Tải bản đầy đủ (.docx) (71 trang)

Nâng cao chất lượng Công chức cấp xã tại huyện Bình Sơn Quảng Ngãi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (333.5 KB, 71 trang )

LỜI CẢM ƠN

Trong suốt 4 năm học tập và rèn luyện dưới mái trường Học viện
hành chính quốc gia thành phố Hồ Chí Minh đã trang bị cho em
những kiến thức, bài học quý giá làm hành trang vững chắc trên
con đường sự nghiệp sau này với tấm lòng biết ơn sâu sắc.
Em xin được trân trọng cảm ơn đến Ban Giám đốc Học viện hành
chính quốc gia thành phố Hồ Chí Minh cùng các thầy cô giáo trong
suốt 4 năm học vừa qua đã tận tình, quan tâm, dạy bảo, truyền
đạt những kiến thức, kỹ năng hữu ích cho chúng em; em xin cảm
ơn các thầy cô trong Bộ môn Quản lý tổ chức và nhân sự đã hướng
dẫn chu đáo cho em trong suốt quá trình làm khóa luận tốt
nghiệp.
Em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến thầy Trần Trí Trinh đã quan tâm,
giúp đỡ nhiệt tình cũng như tạo điều kiện để em hoàn thành khóa
luận tốt nghiệp.
Dưới đây là bài khóa luận tốt nghiệp. Do còn nhiều hạn chế nên
không tránh khỏi sự thiếu sót. Kính mong nhận được sự đóng góp
của thầy, cô và các bạn.
Em xin chân thành cảm ơn!


MỤC LỤC


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
HĐND: Hội đồng nhân dân
UBND: Uỷ ban nhân dân
THCS

: Trung học cấp xã



THPT

: Trung học phổ thông

Tr. cấp: Trung cấp
CĐ:Cao đẳng
ĐH, Trên ĐH: Đại học, Trên Đại học
UBMTTQ: Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc
BD: Bồi dưỡng
ĐT: Đào tạo
CC: Công chức

[3]


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Xuất phát từ vai trò của công chức cấp xã
- Vai trò của CC cấp xã đối với chính quyền cấp xã
Đội ngũ CC cấp xã là người giữ vai trò quyết định trong việc
quán triệt, tổ chức thực hiện mọi quyết định của cấp ủy cấp trên,
cấp ủy cùng cấp và mọi chủ trương, kế hoạch, sự chỉ đạo của
chính quyền cấp trên, cũng như mọi chương trình, kế hoạch của
chính quyền cấp xã.
CC cấp xã là cầu nối quan trọng nhất giữ Đảng, Nhà nước với
nhân dân. Và giữ vai trò quyết định trong việc xây dựng và thúc
đẩy phong trào cách mạng của quần chúng ở cấp xã.
- Vai trò của CC cấp xã trong sự ổn định xã hội và phát triển
của chính quyền địa phương

CC cấp xã là những người làm việc trực tiếp và hiểu được
mong muốn của nhân dân, sẽ góp phần ổn định tình hình xã hội
tại địa phương thông qua các chính sách cụ thể và hợp lý. Đặc
biệt, ở các xã có đồng bào dân tộc sinh sống vai trò này càng được
phát huy. Bởi vì sự hiểu biết của đồng bào dân tộc còn hạn chế, dễ
bị lợi dụng và lôi kéo, trên các địa bàn đó có nhiều vấn đề nhạy
cảm diễn ra. Nếu chính quyền không gần dân, không kheo léo và
gây mất lòng tin trong nhân dân thì sự bất ổn định xã hội rất dễ
xảy ra.
Chính quyền cấp cấp xã và CC cấp xã là những người nắm rõ
các điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội tại địa phương. Từ đó đưa ra
các chính sách hợp lý, giúp phát huy tốt nhất các thế mạnh của
địa phương, góp phần phát triển kinh tế - xã hội ổn định và bền
vững.
1.2. Xuất phát từ thực trạng chất lượng CC cấp xã hiện
nay
[4]


CC cấp xã hiện nay vẫn còn nhiều bất cập, hạn chế về trình độ
chuyên môn và chất lượng thực thi công việc, mà hiện nay với tình
hình đất nước ngày càng phát triển hội nhập do đó cần đòi hỏi một
lượng CC quản lý hành chính chất lượng cao. Và việc nâng cao
chất lượng là điều rất cần thiết.
Hiện nay trên địa bàn xã việc áp dụng công nghệ thông tin
trong giải quyết công việc của CC còn gặp nhiều khó khăn, nhiều
CC vẫn chưa thể sử dụng máy tính và làm việc trên máy tính, cấp
xã vật chất còn hạn chế nên kết quả mang lại chưa cao.
1.3. Xuất phát từ yêu cầu quản lý ngày càng cao
Sự nghiệp đổi mới đất nước trong thời kỳ đẩy mạnh công

nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đang đặt ra những yêu cầu cấp
bách về cải cách BMNN, cải cách nền hành chính quốc gia. Chính
năng lực, trình độ và phẩm chất của đội ngũ CC Nhà nước là một
nhân tố quan trọng, có vai trò quyết định thắng lợi trong sự nghiệp
to lớn này.
Việc xây dựng đội ngũ CC cấp cấp xã trong sạch, vững mạnh,
có số lượng hợp lý, chuyên nghiệp, hiện đại, đủ phẩm chất và
năng lực thi hành công vụ; thực hiện có hiệu lực, hiệu quả quản lý
Nhà nước tận tụy phục vụ sự nghiệp cách mạng và nhân dân trong
thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước là một
yêu cầu quan trọng, là mục tiêu tổng quát của xây dựng đội ngũ
CC Hành chính Nhà nước nói chung và CC cấp cấp xã nói riêng của
nước ta.
Nhận thấy tầm quan trọng của đội ngũ CC cấp xã và tính cấp
thiết cần phải nâng cao chất lượng CC cấp xã nên em đã chọn đề
tài “Nâng cao chất lượng đội ngũ công chức tại UBND huyện Bình
Sơn, tỉnh Quảng Ngãi”
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
[5]


