Tải bản đầy đủ (.pdf) (98 trang)

Chất lượng công chức cấp xã tỉnh bình thuận

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (680.97 KB, 98 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
…………/…………

BỘ NỘI VỤ
……/……

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

BÙI KHẮC HUỲNH

CHẤT LƢỢNG CÔNG CHỨC CẤP XÃ
TỈNH BÌNH THUẬN

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG

TP HỒ CHÍ MINH, NĂM 2018


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
…………/…………

BỘ NỘI VỤ
……/……

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

BÙI KHẮC HUỲNH

CHẤT LƢỢNG CÔNG CHỨC CẤP XÃ
TỈNH BÌNH THUẬN


LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG
MÃ SỐ: 60 34 04 03

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS LÊ NHƢ THANH

TP HỒ CHÍ MINH, NĂM 2018


LỜI CẢM ƠN

Trước hết, cho phép tôi bày tỏ lòng biết ơn chân thành đến Ban Giám
đốc Học viện Hành chính và Khoa Sau đại học đã tạo điều kiện cho tôi được
thực hiện luận văn này.
Tôi xin chân thành biết ơn sự quan tâm của lãnh đạo Trường Chính trị
tỉnh Bình Thuận đã tạo mọi điều kiện thuận lợi để bản thân tôi học tập và
hoàn thành khóa học. Trong quá trình khảo sát nghiên cứu thực tế và viết luận
văn thạc sĩ, tôi đã được sự quan tâm hỗ trợ, giúp đỡ nhiệt tình của Sở Nội vụ,
Phòng Nội vụ các huyện, thị, thành phố tỉnh Bình Thuận và đặc biệt là sự
hướng dẫn trực tiếp của TS. Lê Như Thanh.
Sự thành công trong quá trình học tập và hoàn thành luận văn thạc sĩ là
sự gắn kết với đồng chí, đồng nghiệp và các anh chị học viên lớp cao học
CH14N18. Các anh chị đã cùng bản thân tôi trao đổi kinh nghiệm, thảo luận,
chia sẻ thông tin, tạo sự đoàn kết gắn bó trong suốt quá trình học tập và
nghiên cứu các môn học cũng như hoàn thành luận văn.
Một lần nữa tôi xin chân thành gửi lời cám ơn trân trọng đến Ban Giám
đốc, Khoa sau đại học, TS. Lê Như Thanh và quý thầy cô giảng viên trường
Học viện Hành chính đã tận tình, chỉ bảo, hướng dẫn giúp đỡ tôi thực hiện
thành công bản luận văn này.
Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 12 năm 2017

Tác giả

Bùi Khắc Huỳnh


LỜI CAM ĐOAN

Tôi tên

: Bùi Khắc Huỳnh.

Lớp

: CH18N14.

Chuyên ngành

: Quản lý công

Mã số đề tài

: 60 34 04 03

Đề tài luận văn

: “Chất lƣợng Công chức cấp xã tỉnh Bình Thuận”.

Tôi xin cam đoan bản luận văn là công trình nghiên cứu khoa học của
riêng cá nhân tôi. Các số liệu và nội dung trong luận văn là trung thực, khách
quan dựa trên cơ sở kết quả thu thập các thông tin, tài liệu thực tế, các tài liệu

tham khảo đã công bố.
Tác giả

Bùi Khắc Huỳnh


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU

1

Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHẤT LƢỢNG CÔNG CHỨC
CẤP XÃ
1.1. Những vấn đề chung về công chức cấp xã

10
10

1.1.1. Khái niệm công chức và công chức cấp xã

10

1.1.2. Đặc điểm của công chức cấp xã

14

1.1.3. Vai trò của công chức cấp xã

15


1.1.4. Tiêu chuẩn, chức trách, nhiệm vụ của công chức cấp xã

17

1.2. Cơ sở lý luận về chất lượng công chức cấp xã

24

1.2.1. Khái niệm chất lượng công chức cấp xã

24

1.2.2. Tiêu chí đánh giá chất lượng công chức cấp xã

26

1.2.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng công chức cấp xã

30

1.3. Sự cần thiết phải nâng cao chất lượng công chức cấp xã

34

1.4. Kinh nghiệm về nâng cao chất lượng công chức cấp xã của một
số địa phương và bài học kinh nghiệm

36


1.4.1. Kinh nghiệm nâng cao chất lượng công chức cấp xã của một
số địa phương

36

1.4.2. Một số bài học rút ra từ nghiên cứu kinh nghiệm của một số
địa phương

41

Chƣơng 2: THỰC TRẠNG CHẤT LƢỢNG CÔNG CHỨC CẤP
XÃ TỈNH BÌNH THUẬN
2.1. Khái quát về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội tỉnh Bình Thuận

