có bảo đảm hoặc chủ nợ có
bảo đảm một phần. Việc các chủ nợ có bảo đảm không được quyền nộp đơn yêu
cầu mở thủ tục phá sản là chủ đề bàn luận trên nhiều diễn đàn nghiên cứu khoa học
với các quan điểm trái chiều khác nhau. Tuy nhiên, có một thực trạng cần ghi nhận
3 Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Viện Nghiên cứu lập pháp, Trung tâm nghiên cứu khoa học, Chuyên đề nghiên cứu:
Kinh nghiệm nước ngoài về phá sản doanh nghiệp, Hà Nội, tháng 10/2013, tr. 11.


là: Đối với nhóm chủ nợ có quyền nộp đơn (chủ yếu là chủ nợ không có bảo đảm),
họ thường không ưu tiên sử dụng quyền này trên thực tế. Đến giai đoạn thi hành
quyết định tuyên bố phá sản, tài sản còn lại (tài sản không dùng để bảo đảm) được

thanh lý theo thứ tự thanh toán được luật quy định. Thực tế, chủ nợ không có bảo
đảm gần như không được phân chia hoặc nhận được với số tiền không đáng kể.4
Do đó, họ sẽ ưu tiên lựa chọn hướng không nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản.
Và như vậy, ý nghĩa của việc nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản không còn mang
tính thực tế.
Đại diện cho doanh nghiệp mắc nợ có nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu Tòa án
xem xét, quyết định mở thủ tục giải quyết phá sản doanh nghiệp. Đồng thời, pháp
luật phá sản ở một số nước còn quy định chế tài rất nặng (có thể phạt tù, phạt tiền,
bồi thường) đối với người đại diện cho doanh nghiệp không nộp đơn kịp thời hoặc
nộp đơn không đúng… Ví dụ như Luật Phá sản hiện hành của Cộng hòa liên bang
Đức quy định trường hợp một pháp nhân mất khả năng thanh toán hoặc tài sản của
pháp nhân thấp hơn các khoản nợ hiện có của pháp nhân đó thì các thành viên của
cơ quan đại diện của pháp nhân nhìn chung không được chậm trễ, chậm nhất là
trong vòng ba tuần sau khi xuất hiện tình trạng mất khả năng thanh toán hoặc khi
tài sản của pháp nhân thấp hơn các khoản nợ hiện có của pháp nhân đó, phải có
nghĩa vụ đệ đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản. Người nào phải thực hiện nghĩa vụ
này mà không đệ đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản, đệ đơn không kịp thời hoặc đệ
đơn không đúng thì có thể bị phạt tù đến ba năm hoặc phạt tiền; trường hợp vô ý
mà vi phạm thì bị phạt tù đến một năm hoặc bị phạt tiền.5

4 Xem Luật phá sản Liên bang Hoa Kỳ năm 1978, có hiệu lực năm 1979.
5 Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Viện Nghiên cứu lập pháp, Trung tâm nghiên cứu khoa học, Chuyên đề nghiên cứu:
Kinh nghiệm nước ngoài về phá sản doanh nghiệp, Hà Nội, tháng 10/2013, tr. 11.


Trong khi đó, theo quy định tại khoản 3, khoản 4 Điều 5 của Luật Phá sản
năm 2014 thì khi nhận thấy doanh nghiệp mất khả năng thanh toán thì chủ doanh
nghiệp hoặc đại diện hợp pháp của doanh nghiệp phải nộp đơn yêu cầu mở thủ tục
phá sản. Tuy nhiên, Luật Phá sản năm 2014 đã không quy định chế tài cụ thể đối
với việc thực hiện nghĩa vụ này và doanh nghiệp mắc nợ không nghiêm chỉnh thực

hiện nghĩa vụ nộp đơn. Điều đó đã ảnh hưởng đến hiệu lực thi hành của Luật Phá
sản. 6
2. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về các chủ thể nộp đơn yêu cầu

mở thủ tục phá sản
Thứ nhất, pháp luật cần bổ sung xem xét các vấn đề liên quan đến quyền lựa
chọn nộp đơn hay không nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản của chủ nợ không có
bảo đảm.
Thứ hai, pháp luật cần bổ sung những chế tài cụ thể đối với việc thực hiện nghĩa
vụ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản của các doanh nghiệp mắc nợ và những chế
tài đối với việc doanh nghiệp mắc nợ không nghiêm chỉnh thực hiện nghĩa vụ nộp
đơn.
Thứ ba, cần có sự thống nhất, đồng bộ giữa Luật Phá sản 2014 và các văn bản
pháp luật khác, phù hợp với các điều kiện kinh tế- xã hội nước ta hiện nay.

KẾT LUẬN
Trên đây là bài viết trình bày những hiểu biết của em về các quy định về chủ thể
nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản theo pháp luật hiện hành (Luật phá sản 2014).
6 ThS. NGUYỄN NGỌC ANH (Khoa Pháp luật Kinh tế, Đại học Luật Hà Nội) - Thực tiễn thi hành liên quan đến các
chủ thể tham gia vào quan hệ pháp luật phá sản còn có những bất cập, cần hoàn thiện, 2018.


Với sự phát triển nhanh chóng của kinh tế- xã hội hiện nay thì việc quy định rõ
ràng, chặt chẽ các vấn đề liên quan tới phá sản, cụ thể là quy định về chủ thể nộp
đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản là rất cần thiết. Trong bài viết còn nhiều thiếu sót
về nội dung và hình thức rất mong nhận được sự giúp đỡ của thầy cô để bài viết
được hoàn thiện hơn.


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1.

Trường đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Thương mại Việt Nam I, nxb.
Tư pháp, 2019.

2. Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Viện Nghiên cứu lập pháp, Trung tâm nghiên

cứu khoa học, Chuyên đề nghiên cứu: Kinh nghiệm nước ngoài về phá sản
doanh nghiệp, Hà Nội, tháng 10/2013.
3. Xem Luật phá sản Liên bang Hoa Kỳ năm 1978, có hiệu lực năm 1979.
4. ThS. NGUYỄN NGỌC ANH (Khoa Pháp luật Kinh tế, Đại học Luật Hà

Nội) - Thực tiễn thi hành liên quan đến các chủ thể tham gia vào quan hệ
pháp luật phá sản còn có những bất cập, cần hoàn thiện, 2018.
5. Phan Thị Mỹ Hạnh, Phá sản doanh nghiệp và thi hành luật phá sản ở Việt

Nam.
6. />7. Luật phá sản Liên bang Hoa Kỳ năm 1978, có hiệu lực năm 1979.
8. Hội đồng phối hợp phổ biến, giáo dục pháp luật trung ương, Đặc san tuyên

truyền pháp luật, số 9/2014, Chủ đề: Pháp luật phá sản tại Việt Nam – Một
số vấn đề lý luận và thực tiễn, Hà Nội, 2014.



×