Đề tài tập trung vào việc phân tích thực trạng và đánh giá về
chất lượng đội ngũ công chức cấp cấp xã tại huyện Bình Sơn, tỉnh
Quảng Ngãi từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất
lượng công chức cấp cấp xã tại huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi
góp phần vào việc nâng cao hiệu quả thực thi công vụ của đội ngũ
này cũng như chất lượng hoạt động của chính quyền cấp cấp xã
của huyện.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

- Nghiên cứu cấp xã lý luận về vấn đề nâng cao chất lượng
của đội ngũ công chức cấp cấp xã tại huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng
Ngãi;
- Tìm hiểu trực trạng chất lượng của đội ngũ cán bộ công chức
huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi.
- Đưa ra một số kiến nghị, giải pháp góp phần nâng cao chất
lượng đội ngũ công chức cấp cấp xã huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng
Ngãi.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Trong khuôn khổ của một khoá luận tốt nghiệp, đề tài tập
trung vào nghiên cứu về trình độ; hiệu quả thực thi công vụ; đạo
đức công vụ và một số vấn đề khác của đội ngũ công chức cấp
cấp xã Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi
Nghiên cứu được tiến hành trên địa bàn 25 xã, thị trấn huyện
Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi theo số liệu thống kê về công chức cấp
cấp xã của huyện năm 2015.
4. Phương pháp nghiên cứu
Khoá luận sử dụng một số phương pháp nghiên cứu sau đây:
- Phương pháp duy vật biện chứng;
- Phương pháp tổng hợp, thống kê, phân tích;
- Phương pháp so sánh, đánh giá;
[6]


- Phương pháp nghiên cứu tài liệu
Ngoài ra khoá luận còn sử dụng các phương pháp bổ trợ như:
phương pháp
phỏng vấn, phương pháp điều tra, khảo sát thực tế,…
5. Kết cấu của khoá luận
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, khoá luận gồm 3

chương:
Chương 1: Khái quát về công chức cấp cấp xã
Chương 2: Thực trạng chất lượng công chức cấp cấp xã
huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi.
Chương 3: Một số đề xuất và kiến nghị nhằm nâng cao
chất lượng công chức cấp cấp xã huyện Bình Sơn, tỉnh
Quảng Ngãi.

[7]


CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHẤT LƯỢNG
CÔNG CHỨC CẤP XÃ

1.1. Công chức cấp xã
1.1.1. Khái niệm công chức cấp xã
Khái niệm công chức cấp xã được quy định tại Điều 4, Luật
công chức năm 2008:
Công chức cấp xã là công dân Việt Nam được tuyển dụng giữ
một chức danh chuyên môn, nghiệp vụ thuộc Ủy ban nhân dân
cấp xã, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước.
Các chức danh của CC được quy định tại Khoản 2, Điều 3 Nghị
định 92/2009 quy định về chức danh, số lượng, một số chế độ,
chính sách đối với công chức ở xã, phường, thị trấn và những
người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã.
Công chức cấp xã có các chức danh sau đây:
a) Trưởng Công an;
b) Chỉ huy trưởng Quân sự;
c) Văn phòng – thống kê;
d) Địa chính – xây dựng – đô thị và môi trường (đối với

phường, thị trấn) hoặc địa chính – nông nghiệp – xây dựng và môi
trường (đối với xã);
đ) Tài chính – kế toán;
e) Tư pháp – hộ tịch;
g) Văn hóa – xã hội.
Với quy định mới này địa vị pháp lý của đội ngũ công chức
chính quyền cấp xã có sự thay đổi lớn. Quyền hạn và trách nhiệm
của họ được quy định chặt chẽ hơn, đồng thời yêu cầu đối với họ
cũng cao hơn để đảm nhận trách nhiệm do Đảng, Nhà nước và
nhân dân giao phó.
[8]


1.1.2. Vị trí, vai trò của công chức cấp xã
Đội ngũ công chức cấp xã có vai trò hết sức quan trọng trong
xây dựng và hoàn thiện bộ máy chính quyền cấp xã, trong hoạt
động thi hành nhiệm vụ, công vụ. Hiệu lực, hiệu quả của bộ máy
chính quyền cấp xã nói riêng và hệ thống chính trị nói chung, xét
đến cùng được quyết định bởi phẩm chất, năng lực và hiệu quả
công tác của đội ngũ công chức cở sở. Có thể nói, đây là vấn đề
đặc biệt quan trọng đã được Đảng và Nhà nước quan tâm trong
suốt quá trình từ khi xây dựng Nhà nước dân chủ nhân dân đến
nay. Xã, phường, thị trấn mạnh hay yếu một phần quan trọng phụ
thuộc vào chất lượng đội ngũ công chức xã, phường, thị trấn.
Công chức cấp xã góp phần quyết định sự thành bại của chủ
trương, đường lối và nhiệm vụ chính trị của Đảng và Nhà nước.
Không có đội ngũ công chức cấp xã vững mạnh thì dù đường lối,
chủ trương chính trị có đúng đắn cũng khó biến thành hiện thực.
Công chức cấp xã vừa là người trực tiếp đem các chủ trương,
chính sách của Đảng và pháp luật Nhà nước giải thích cho nhân

dân hiểu rõ và thi hành, vừa là người phản ánh nguyện vọng của
quần chúng nhân dân đến với Đảng và Nhà nước để có sự điều
chỉnh, sửa đổi, bổ sung cho đúng và phù hợp với thực tiễn. Ở khía
cạnh này, họ có vai trò là cầu nối giữa Đảng, Nhà nước với quần
chúng nhân dân.
Công chức cấp xã có vai trò quan trọng trong thực thi công
việc của chính quyền cấp xã. Nhiệm vụ của họ là thực thi công vụ
mang tính tự quản theo pháp luật và bảo toàn tính thống nhất của
thực thi quyền lực nhà nước ở cấp xã thông qua việc giải quyết
các công việc hành ngày có tính chất quản lý, tự quản mọi mặt ở
địa phương. Họ còn có vai trò trực tiếp bảo đảm kỷ cương phép
nước tại cấp xã, bảo vệ các quyền tự do dân chủ, quyền con
người, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Thông qua hoạt
động của đội ngũ công chức cấp xã, nhân dân thể hiện được
quyền làm chủ và trực tiếp thực hiện quyền tự quản của mình.
[9]