43
43

2.1.1. Điều kiện tự nhiên

43

2.1.2. Đặc điểm về kinh tế - xã hội

45

2.2. Phân tích về thực trạng chất lượng công chức cấp xã tỉnh Bình
Thuận (từ năm 2015 đến năm 2017)

46



2.2.1. Số lượng công chức cấp xã theo vị trí công tác

46

2.2.2. Về độ tuổi

48

2.2.3. Về giới tính

49

2.2.4. Về trình độ học vấn phổ thông

50

2.2.5. Về trình độ chuyên môn

50

2.2.6. Về phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống

52

2.2.7. Về trình độ Tin học

54

2.2.8. Về trình độ Ngoại ngữ


55

2.2.9. Về trình độ quản lý nhà nước

56

2.2.10. Về kết quả thực hiện nhiệm vụ được giao

56

2.2.11. Về kết quả đánh giá của người dân về uy tín trong công tác
và năng lực tổ chức quản lý công việc của công chức cấp xã

58

2.3. Đánh giá chung về thực trạng chất lượng Công chức cấp xã tỉnh
Bình Thuận

58

2.3.1. Về ưu điểm

58

2.3.2. Về hạn chế và nguyên nhân hạn chế

59

Chƣơng 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG

CÔNG CHỨC CẤP XÃ TỈNH BÌNH THUẬN

63

3.1. Định hướng nâng cao chất lượng công chức cấp xã tỉnh Bình
Thuận trong thời gian tới

63

3.2. Các nhóm giải pháp nâng cao chất lượng công chức cấp xã ở tỉnh
Bình Thuận

67

3.2.1. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công chức cấp xã

67

3.2.2. Tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng công chức cấp xã

69

3.2.3. Đổi mới công tác tuyển dụng, bố trí và sử dụng công chức cấp xã

71

3.2.4. Công tác quy hoạch công chức cấp xã

75


3.2.5. Đổi mới công tác đánh giá, khen thưởng, kỷ luật công chức cấp xã

77

3.2.6. Tăng cường công tác quản lý, kiểm tra, giám sát công chức cấp xã

79


3.2.7. Tiếp tục hoàn thiện và bảo đảm thực hiện chế độ chính sách đối
với công chức cấp xã

80

3.2.8. Nâng cao tinh thần trách nhiệm, thái độ làm việc và ý thức công
vụ của công chức cấp xã
3.3. Kiến nghị

82
84

KẾT LUẬN

86

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

88



DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

CBCC

:

Cán bộ, công chức

HĐND

:

Hội đồng nhân dân

QLNN

:

Quản lý Nhà nước

UBND

:

Ủy ban nhân dân


DANH MỤC CÁC BẢNG
Trang
- Bảng 2.1. Số lượng công chức chuyên môn cấp xã theo vị trí công tác


46

từ năm 2015-2017
- Bảng 2.2. Độ tuổi công chức cấp xã

49

- Bảng 2.3. Số lượng công chức cấp xã theo giới tính

49

- Bảng 2.4. Thực trạng công chức cấp xã theo trình độ học vấn phổ

50

thông
- Bảng 2.5. Thực trạng công chức cấp xã theo trình độ chuyên môn

51

- Bảng 2.6. Thực trạng công chức cấp xã theo trình độ lý luận chính trị

52

- Bảng 2.7. Thực trạng công chức cấp xã là Đảng viên

53

- Bảng 2.8. Thực trạng công chức cấp xã theo trình độ Tin học


54

- Bảng 2.9. Thực trạng công chức cấp xã theo trình độ Ngoại ngữ

55

- Bảng 2.10. Thực trạng công chức cấp xã theo trình độ quản lý nhà

56

nước.
- Bảng 2.11: Kết quả đánh giá, phân loại công chức cấp xã

57

- Bảng 2.12: Đánh giá của nhân dân về uy tín trong công tác và năng

58

lực tổ chức quản lý công việc của công chức cấp xã


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong hệ thống hành chính 4 cấp ở nước ta, xã, phường, thị trấn (sau đây
gọi chung là cấp xã) là đơn vị hành chính cấp cơ sở, là nơi tuyệt đại bộ phận
nhân dân cư trú, sinh sống; là cầu nối trực tiếp toàn bộ hệ thống chính trị với
nhân dân. Chính quyền cấp xã là cấp gần dân nhất, có vai trò rất quan trọng
trong việc tổ chức, vận động nhân dân thực hiện chủ trương, đường lối của

Đảng, chính sách, pháp luật của nhà nước đi vào cuộc sống. Hiệu lực, hiệu quả
hoạt động của chính quyền cấp xã tác động trực tiếp đến đời sống của nhân dân
cũng như sự phát triển nói chung đất nước và địa phương nói riêng. Và để thực
hiện vai trò quan trọng đó của chính quyền cấp xã thì một trong những nhân tố
quan trọng, đóng vai trò quan trọng, có ý nghĩa quyết định đó là đội ngũ cán bộ,
công chức cấp xã nói chung và công chức cấp xã nói riêng.
Lúc sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Cán bộ là cái gốc
của mọi công việc”, “Công việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay
kém” [8, tr.269, 273]. Có thể nói, đội ngũ cán bộ, công chức là nhân tố quyết
định hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước, đặc biệt là trong bối cảnh đất
nước hiện nay, đang đẩy mạnh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước,
hội nhập sâu rộng và toàn diện với thế giới, điều đó đòi hỏi cả bộ máy nhà nước
trong đó có đội ngũ cán bộ, công chức các cấp phải đổi mới, nâng cao chất
lượng hoạt động của mình để đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ mới đề ra.
Công chức cấp xã là những người gần dân nhất, trực tiếp tiếp xúc với
nhân dân, hàng ngày triển khai hướng dẫn, vận động nhân dân thực hiện mọi
chủ trương, đường lối của Đảng; chính sách, pháp luật của Nhà nước, trực tiếp
lằng nghe, giải quyết hoặc kiến nghị lên chính quyền cấp trên những kiến nghị,
tâm tư, nguyện vọng của nhân dân. Chủ trương, chính sách, pháp luật dù có

1


đúng đắn đến mấy nhưng sẽ khó có được hiệu lực, hiệu quả cao nếu như không
được triển khai thực hiện bởi một đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã nói chung
và công chức cấp xã nói riêng có năng lực hoạt động tốt. Vì vậy chất lượng hoạt
động của đội ngũ công chức cấp xã tác động trực tiếp đến hiệu lực, hiệu quả
hoạt động của chính quyền cấp xã. Với vai trò vô cùng quan trọng đó, yêu cầu
đặt ra là chính quyền cấp xã cũng như đội ngũ công chức cấp xã phải được nâng
cao chất lượng trên các mặt về tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng, thực thi công vụ…

Tại tỉnh Bình Thuận trong những năm qua, các cấp chính quyền tỉnh nhà
luôn quan tâm xây dựng bộ máy chính quyền cấp xã, nhằm thực hiện tốt các
nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, an ninh – quốc phòng ở địa phương. Đến
nay, hệ thống tổ chức chính quyền cấp xã đã đi vào nền nếp và ổn định. Tuy
nhiên, chất lượng đội ngũ công chức cấp xã vẫn chưa đáp ứng được những yêu
cầu đặt ra; vẫn còn một số địa phương tuyển dụng công chức cấp xã chưa đạt
chuẩn; trình độ, năng lực của cán bộ, công chức cấp xã tuy có nâng lên nhưng
vẫn còn thấp so với yêu cầu; một số công chức chưa đạt tiêu chuẩn về chuyên
môn nghiệp vụ, lý luận chính trị, số lượng công chức được bồi dưỡng về quản lý
kinh tế; bồi dưỡng quản lý hành chính nhà nước còn ít…
Xuất phát từ những hạn chế, yếu kém nói trên, trước yêu cầu đổi mới, hội
nhập toàn diện của đất nước hiện nay, đòi hỏi phải thường xuyên nâng cao chất
lượng đội ngũ công chức, tạo động lực mạnh mẽ, thúc đẩy tiến trình cải cách
hành chính nhà nước, nhằm góp phần thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước và xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Thực tế chất lượng đội ngũ công chức cấp xã trên địa bàn tỉnh Bình
Thuận còn nhiều bất cập so với yêu cầu phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa cũng như yêu cầu nhiệm vụ của quá trình cải cách hành
chính trong giai đoạn 2011 – 2020. Xuất phát từ những lý do đó, bản thân chọn

2


đề tài “Chất lƣợng Công chức cấp xã tỉnh Bình Thuận” để làm luận văn tốt
nghiệp thạc sĩ chuyên ngành Quản lý công.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Cán bộ, công chức cấp xã gần đây đã được quan tâm, trú trọng, chất
lượng CBCC cấp xã không còn là một vấn đề mới, nhưng luôn là đề tài có tính
thời sự và cũng không kém phần phức tạp. Vấn đề này đã được nhiều nhà khoa
học, nhà quản lý, hoạch định chính sách và hoạt động thực tiễn tập trung đi sâu

nghiên cứu, tìm tòi, khảo sát. Đến nay đã có nhiều công trình được công bố dưới
những góc độ, mức độ, khía cạnh, hình thức thể hiện khác nhau đã được đăng tải
và công bố trên một số sách, báo, tạp chí ở trung ương và địa phương, như:
Qua quá trình, bản thân học viên nhận thấy nhiều nội dung liên quan đến
nâng cao chất lượng đội ngũ công chức cấp xã đã được các nhà khoa học và
thực tiễn quan tâm nghiên cứu như:
- TS Thang Văn Phúc (chủ biên), Cải cách hành chính nhà nước – thực
trạng, nguyên nhân và giải pháp, NXB chính trị Quốc gia. Công trình đã chỉ rõ
thực trạng và nguyên nhân yếu kém của đội ngũ cán bộ, công chức đã có ảnh
hưởng sâu sắc đến việc thực hiện các nội dung của cải cách hành chính nhà nước
như thế nào, qua đó tác giả cũng đề ra một số giải pháp cụ thể, nhất định để nâng
cao chất lượng của đội ngũ này.
- GS, TS Vũ Huy Từ (chủ biên), Ths Nguyễn Khắc Hùng, Hành chính
học và cải cách hành chính, NXB chính trị Quốc gia. Công trình này chủ yếu
cung cấp về mặt lý luận các nội dung về hành chính học và cải cách hành chính,
trong đó các tác giả cũng đã nói đến vai trò của đội ngũ cán bộ, công chức trong
công cuộc cải cách hành chính.
- TS Nguyễn Ngọc Hiến (2003), Hành chính công, NXB Thống kê. Công
trình viết về hành chính nhà nước và các nội dung liên quan đến hành chính nhà