Chính vì đội ngũ công chức cấp xã có vai trò quan trọng trong
bộ máy chính quyền cấp xã nên việc xây dựng đội ngũ công chức
cấp xã vững vàng về chính trị, có đạo đức trong sạch về lối sống,
có trí tuệ, kiến thức và trình độ năng lực để thực hiện các nhiệm
vụ được giao luôn là mối quan tâm hàng đầu của Đảng và Nhà
nước ta. Đây cũng là một nội dung rất quan trọng của công tác
cán bộ. Đảng ta cũng đã nhấn mạnh vai trò quan trọng của hệ
thống chính trị và đội ngũ công chức cấp xã đối với sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa phát triển đất nước. Đầu tư xây
dựng đội ngũ công chức có phẩm chất, đạo đức và năng lực ngang
tầm sự nghiệp đổi mới mang ý nghĩa như sự đầu tư cho hạ tầng
cấp xã trong công tác cán bộ.

Xây dựng đội ngũ công chức cấp xã có đủ trình độ chuyên
môn, nghiệp vụ, có năng lực tổ chức, điều hành, công tâm, thạo
việc, tận tụy với dân, biết phát huy sức mạnh tổng hợp của nhân
dân, thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cấp xã, nâng cao trách
nhiệm công tác, có bản lĩnh chính trị vững vàng, có ý thức tổ chức
kỷ luật và đạo đức trong thực thi nhiệm vụ, công vụ nhằm nâng
cao chất lượng và hiệu quả công việc, góp phần vào sự nghiệp
phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo an ninh, chính trị và quốc
phòng trên địa bàn xã.
1.1.3. Đặc điểm đội ngũ công chức cấp cấp xã
Chính quyền cấp xã là cấp gần dân nhất, trực tiếp quan hệ
với nhân dân, phạm vi công tác quản lý rộng bao quát nhiều lĩnh
vực hoạt động như hành chính, kinh tế, an ninh, văn hoá, xã hội ở
cấp xã.
Qua đó cho thấy đội ngũ công chức cấp xã có những đặc điểm
sau:
- Công chức cấp xã theo quy định tại Quyết định số
04/2004/QĐ-BNV ngày 16/1/2004 của Bộ Nội vụ phải có trình độ
chuyên môn phù hợp từ trung cấp trở lên. Chính từ quy định này
[10]


nên công chức xã có sự đồng nhất và tương đối đạt chuẩn về trình
độ chuyên môn nghiệp vụ.
- Công chức xã phải thông qua tuyển dụng và phụ trách những
lĩnh vực công tác cụ thể nên nhìn chung có sự đảm bảo về tiêu
chuẩn và tính ổn định trong công tác. Tính ổn định của công chức
cấp xã cao hơn so với cán bộ cấp xã.
- Công chức xã trực tiếp tham mưu cho lãnh đạo UBND cấp xã
trong việc điều hành, chỉ đạo công tác. Chất lượng của công chức

cấp xã sẽ góp phần quyết định đến hiệu lực, hiệu quả quản lý
hành chính nhà nước ở cấp xã. Đội ngũ công chức cấp xã đặc biệt
quan trọng trong việc thực hiện các chủ trương, chính sách của
Đảng, Nhà nước và là lực lượng chiếm số lượng hết sức đông đảo
trong tổng số biên chế hiện nay. Chính vì vậy, việc xác định rõ đặc
điểm, vị trí, vai trò của công chức cấp xã là vấn đề cần thiết để có
chủ trương, chính sách phù hợp
1.2. Chất lượng công chức cấp xã
1.2.1. Khái niệm chất lượng
Chất lượng là một thuật ngữ đã tồn tại từ lâu trong lịch sử.
Trong từng giai đoạn phát triển của sản xuất đã xuất hiện nhiều
định nghĩa về chất lượng.
Sau đây là một số khái niệm điển hình:
Theo Tổ chức Quốc tế về Tiêu chuẩn hóa, trong tiêu chuẩn ISO
8402: 2000 (Quality Management and Quality Assurance): “Chất
lượng là toàn bộ các đặc tính của một thực thể, tạo cho thực thể
đó khả năng thỏa mãn các nhu cầu đã được công bố hay còn tiềm
ẩn”.
Theo Tổ chức kiểm tra chất lượng Châu Á (European Quality
Control Organization): “Chất lượng là mức độ phù hợp với yêu cầu
người tiêu dùng”.
Theo tiêu chuẩn Pháp: “Chất lượng là tiềm năng của một sản
[11]


phẩm hay dịch vụ nhằm thỏa mãn nhu cầu người sử dụng”.
Nhưng dù tiếp cận theo cách nào cũng phải đảm bảo: phù hợp
với tiểu chuẩn đã được công bố, phù hợp với những đòi hỏi của
người sử dụng, sự kết hợp cả tiêu chuẩn và đòi hỏi của người tiêu
dùng. Đó là yêu cầu không thể thiếu được để đánh giá chất lượng