3


nước như: cán bộ, công chức, bộ máy hành chính nhà nước và sự cần thiết phải
nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức trong hệ thống quản lý nhà nước.
- Trần Anh Tuấn, Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức đáp
ứng yêu cầu nhiệm vụ mới, tạp chí tổ chức nhà nước số 5/2006. Công trình mang
tính chất thực tiễn khá sâu sắc, tác giả muốn nhấn mạnh việc xây dựng một đội
ngũ cán bộ, công chức, viên chức với đầy đủ các tố chất và kỹ năng cần thiết để
hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình, đáp ứng được yêu cầu và sự phát triển ngày

càng cao của đất nước.
- Trần Anh Tuấn, Một số ý kiến về việc tiếp tục cải cách chế độ công vụ,
công chức ở Việt Nam hiện nay, tạp chí tổ chức nhà nước số 9/2007. Tác giả đã
nêu lên một số ý kiến cho thấy phải tiếp tục cải cách chế độ công vụ công chức
ở Việt Nam hiện nay. Nội dung cải cách công chức là cần thiết và quan trọng,
phải đi liền với cải cách hoạt động công vụ.
- Trần Minh Lý (2010), Nâng cao năng lực thực thi công vụ của công
chức cấp xã tỉnh Đồng Tháp, Luận văn thạc sỹ quản lý hành chính công, Học
viện Hành chính, TP. Hồ Chí Minh.
- Nguyễn Thị Mai Thương (2011), Sử dụng và quản lý công chức cấp xã
tại Ủy ban nhân dân phường ở TP. Hồ Chí Minh, Luận văn thạc sỹ quản lý hành
chính công, Học viện Hành chính, TP. Hồ Chí Minh.
- Trần Thị Quỳnh Nghi (2012), Đào tạo, bồi dưỡng công chức cấp xã trên
địa bàn tỉnh Bến Tre, Luận văn thạc sỹ quản lý hành chính công, Học viện Hành
chính, TP Hồ Chí Minh.
- Hoàng Thị Minh Ngọc (2013), Nâng cao chất lượng đội ngũ công chức
phường trên địa bàn Quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh, Luận văn thạc sỹ quản lý
hành chính công, Học viện Hành chính, TP. Hồ Chí Minh.

4


- Nguyễn Thị Tươi (2013), Nâng cao năng lực thực thi công vụ của công
chức cấp xã ở tỉnh Tây Ninh, Luận văn thạc sỹ hành chính công, Học viện Hành
chính, TP. Hồ Chí Minh.
- Ngô Minh Dũng (2013), Đào tạo, bồi dưỡng công chức cấp xã trên địa
bàn huyện Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, Luận văn thạc sỹ quản lý hành
chính công, Học viện Hành chính, TP. Hồ Chí Minh.
- Tạ Văn Soát (2014), Chuẩn hóa đội ngũ công chức cấp xã tỉnh Đồng Nai,
Luận văn thạc sỹ quản lý hành chính công, Học viện Hành chính, TP. Hồ Chí Minh.

Các bài nghiên cứu trên báo, tạp chí, Website…
Các tác giả đều đã phân tích một cách hệ thống, hoàn chỉnh, hiệu quả và
tương đối toàn diện về vấn đề chất lượng cán bộ, công chức cấp xã nói chung
dưới góc độ lý luận cũng như sự vận dụng lý luận đó vào việc nâng cao chất
lượng cán bộ, công chức cấp xã tại một số địa phương cụ thể - đó đều là những
công trình, sản phẩm trí tuệ có giá trị, ý nghĩa lớn cả về mặt lý luận và thực tiễn,
là cơ sở để kế thừa cho việc nghiên cứu tiếp theo.
Tuy nhiên, trước yêu cầu đổi mới của sự nghiệp xây dựng công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước thì vấn đề nâng cao chất lượng cán bộ, công chức cấp
xã vẫn còn là vấn đề mang tính thời sự cấp thiết cần được tiếp tục nghiên cứu,
bổ sung và hoàn thiện. Tại tỉnh Bình Thuận, cho đến thời điểm hiện nay chưa có
nhiều đề tài nghiên cứu khoa học đề cập một cách có hệ thống, toàn diện đến
nâng cao chất lượng đội ngũ công chức cấp xã. Và đây cũng là yêu cầu hết sức
cấp thiết đặt ra đối với chính quyền cấp xã ở tỉnh Bình Thuận.
Như vậy, với đề tài “Chất lượng công chức cấp xã tỉnh Bình Thuận” sẽ
cung cấp thêm một góc nhìn tổng thể về chất lượng đội ngũ công chức cấp xã.
Đồng thời, đề tài cũng đưa ra một số giải pháp, kiến nghị để nâng cao chất lượng
đội ngũ công chức cấp xã, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà
nước của chính quyền cấp xã.

5


3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích
Trên cơ sở phân tích khái quát những vấn đề lý luận về chất lượng công
chức cấp xã; đánh giá thực trạng chất lượng công chức cấp xã ở tỉnh Bình Thuận,
mục đích nghiên cứu của luận văn là đề xuất những phương hướng và giải pháp nâng
cao chất lượng công chức cấp xã của tỉnh Bình Thuận hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ

Để thực hiện được mục đích nêu trên, luận văn có những nhiệm vụ cụ thể
sau đây:
- Phân tích cơ sở lý luận về chất lượng công chức cấp xã. Trong đó hệ
thống hóa những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
và của Đảng, Nhà nước ta về cán bộ, công chức cấp xã; xây dựng khái niệm và
làm rõ những tiêu chí đánh giá, những yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng công
chức cấp xã.
- Đánh giá thực trạng chất lượng công chức cấp xã của tỉnh Bình Thuận,
trong đó nêu lên những thành tựu đạt được, những tồn tại, hạn chế cần khắc
phục cũng như phân tích các nguyên nhân hạn chế đến chất lượng công chức cấp
xã của tỉnh Bình Thuận.
- Đề xuất các phương hướng và giải pháp nâng cao chất lượng công chức
cấp xã của tỉnh Bình Thuận nhằm đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đổi mới, xây
dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tƣợng nghiên cứu của luận văn
Chất lượng công chức cấp xã trên địa bàn tỉnh Bình Thuận.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Luận văn nghiên cứu về chất lượng công chức cấp xã.

6


- Về không gian nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu chất lượng công chức
cấp xã tỉnh Bình Thuận.
- Về thời gian nghiên cứu: Các số liệu sử dụng trong luận văn được cập
nhật giai đoạn từ năm 2015 đến năm 2017.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn
Để đạt được mục tiêu nghiên cứu của đề tài là đánh giá thực trạng về chất
lượng công chức cấp xã của tỉnh Bình Thuận trên cơ sở kết quả việc thực hiện

các nhiệm vụ quản lý nhà nước về lĩnh vực quản lý và trình độ của họ để từ đó
đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ công chức cấp xã, sử
dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp thu thập số liệu
Số liệu được sử dụng trong luận văn bao gồm 2 loại số liệu: số liệu thứ
cấp và số liệu sơ cấp:
Thu thập số liệu thứ cấp: Những vấn đề lý luận cơ bản về đội ngũ công
chức cấp xã được thu thập, tổng hợp và hệ thống hoá từ các giáo trình, sách báo,
tạp chí chuyên ngành, văn bản pháp luật, báo cáo nghiên cứu khảo sát của các
chuyên gia.
Ngoài ra, số liệu thứ cấp được sử dụng trong luận văn còn bao gồm: đặc
điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội tỉnh Bình Thuận; thực trạng đội ngũ công chức
cấp xã của tỉnh Bình Thuận qua các năm (2015-2017) theo thống kê của Sở Nội
vụ tỉnh Bình Thuận.
Thu thập thông tin sơ cấp: Thông qua tham khảo ý kiến của công chức
cấp xã tại một số UBND các xã, phường, thị trấn của tỉnh.
- Phương pháp xử lý số liệu
Nhằm phục vụ cho nhu cầu mà luận văn đặt ra, số liệu được xử lý bằng
cách thức và phương tiện như sau: Tập hợp số liệu các tiêu chí về độ tuổi, giới
tính, trình độ học vấn, chuyên môn, lý luận chính trị, quản lý hành chính của đội

7


ngũ công chức cấp xã trên địa bàn tỉnh Bình Thuận. Tiến hành phân loại, thống
kê số liệu đã thu thập được thành bộ số liệu theo các chỉ tiêu phù hợp với đề tài
nghiên cứu. Thực hiện xử lý số liệu bằng phương tiện là Microsoft Office Excel,
sau đó đưa số liệu đã xử lý vào bài viết.
- Phương pháp phân tích số liệu
Trong quá trình nghiên cứu chúng tôi sử dụng một số phương pháp sau:

Phương pháp thống kê để được sử dụng để phân tích thực trạng trình độ công
chức cấp xã địa bàn nghiên cứu. Phương pháp so sánh được sử dụng trong luận
văn nhằm đánh giá sự biến động của công chức cấp xã trên địa bàn tỉnh Bình
Thuận từ năm 2015 đến năm 2017.
6. Đóng góp khoa học của luận văn
- Góp phần làm rõ hơn cơ sở lý luận và thực tiễn về chất lượng và nâng
cao chất lượng công chức cấp xã. Những kinh nghiệm của một số địa phương về
đảm bảo chất lượng của công chức cấp xã.
- Làm rõ thực trạng về công chức cấp xã của tỉnh Bình Thuận. Rút ra những
mặt mạnh, hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế, từ đó làm tiền đề để xây dựng
và nâng cao hơn nữa chất lượng công chức cấp xã của tỉnh Bình Thuận.
- Đề xuất và đưa ra những giải pháp phù hợp, có tính khả thi nhằm nâng
cao chất lượng công chức cấp xã của tỉnh Bình Thuận trong giai đoạn đẩy mạnh
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
7. Ý nghĩa của luận văn
- Những kết luận và những giải pháp rút ra từ luận văn có thể làm tài liệu
tham khảo cho việc xây dựng, hoạch định chính sách và quy hoạch đào tạo công
chức cấp xã ở Bình Thuận.
- Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo
trong nghiên cứu và giảng dạy ở Trường Chính trị tỉnh, các trung tâm bồi dưỡng
chính trị huyện, thành phố của tỉnh Bình Thuận.