của một loại hàng hoá, dịch vụ nào đó.
1.2.2. Chất lượng công chức cấp xã
Chất lượng công chức không hoàn toàn giống với chất lượng
của các loại hàng hoá, dịch vụ, bởi con người là một thực thể phức
tạp.
Theo chủ tịch Hồ Chí Minh, Người cho rằng người công chức có
chất lượng thì phải hội đủ các tiêu chuẩn đức và tài, phẩm chất và
năng lực, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, phong cách, phương
pháp công tác tốt trong đó phẩm chất, đạo đức là yếu tố hàng
đầu. Đối với Người, phải luôn rèn luyện người đảng viên có đủ đức
và đủ tài, vừa hồng và vừa chuyên. Người luôn quan tâm, động
viên và dìu dắt đội ngũ đảng viên để họ thấm nhuần đạo đức cách
mạng, thật sự cần, kiệm, liêm, chính, chí, công, vô tư.
Đặt chữ “đức” lên hàng đầu, nhưng Bác Hồ vẫn luôn coi trọng
cái “tài”. Người nhìn nhận “đức” và “tài” trong mối quan hệ biện
chứng, như hai mặt không thể tách rời trong một nhân cách hoàn
thiện: “Có tài mà không có đức là người vô dụng”, nhưng “có đức
mà không có tài thì làm việc gì cũng khó”.
Theo đó, chất lượng công chức ở đây được xem xét một cách
toàn diện từ trình độ, năng lực; kỹ năng, phương pháp làm việc;
hiệu quả thực thi công vụ; phẩm chất, đạo đức công chức; văn hoá
ứng xử cho đến sức khoẻ (thể chất, tâm lý) của họ. Trong đó, yếu
tố trình độ; yếu tố hiệu quả thực thi công vụ và yếu tố phẩm chất,
đạo đức công chức được xem là quan trọng nhất để xem xét chất
lượng công chức.
[12]


1.2.3. Một số hình thức biểu hiện chất lượng của công chức
cấp xã

Ta có thể hiểu rõ hơn khái niệm về chất lượng công chức qua
việc tìm hiểu các hình thức biểu hiện chất lượng cán bộ công chức
cấp cấp xã dưới đây.
- Trình độ của công chức cấp cấp xã
Trình độ của đội ngũ công chức cấp cấp xã là mức độ đạt được
về bằng cấp và mức thành thạo ở lĩnh vực quản lý nhà nước ở địa
phương cấp cấp xã.
Căn cứ vào đặc thù hoạt động và phạm vi lĩnh vực công tác
công chức cấp cấp xã cần có các loại trình độ sau:


Trình độ học vấn;



Trình độ chuyên môn;



Trình độ lý luận chính trị;



Trình độ quản lý nhà nước;



Trình độ tin học, ngoại ngữ.

Trình độ học vấn là mức độ đạt được trong hệ thống trình độ

kiến thức phổ thông, bao gồm các mức: Tiểu học, THCS và THPT.
Đây là hệ thống kiến thức phổ thông về tự nhiên, xã hội làm nền
tảng cho nhận thức, tư duy và hoạt động của con người. Trình độ
học vấn không phải là yếu tố quyết định đến toàn bộ năng lực và
hiệu quả làm việc nhưng là yếu tố cơ bản ảnh hưởng, đồng thời
cũng là chỉ tiêu quan trọng để đánh giá năng lực và hiệu quả hoạt
động của đội ngũ công chức cấp cấp xã. Hạn chế về trình độ học
vấn sẽ làm hạn chế khả năng của người công chức trong hoạt
động công tác như: hạn chế khả năng tiếp thu, lĩnh hội đường lối,
chủ trương, chính sách và pháp luật của Đảng và Nhà nước, sự chỉ
đạo của cấp trên; làm hạn chế khả năng phổ biến những chủ
trương, chính sách đó cho nhân dân; làm hạn chế năng lực tổ chức
[13]


triển khai, kiểm tra, đôn đốc, vận động quần chúng…
Trình độ chuyên môn là mức độ đạt được về một chuyên môn,
một ngành nghề nào đó. Đây là những kiến thức trực tiếp phục vụ
cho công việc chuyên môn của người công chức, đặc biệt là công
chức, những người thực hiện một công vụ thường xuyên trong cơ
quan hành chính nhà nước.
Trình độ lý luận chính trị là mức độ đạt được trong hệ thống
những kiến thức lý luận về lĩnh vực chính trị, lĩnh vực giành và giữ
chính quyền, bao gồm các kiến thức về quyền lực chính trị, đảng
phái chính trị, đấu tranh chính trị… Hệ thống kiến thức này trang
bị và củng cố lập trường giai cấp, lập trường quan điểm của Đảng
lãnh đạo là Đảng Cộng sản Việt Nam. Nó giúp cho mỗi công chức
cấp cơ sở có quan điểm và lập trường đúng đắn trong quá trình
thực hiện nhiệm vụ của mình.
Trình độ quản lý nhà nước là mức độ đạt được trong hệ thống

tri thức về lĩnh vực quản lý nhà nước, bao gồm các kiến thức về hệ
thống bộ máy nhà nước, pháp luật, nguyên tắc, công cụ… quản lý
nhà nước. Hệ thống kiến thức này giúp người công chức hiểu rõ
quyền hạn, nghĩa vụ của mình là gì và thực hiện như thế nào, cụ
thể là họ được làm những gì và không được làm những gì; công cụ
quản lý, kỹ năng và phương pháp điều hành ra sao, hiểu được sự
vận hành của hệ thống tổ chức bộ máy nhà nước nói chung và ở
cấp xã nói riêng, từ đó thực thi công việc đúng pháp luật và có
hiệu quả.
Trình độ tin học là mức độ đạt được về những kiến thức, những
kỹ năng trong lĩnh vực tin học. Hiện nay, trong thời đại công nghệ
thông tin, trong xu thế hội nhập, toàn cầu hoá nền kinh tế quốc tế,
việc trang bị kiến thức về tin học đối với công chức nói chung và
công chức cấp cấp xã nói riêng lại càng trở nên cấp thiết. Bởi mọi
công việc từ việc quản lý hồ sơ, văn bản đến việc giải quyết công
việc đều thông qua hệ thống máy tính và mạng internet. Máy tính
[14]