8


- Đề tài có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho các đề tài nghiên cứu
liên quan sau này.
8. Bố cục của Luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo,
Luận văn chia thành 03 chương:

Chƣơng 1: Cơ sở lý luận về chất lượng công chức cấp xã.
Chƣơng 2: Thực trạng chất lượng công chức cấp xã tỉnh Bình Thuận.
Chƣơng 3: Một số giải pháp nâng cao chất lượng công chức cấp xã tỉnh
Bình Thuận.

9


Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHẤT LƢỢNG CÔNG CHỨC CẤP XÃ
1.1. Những vấn đề chung về công chức cấp xã
1.1.1. Khái niệm công chức và công chức cấp xã
1.1.1.1. Khái niệm công chức
Khái niệm công chức thường được hiểu khác nhau ở các quốc gia. Việc
xác định ai là công chức thường do các yếu tố sau quyết định: hệ thống thể chế
chính trị; hệ thống thể chế hành chính; tính truyền thống; sự phát triển kinh tế xã hội và các yếu tố văn hoá.
* Khái niệm công chức của một số quốc gia trên thế giới
Ở Đức, công chức là nhân viên làm việc trong các cơ quan nhà nước, tổ
chức văn hóa, nghệ thuật, giáo dục và nghiên cứu khoa học quốc gia, nhân viên
công tác trong các xí nghiệp nhà nước, công chức làm việc trong cơ quan chính
phủ, nhân viên lao động công, giáo sư đại học, giáo viên trung học hay tiểu học…
Ở Pháp, công chức là những người được tuyển dụng, bổ nhiệm vào làm
việc trong các công sở gồm các cơ quan hành chính công quyền và các tổ chức
dịch vụ công cộng do nhà nước tổ chức bao gồm cả trung ương, địa phương.
Ở Nhật Bản, công chức được phân thành hai loại chính, gồm công chức
nhà nước và công chức địa phương. Công chức nhà nước gồm những người
được nhận chức trong bộ máy của chính phủ trung ương, ngành tư pháp, quốc
hội, trường công và bệnh viện quốc lập, xí nghiệp và đơn vị sự nghiệp quốc
doanh được lĩnh lương của ngân sách nhà nước. Công chức địa phương là những
người làm việc và lĩnh lương từ tài chính địa phương.

Như vậy, có thể nhận thấy rằng, đặc điểm chung của công chức ở các
quốc gia: là công dân của nước đó; được tuyển dụng qua thi tuyển; được bổ

10


nhiệm vào một ngạch hoặc một vị trí công việc và được hưởng lương từ ngân
sách nhà nước.
Ở nước ta, qua các thời kỳ lịch sử, khái niệm ai là công chức cũng đã có
nhiều lần thay đổi. Sự hình thành khái niệm công chức được gắn liền với sự phát
triển của nền hành chính nhà nước. Theo quy định tại điều 1, Sắc lệnh số 76/SL
ngày 20/5/1950 của Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hoà về quy chế công
chức Việt Nam, công chức là “những công dân Việt Nam được chính quyền
nhân dân tuyển để giữ một chức vụ thường xuyên trong cơ quan Chính Phủ, ở
trong hay ở ngoài nước, đều là công chức theo quy chế này, trừ những trường
hợp riêng biệt do Chính phủ quy định”. Sau đó một thời gian dài, ở Việt Nam
không tồn tại khái niệm “công chức” mà thay vào đó là khái niệm cán bộ, công
nhân viên chức nhà nước chung chung, không phân biệt công chức và viên chức.
Chuyển sang thời kỳ đổi mới (năm 1986), trước yêu cầu khách quan cần cải
cách nền hành chính và đòi hỏi phải chuẩn hoá đội ngũ cán bộ công chức nhà
nước, khái niệm “công chức” được sử dụng trở lại trong Nghị định 169/HĐBT
ngày 25/5/1991. Theo đó những người được coi là công chức phải đáp ứng được
những điều kiện sau: là công dân Việt Nam; được tuyển dụng và làm việc trong
biên chế chính thức của nhà nước; được giao giữ một công vụ thường xuyên
trong các công sở của Nhà nước, ở trung ương hay địa phương, ở trong hay
ngoài nước; được xếp vào một ngạch.
Pháp lệnh Cán bộ - công chức có đối tượng điều chỉnh chung là cán bộ,
công chức. Tất cả những người làm việc trong cơ quan nhà nước, tổ chức chính
trị, chính trị xã hội đều được gọi chung là cán bộ, công chức. Tuy nhiên, có một
nhóm đối tượng được phân loại với tên gọi là công chức. Để cụ thể hoá thuật

ngữ công chức, nghị định 117/2003/NĐ-CP quy định: Công chức nói tại Nghị
định này là công dân Việt Nam, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà
nước được quy định tại điểm b, điểm c, điểm e khoản 1, Điều 1 của Pháp lệnh