và kỹ thuật tin học là những công cụ có vai trò rất quan trọng
trong việc nâng cao hiệu quả công việc, nó giúp cho công việc
được tiến hành nhanh chóng và chính xác, làm tăng năng suất lao
động và giảm bớt công việc cho người công chức cấp cấp xã.
Những kiến thức tin học mà công chức cấp xã cần nhất hiện nay
đó là tin học cơ bản, tin học văn phòng (Word, Excel); những kiến
thức về kế toán máy, kế toán tổng hợp…
Trình độ ngoại ngữ là mức độ đạt được về những kiến thức,
những kỹ năng trong lĩnh vực ngoại ngữ. Hiện nay đa số công chức
cấp xã có trình độ ngoại ngữ rất hạn chế, thậm chí chỉ mang tính
hình thức, bằng cấp nhưng chưa ứng dụng được trong thực tiễn.

Trong quá trình hội nhập như hện nay việc sử dụng trình độ ngoại
ngữ là rất cần thiết, cần phải nâng cao hơn nữa trình độ của đội
ngũ công chức trong toàn huyện.
Tóm lại, đây là những kiến thức cơ bản mà một người công
chức nói chung hoạt động trong lĩnh vực quản lý nhà nước trong
hệ thống cơ quan nhà nước cần phải có để có thể thực hiện tốt
chức năng, nhiệm vụ của mình theo yêu cầu của vị trí công tác.
- Hiệu quả thực thi công vụ của cán bộ công chức
Kết quả thực hiện nhiệm vụ là tiêu chí đánh giá đầu ra của
quá trình thực thi hoạt động quản lý nhà nước, là tiêu chí cơ bản
phản ánh năng lực thực thi hoạt động quản lý nhà nước của công
chức. Kết quả thực hiện nhiệm vụ bao gồm kết quả thực hiện
nhiệm vụ riêng của cá nhân, kết quả thực hiện nhiệm vụ chung
của tập thể. Kết quả thực hiện nhiệm vụ còn được xem xét trên
nhiều khía cạnh khác nhau ví dụ như kết quả thực hiện một vụ
việc; kết quả thực hiện nhiệm vụ trong ngày, kết quả thực hiện
nhiệm vụ trong tháng, trong năm, trong nhiệm kỳ.
Hoạt động quản lý nhà nước bao gồm nhiều lĩnh vực của đời
sống xã hội vốn rất phong phú và đa dạng. Chính vì vậy, đánh giá
kết quả thực thi hoạt động quản lý nhà nước cũng hết sức đa
[15]


dạng. Có sản phẩm làm ra được kết quả ngay, ví dụ như các quyết
định xử phạt hành chính, nhưng cũng có những sản phẩm phải
đến một thời gian dài mới có thể đánh giá được kết quả ví dụ như
kết quả thực hiện Nghị quyết của HĐND về kinh tế – xã hội, an
ninh, quốc phòng hàng năm hay như cho vay xoá đói giảm nghèo,
đầu tư cấp xã hạ tầng.
Thông thường, việc đánh giá kết quả thực thi nhiệm vụ của

một cơ quan hoặc đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ của một
công chức được tổ chức đánh giá trong thời gian một năm.
UBND xã thực thi hoạt động quản lý hành chính nhà nước
thông qua hai hình thức cơ bản:
Ban hành các quyết định quản lý hành chính nhà nước
mà UBND xã được phép ban hành.
-

Triển khai các hoạt động quản lý hành chính cũng như
cung cấp dịch vụ công cho xã hội, công dân hay cho khách
hàng có nhu cầu (hoạt động hành chính).
-

Chất lượng hoạt động của hệ thống các cơ quan hành chính
Nhà nước nói chung và của UBND xã nói riêng trong hình thức thứ
nhất được quyết định bởi chất lượng của các văn bản quản lý hành
chính Nhà nước mà UBND xã ban hành. Như vậy, hiệu quả thực thi
công vụ của công chức xã chính là chất lượng của các loại văn bản
quy phạm pháp luật thuộc thẩm quyền ban hành của UBND xã và
các quyết định hành chính của Chủ tịch UBND xã.
Trong hình thức thứ hai, hiệu quả thực thi công vụ của công
chức xã được thể hiện thông qua chất lượng của các dịch vụ công
mà UBND xã phải cung cấp theo quy định của pháp luật như:
chứng thực, hộ tịch, đất đai,…Chất lượng của những dịch vụ công
này được đánh giá dựa trên những tiêu chí cụ thể như: Việc thực
hiện các hoạt động cung cấp dịch vụ công của công chức có tuân
thủ theo những quy trình bắt buộc theo quy định của pháp luật
hay không; cách làm của họ đã hợp lý, hiệu quả hay chưa; người
[16]



dân (người sử dụng các loại dịch vụ này) có nhận xét và đánh giá
gì, mức độ hài lòng và thoả mãn của họ,…
Hiệu quả thực thi công vụ của công chức cũng phụ thuộc vào
nhiều yếu tố, đó là:


Năng lực của công chức (trong đó có trình độ, kỹ năng
làm việc, phương pháp làm việc, tác phong);



Kiến thức thực tế;



Sức khoẻ (thể chất, tâm lý);



Năng khiếu bẩm sinh;



Các điều kiện khách quan như: cơ chế, chính sách, pháp
luật; cấp xã vật chất kỹ thuật; chế độ đãi ngộ;….

Như vậy hiệu quả thực thi công vụ của công chức thể hiện một
cách trực tiếp nhất việc nhận thức, khả năng giải quyết công việc,
phương pháp và kỹ năng làm việc cũng như kết quả giải quyết

công việc của công chức.
- Đạo đức công vụ
Đạo đức là những tiêu chuẩn, nguyên tắc xử lý các mối quan
hệ trong gia đình, cộng đồng hay xã hội, được thừa nhận rộng rãi.
Đạo đức quy định hành vi, quan hệ của con người đối với nhau và
đối với xã hội nói chung; Là những nguyên lý (nguyên tắc) phải
tuân theo trong quan hệ giữa người với người, giữa cá nhân với xã
hội, phù hợp yêu cầu của mỗi chế độ chính trị và kinh tế xã hội
nhất định.
Theo đó, đạo đức công vụ là đạo đức của công chức trong khi
thực thi nhiệm vụ của mình theo quy định của pháp luật, những
chuẩn mực quy định nghĩa vụ của những người thừa hành. Người
công chức có đạo đức công vụ là thể hiện lương tâm và trách
nhiệm của mình vì lợi ích chung và lợi ích của người khác, ý thức
rõ về cái cần phải làm và mong muốn được làm vì những lợi ích
[17]


đó.
Ở nước ta, khái niệm này vẫn còn mơ hồ và chưa được luật
hoá cụ thể. Đây là vấn đề luôn được quan tâm, xem xét và nhìn
nhận từ nhiều góc độ khác nhau. Tuy nhiên, đạo đức công vụ là
biểu hiện rất quan trọng của chất lượng công chức nói riêng và
tính hiệu quả của nền hành chính nói chung. Bởi nếu có đạo đức
công vụ và có ý thức cao về đạo đức công vụ thì công chức sẽ
thực hiện nhiệm vụ một cách trung thực và không vụ lợi cá nhân,
bằng hết khả năng với tinh thần tận tụy, nhiệt tình phải luôn đúng
giờ và tận dụng tối đa thời gian cho công việc; bảo vệ và sử dụng
an toàn, tiết kiệm tài sản công; có thái độ cư xử đúng mực và phải
luôn hoàn thiện; lấy hiệu quả công việc làm niềm vui, lẽ sống và là

động cơ để phấn đấu. Với những công chức như vậy sẽ góp phần
xây dựng đội ngũ công chức vững mạnh, nền hành chính hiệu lực,
hiệu quả và trong sạch.
Tuy nhiên, một bộ phận công chức quan liêu, hách dịch, tham
nhũng; tha hóa về đạo đức, lối sống sẽ làm suy giảm uy tín của
Đảng và niềm tin của nhân dân đối với Nhà nước, làm suy yếu đội
ngũ cán bộ công chức cũng như làm giảm hiệu quả, hiệu lực của
nền hành chính.
- Phương pháp và kỹ năng làm việc của công chức
Phương pháp giải quyết công việc là cách thức tổ chức thực
hiện nhiệm vụ hay một chủ trương, chính sách, một công việc cụ
thể. Nếu nhiệm vụ là việc phải làm tức là trả lời cho câu hỏi “làm
gì?” thì phương pháp là cách thức phải làm tức là trả lời cho câu
hỏi “làm như thế nào?” để đạt hiệu quả cao nhất.
Phương pháp để hoàn thành nhiệm vụ là tiêu chí đánh giá quá
trình “xử lý” để đạt được kết quả đầu ra của thực thi hoạt động
quản lý nhà nước. Sẽ thật thiếu sót nếu như đánh giá năng lực làm
việc của công chức chỉ xem xét kết quả mà không xem xét
phương pháp làm việc. Nếu như trình độ kiến thức là nền tảng
[18]


giúp công chức quản lý, điều hành đạt “lý” thì phương pháp giúp
cán bộ quản lý điều hành thấu “tình”. Người công chức có trình độ
kiến thức, có phương pháp hoạt động tốt sẽ thực thi hoạt động
quản lý nhà nước “thấu tình đạt lý”, hợp lòng dân, có khả năng
khơi dậy sự đồng tình, ủng hộ của nhân dân, được nhân dân tin
yêu.
Ngược lại, nếu có trình độ kiến thức mà không có phương
pháp hoạt động tốt, phù hợp thì công việc khó hoàn thành, hoặc

có hoàn thành nhưng khả năng phát sinh các vấn đề khiếu nại,
mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân sẽ gây ra những hậu quả đáng
tiếc hoặc mất lòng dân.
Phương pháp giải quyết công việc thể hiện phong cách, thái
độ ứng xử và sự sáng tạo của công chức trong thực thi nhiệm vụ.
Với mỗi việc phát sinh, người cán bộ công chức có nhận định, đưa
ra cách giải quyết hiệu quả nhất hoặc với mỗi đối tượng có cách
ứng xử phù hợp. Với kết quả giải quyết công việc như nhau nhưng
người có phương pháp tốt sẽ cho kết quả trong thời gian ngắn
nhất, kết quả đạt được sẽ có sức thuyết phục cao, được nhân dân
hài lòng hơn, tin tưởng hơn.
Kỹ năng trong thực thi hoạt động quản lý nhà nước của công
chức là khả năng vận dụng khéo léo, thành thạo những kiến thức
và kinh nghiệm thu được trên một lĩnh vực nào đó vào thực tế.
Trong thực thi hoạt động quản lý nhà nước đòi hỏi rất nhiều kỹ
năng như: kỹ năng quản lý (thu thập và xử lý thông tin, phân tích,
hoạch định, ra quyết định, tổ chức, kiểm tra, đánh giá); kỹ năng lễ
tân giao tiếp; kỹ năng vận động quần chúng; kỹ năng sử dụng các
thiết bị văn phòng; kỹ năng sử dụng các thiết bị nghiệp vụ; kỹ
năng tác nghiệp. Mỗi công việc, mỗi chức trách đòi hỏi có những
kỹ năng khác nhau, ở những mức độ khác nhau.
Như vậy, phương pháp và kỹ năng của công chức thể hiện
chất lượng thực tế của công chức đó trong hoạt động công vụ của
[19]


họ.
- Một số hình thức biểu hiện khác
Chất lượng của công chức còn được thể hiện thông qua một số
tiêu chí thuộc về thể lực, thể chất của mỗi công chức như: Sức