11


cán bộ, công chức, làm việc trong các cơ quan nhà nước, lực lượng vũ trang, tổ
chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội sau đây:
- Văn phòng Quốc hội;
- Văn phòng Chủ tịch nước;
- Các cơ quan hành chính nhà nước ở Trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện;
- Tòa án nhân dân, Viện Kiểm soát nhân dân các cấp;
- Cơ quan đại diện nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở nước ngoài;
- Đơn vị thuộc Quân đội Nhân dân và Công an Nhân dân;
- Bộ máy giúp việc thuộc tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội ở
trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện.
Luật Cán bộ, Công chức năm 2008 ra đời (có hiệu lực từ 01/01/2010) là
một văn bản có giá trị pháp lý cao nhất từ trước đến nay cắt nghĩa được rõ ràng
hơn về khái niệm “công chức”. Trong Luật này, khái niệm công chức có phạm
vi rộng hơn. Theo đó, công chức là công dân Việt Nam, được tuyển dụng, bổ
nhiệm vào ngạch, chức vụ, chức danh trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt
Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị – xã hội ở trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện;
trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân mà không phải là sĩ quan, quân
nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng; trong cơ quan, đơn vị thuộc Công
an nhân dân mà không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp và trong bộ
máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập của Đảng Cộng sản Việt
Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị – xã hội (gọi chung là đơn vị sự nghiệp công
lập), trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước; đối với công chức
trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập thì lương được

bảo đảm từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định của pháp luật.
1.1.1.2. Khái niệm công chức cấp xã
Công chức cấp xã là một bộ phận cấu thành nguồn nhân lực trong bộ máy
chính quyền cấp xã, có vai trò cực kỳ quan trọng trong hoạt động quản lý của bộ

12


máy hành chính cấp xã. Pháp lệnh cán bộ, công chức năm 1998, khái niệm công
chức cấp xã vẫn chưa được xác định rõ ràng về mặt pháp lý. Tuy nhiên, đến
Nghị định số 114/2003/NĐ-CP của Chính phủ về cán bộ, công chức xã, phường,
thị trấn ban hành trên cơ sở Pháp lệnh cán bộ, công chức năm 1998 và Pháp lệnh
sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh cán bộ, công chức năm 1998, thì
khái niệm công chức cấp xã đã được làm rõ. Theo đó, công chức cấp xã được
xác định là những người được tuyển dụng, giao giữ một chức danh chuyên môn
thuộc UBND cấp xã, gồm 07 chức danh: Trưởng công an (nơi chưa bố trí lực
lượng công an chính quy); Chỉ huy trưởng Quân sự; Văn phòng – Thống kê; Địa
chính – xây dựng; Tài chính – kế toán; Tư pháp – hộ tịch; Văn hóa – xã hội.
Theo khoản 3, điều 4, Luật cán bộ, công chức năm 2008 thì: Công chức cấp
xã là công dân Việt Nam được tuyển dụng, giữ một chức danh chuyên môn, nghiệp
vụ thuộc UBND cấp xã, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước.
- Cơ cấu công chức cấp xã
Theo khoản 3, điều 61, Luật cán bộ, công chức năm 2008 và khoản 2,
điều 3, Nghị định 92/2009/NĐ-CP, ngày 22 tháng 10 năm 2009 của Chính phủ
về chức danh, số lượng, một số chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức ở
xã, phường, thị trấn và những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã thì
công chức cấp xã bao gồm các chức danh như sau:
+ Trưởng Công an;
+ Chỉ huy trưởng Quân sự;
+ Văn phòng - thống kê;

+ Địa chính - xây dựng - đô thị và môi trường (đối với phường, thị trấn)
hoặc địa chính - nông nghiệp - xây dựng và môi trường (đối với xã);
+ Tài chính - kế toán;
+ Tư pháp - hộ tịch;
+ Văn hoá - xã hội.

13


- Số lượng công chức cấp xã
Theo quy định tại khoản 1, điều 4, Nghị định số 92/2009/NĐ-CP, ngày
22/10/2009 của chính phủ định: cấp xã loại 1: không quá 25 người; cấp xã loại
2: không quá 23 người; cấp xã loại 3: không quá 21 người.
Việc xếp loại đơn vị hành chính cấp xã thực hiện theo quy định tại Nghị
định số 159/2005/NĐ-CP ngày 27 tháng 12 năm 2005 của Chính phủ về việc
phân loại đơn vị hành chính xã, phường, thị trấn.
Số lượng cán bộ, công chức cấp xã quy định tại khoản 1, điều 4, Nghị
định số 92/2009/NĐ-CP, ngày 22/10/2009 của chính phủ bao gồm cả cán bộ,
công chức được luân chuyển, điều động, biệt phái về cấp xã.
1.1.2. Đặc điểm của công chức cấp xã
Có thể nói trong đội ngũ cán bộ, công chức của nhà nước ta hiện nay, đội
ngũ công chức cấp xã thực sự là công bộc, là đầy tớ của nhân dân. Vì đây là lực
lượng tiếp xúc với nhân dân nhiều nhất và giải quyết thỏa đáng tâm tư, nguyện
vọng và bức xúc của nhân dân. So với đội ngũ cán bộ, công chức nói chung, đội
ngũ công chức cấp xã có những đặc điểm cơ bản như sau:
- Công chức cấp xã vừa phải thực thi nhiệm vụ chủ yếu là quản lý hành
chính nhà nước vừa đồng thời với việc giải quyết các công việc có tính tự quản
ở địa phương.
- Công chức phần lớn là những người sinh ra và lớn lên ở địa phương, là
những người cùng sinh sống, có quan hệ tình cảm với bà con nhân dân tại địa

phương. Do đó họ có thể nắm bắt, hiểu rõ đặc điểm, tình hình ở địa phương
cũng như mối quan hệ tình làng, nghĩa xóm của nhân dân địa phương từ đó có
thể xem xét những vụ việc chuyên môn cụ thể do người dân địa phương đưa ra
và tư vấn cho cán bộ lãnh đạo ở địa phương giải quyết vụ việc hợp tình, hợp lý
phù hợp với quy định của pháp luật.