khoẻ (thể chất, tâm lý), độ tuổi, thâm niên công tác,…
Sức khoẻ của mỗi con người được đánh giá qua nhiều tiêu chí,
song tiêu chí cơ bản là thể lực và trí lực. Thể lực được đánh giá
thông qua sức mạnh cơ bắp, còn trí lực được đánh giá thông qua
sự minh mẫn, linh hoạt trong phản ứng, trong giải quyết công
việc. Nếu chỉ có trình độ năng lực chuyên môn mà không có một
sức khỏe dẻo dai, bền bỉ thì cũng không thể biến năng lực chuyên
môn ấy thành hoạt động thực tiễn được. Một người có kiến thức,
có năng lực được đào tạo cơ bản, có nhiệt tình tâm huyết với công
việc, có sự tín nhiệm của mọi người nhưng quanh năm đau ốm,
như vậy thì không thể đảm đương được công việc được giao. Hơn
nữa, cấp xã, phường là cấp trực tiếp giải quyết các công việc mà
không qua một cấp trung gian nào khác, mọi công việc phải tự
mình đảm nhiệm. Bởi thế sự phát triển bình thường về thể chất và
tâm lý trong một cơ thể khoẻ mạnh cũng là một yếu tố quan trọng
ảnh hưởng đến năng lực hoạt động của người cán bộ ở cấp xã.
Mặt khác, độ tuổi hay thâm niên công tác cũng biểu hiện phần
nào năng lực của người công chức. Thông thường tuổi càng cao,
thâm niên công tác càng lâu thì kinh nghiệm của công chức càng
nhiều, dày dạn, họ đã tích luỹ được nhiều kiến thức, nhiều kỹ
năng, phương pháp để giải quyết công việc nhanh chóng, hiệu
quả. Tuy nhiên, độ tuổi cũng chỉ là một tiêu chí phản ánh chất
lượng cán bộ công chức một cách tương đối. Một số những người
trẻ tuổi họ cũng rất ham hiểu biết, trình độ, năng lực của họ khá
cao mặc dù họ chưa có nhiều kinh nghiệm thực tế. Vì vậy cần phải
nắm được những đặc điểm này để sử dụng công chức cho phù hợp
với từng vị trí và năng lực, trình độ của từng người trong mỗi cơ
[20]



quan, tổ chức.
1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng công chức cấp xã
1.3.1. Cơ chế hình thành đội ngũ công chức cấp xã
Đây được coi là nhân tố đầu tiên, ảnh hưởng đến chất lượng
của đội ngũ công chức cấp cấp xã. Kinh nghiệm thực tiễn cho thấy
rằng việc lựa tuyển chọn công chức đúng tiêu chuẩn, khách quan
thì sẽ xây dựng được một đội ngũ công chức cấp cấp xã có trình
độ, năng lực và ngược lại. Theo quy định của pháp luật, đội ngũ
công chức cấp cấp xã được hình thành từ cơ chế tuyển dụng.
Nghị định 92/2009/NĐ-CP ngày 22/10/2009 của Chính phủ,
công chức cấp xã đã được hình thành bằng con đường tuyển dụng
như công chức các cấp, các ngành. Trình độ của đội ngũ công chức
cấp xã phụ thuộc vào chất lượng của quy trình tuyển dụng. Nếu
công tác tuyển dụng đúng quy định, lựa chọn được những công
chức đủ tiêu chuẩn chức danh thì sẽ có một đội ngũ công chức có
trình độ chuyện môn, có kỹ năng nghiệp vụ… để hoàn thành tốt
công vụ được giao.
1.3.2. Chính sách về đào tạo bồi dưỡng cán bộ công chức
cấp xã
Chính sách đào tạo, bồi dưỡng có ảnh hưởng trực tiếp đến việc
nâng cao trình độ của đội ngũ công chức cấp cấp xã.
Đào tạo, bồi dưỡng là con đường duy nhất để nâng cao trình
độ kiến thức trong điều kiện đội ngũ cán bộ công chức cấp cấp xã
bị thiếu hụt nhiều về kiến thức như hiện nay. Mặc dù trình độ của
đội ngũ công chức cấp cấp xã có ở mức thấp nhưng nếu được
quan tâm đào tạo, bồi dưỡng thường xuyên thì họ sẽ có chuyên
môn vững vàng, trình độ lý luận chính trị và trình độ quản lý nhà
nước đáp ứng tiêu chuẩn. Mặt khác, đào tạo, bồi dưỡng cũng góp
phần nâng cao hiệu quả thực thi công vụ của công chức cấp cấp
xã ở những lĩnh vực mà công chức còn yếu và thiếu. Và nó giúp

cho công chức nâng cao, nhận thức rõ hơn về đạo đức công vụ, về
[21]


những giá trị, chuẩn mực đạo đức mà họ phải làm.
Tuy nhiên, để đội ngũ công chức cấp cấp xã có thể tham gia
các khoá đào tạo, bồi dưỡng kiến thức thì chính sách đào tạo, bồi
dưỡng của Nhà nước có vai trò tác động rất quan trọng. Chất
lượng của công tác đào tạo, bồi dưỡng lại phụ thuộc vào các vấn
đề như: Hệ thống các cấp xã đào tạo, chương trình, giáo trình, đội
ngũ giảng viên; Chế độ cho người đi học như tiền ăn ở, đi lại, tiền
học phí, thời gian; Cơ chế đảm bảo sau khi đào tạo, để tránh lãng
phí trong đào tạo.
1.3.3. Yếu tố văn hoá địa phương
Nền văn hóa của một địa phương được kết tinh từ nhiều yếu
tố. Đó là những giá trị, niềm tin, những thói quen, trong đó không
thể không kể đến những truyền thống tốt đẹp của địa phương đặc
biệt là truyền thống hiếu học của các dòng họ. Nền văn hoá địa
phương tuy không ảnh hưởng trực tiếp nhưng nó gián tiếp ảnh
hưởng đến việc nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ công chức
cấp cấp xã.
Thực tế là ở đâu có truyền thống hiếu học thì ở đó có mặt
bằng dân trí cao, nguồn nhân lực có trình độ cao. Ở đâu có sự
cạnh tranh giữa các dòng họ trong việc tạo uy danh cho dòng họ
thì ở đó đặt ra yêu cầu đối với những người thuộc dòng tộc trong
việc hình thành chí hướng phấn đấu, tiến thủ trên con đường sự
nghiệp công danh, trong việc đảm trách những chức vụ quan
trọng trong chính quyền. Tuy nhiên, nếu sự cạnh tranh này là lành
mạnh thì sẽ tạo ra một cơ cấu đội ngũ cán bộ công chức cấp cấp
xã có trình độ, năng lực. Còn nếu có sự cạnh tranh thiếu lành