14


- Công chức cấp xã là cầu nối giữa chính quyền địa phương và nhân dân
tốt nhất, vì họ trực tiếp xem xét công việc và trình lãnh đạo giải quyết những
công việc đó. Chính vì vậy họ luôn phải giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa nhà
nước và nhân dân địa phương. Tuy nhiên, do trình độ còn hạn chế cùng với tính
cục bộ trong mối quan hệ thân tộc, tình làng, nghĩa xóm… nên công chức cấp xã
đôi khi còn thể hiện sự thiên vị trong việc đề xuất hướng giải quyết vụ việc.
- Công chức cấp xã, trong đó một phần là cán bộ dự nguồn, chưa được
đào tạo qua trường, lớp (đặc biệt ở vùng sâu, vùng xa) mà chủ yếu là học hỏi
kinh nghiệm từ những người đi trước, nghề dạy nghề, do đó trong hoạt động đôi
khi còn bộc lộ nhiều hạn chế. Do đồng lương thấp, công chức cấp xã sau khi
công tác một thời gian đã xin nghỉ chuyển sang công việc khác có thu nhập cao
hơn làm cho đội ngũ công chức cấp xã không ổn định, luôn biến động, chính
điều này đã phần nào ảnh hưởng đến công việc chuyên môn, đồng thời ảnh
hưởng đến việc đào tạo, bồi dưỡng công chức cấp xã ở địa phương.
- Công chức cấp xã ngoài việc có thu nhập từ lương công chức, họ còn
làm kinh tế khác, có như thế mới đảm bảo được cuộc sống của bản thân và gia
đình, do vậy nhìn ở một khía cạnh nào đó, chúng ta có thể thấy được rằng công
chức cấp xã không thể toàn tâm toàn ý cho công việc chuyên môn của mình.
Việc này phần nào cũng ảnh hưởng đến việc thực hiện chức năng và nhiệm vụ
của chính quyền cấp xã, vì vậy nhà nước cần phải có chính sách, chế độ chính
sách, chế độ đãi ngộ đối với công chức cấp xã nhiều hơn.

1.1.3. Vai trò của công chức cấp xã
Xác định vai trò của người cán bộ, Hồ Chí Minh đánh giá: “Cán bộ là cái
gốc của mọi công việc”; “Muôn việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt
hoặc kém” [9, tr.240, 269].
Bước vào thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH, Đảng ta luôn xác định, con
người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội. Trong

15


đó, “Cán bộ là nhân tố quyết định đến sự thành bại của cách mạng gắn liền với
vận mệnh của Đảng, của đất nước, của chế độ, là khâu then chốt trong công tác
xây dựng Đảng” [7, tr.34].
Ở nước ta, cấp xã là cấp trực tiếp tổ chức thực hiện mọi chủ trương,
đường lối của Đảng; chính sách, pháp luật của Nhà nước trong thực tế. Mọi hoạt
động của chính quyền cấp xã đều do cán bộ, công chức cấp xã thực hiện. Do đó
công chức cấp xã là một bộ phận không thể thiếu trong đội ngũ cán bộ, công
chức. Họ luôn phát huy vai trò của mình trong đời sống chính trị - xã hội của đất
nước, của các địa phương.
Công chức cấp xã có vai trò hết sức quan trọng trong xây dựng và hoàn
thiện bộ máy chính quyền cấp xã, trong hoạt động thi hành nhiệm vụ, công vụ.
Cấp xã trực tiếp gắn với quần chúng; tạo dựng phong trào cách mạng quần
chúng. Cơ sở xã, phường, thị trấn mạnh hay yếu một phần quan trọng phụ thuộc
vào chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn. Công chức cấp
xã góp phần quyết định sự thành bại của đường lối và nhiệm vụ chính trị của
Đảng, Nhà nước. Chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của
Nhà nước có được thực thi tốt hay không, có hiệu quả hay không hiệu quả một
phần quyết định là ở cấp xã.
Công chức cấp xã là cầu nối giữa Đảng, Nhà nước với quần chúng nhân
dân; là những người trực tiếp đem chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước

giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành; đồng thời nắm bắt tình hình triển
khai thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà
nước phản ánh cho Đảng và Nhà nước để có sự điều chỉnh, sửa đổi, bổ sung cho
đúng và phù hợp với thực tiễn.
Công chức cấp xã có vai trò quan trọng trong quản lý và tổ chức công
việc của chính quyền cấp xã, phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm lợi ích của
nhân dân địa phương. Tùy theo vị trí, chức danh của mình, mỗi cán bộ, công

16


×