mạnh, thủ cựu thì sẽ tạo ra một cơ cấu chính quyền bè phái, tranh
giành quyền lực với mọi thủ đoạn. Ở đâu có nền văn hoá lạc hậu,
an phận thủ thường thì ở đó sẽ chậm đổi mới, không tiếp thu được
những văn minh của xã hội hiện đại, chậm tiến.
Nền văn hoá như vậy cũng sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến thói
[22]


quen, tâm lý ỷ lại, bảo thủ trì trệ… của các nhà lãnh đạo, nó làm
cản trở tiến trình phấn đấu nâng cao trình độ của đội ngũ công
chức cấp cấp xã. Có thể thấy các làng văn hoá, xã văn hoá là
những nơi có các gia đình văn hoá, nhân dân ở các địa phương đó
có trình độ dân trí cao, cùng đoàn kết nhất trí xây dựng đời sống
văn hoá mới; có niềm tin vào sự phát triển của làng, xã; có lối
sống văn minh, tiến bộ. Những điều đó là kết quả của việc lãnh
đạo sâu sát của cấp chính quyền cấp xã; sự chỉ đạo sáng suốt,
nhiệt tình, và sự năng động của đội ngũ công chức cấp cấp xã
cũng như nhận thức tiến bộ của người dân. Chính những giá trị
văn hoá tốt đẹp đó đã hình thành nên một đội ngũ công chức cấp
cấp xã vừa hồng vừa chuyên, vừa có trình độ cao vừa có phẩm
chất đạo đức tốt.
Còn ở những nơi nhân dân không nhất trí, đồng lòng; không
hợp tác, giúp đỡ nhau; không có niềm tin vào sự lãnh đạo của
Đảng và chính quyền cấp xã chứng tỏ nội bộ chính quyền xã lục
đục, chia rẽ, mất đoàn kết hay năng lực cán bộ lãnh đạo yếu kém,
nhiều hiện tượng tiêu cực xảy ra, hoạt động công vụ của công
chức không hiệu quả. Và những giá trị văn hoá không tích cực đó
đã sản sinh ra những con người, những công chức quan liêu, hách
dịch, cửa quyền, cá nhân chủ nghĩa, sách nhiễu nhân dân; trở
thành những “quan tham cách mạng”.

Như vậy, nền văn hoá địa phương có thể ảnh hưởng tốt hoặc
không tốt đến khuynh hướng phấn đấu của mọi người dân địa
phương nói chung và với đội ngũ công chức cấp cấp xã nói riêng.
1.3.4. Chế độ chính sách đối với công chức cấp xã
Chế độ chính sách đối với công chức cấp xã bao gồm các chế
độ, chính sách như: tiền lương, phụ cấp, tiền thưởng, bảo hiểm y
tế, bảo hiểm xã hội… Đây chính là một trong những yếu tố thúc
đẩy sự tận tâm, tận lực phục vụ nhân dân cũng như là động lực, là
điều kiện đảm bảo để họ phấn đấu nâng cao trình độ, năng lực
[23]


trong việc hoàn thành tốt công việc được giao.
Khi các chế độ, chính sách đảm bảo lợi ích vật chất đối với đội
ngũ công chức cấp cấp xã được đảm bảo sẽ tạo nên những tiền đề
và động lực sau: Thứ nhất, đảm bảo thu nhập và các điều kiện
sống cần thiết cho công chức cấp cấp xã và gia đình họ; Thứ hai,
đây là điều kiện để mỗi công chức cấp cấp xã có thể học tập để
nâng cao trình độ; Thứ ba, nó là mục tiêu, động lực phấn đấu,
cạnh tranh của nhiều người trong việc nâng cao trình độ, năng lực.
Thực tế cho thấy chỉ khi con người được đảm bảo các nhu cầu
tối thiểu cho cuộc sống hàng ngày thì con người mới nghĩ đến
những nhu cầu cao hơn. Cũng vậy, chỉ khi người công chức cấp
cấp xã được đảm bảo về kinh tế, đảm bảo về các phúc lợi xã hội
họ được hưởng thì họ mới có thể nghĩ đến việc học tập để nâng
cao trình độ. Ngoài ra, khi công chức cấp cấp xã đã có các điều
kiện thuận lợi hay đảm bảo; có động lực để phấn đấu thì cũng
thúc đẩy được việc học tập nâng cao trình độ của họ.
Chính vì vậy, chế độ, chính sách đảm bảo lợi ích vật chất vừa
là điều kiện, vừa là động lực đối với đội ngũ công chức cấp cấp xã

trong việc nâng cao trình độ.
1.3.5. Yếu tố nhận thức của công chức cấp xã
Đây chính là yếu tố cơ bản và quyết định nhất chất lượng của
mỗi công chức nói riêng và đội ngũ công chức cấp xã nói chung
bởi vì nó là yếu tố chủ quan, yếu tố nội tại bên trong của mỗi con
người. Nhận thức đúng là tiền đề, là kim chỉ nam cho những hành
động, những việc làm đúng đắn, khoa học và ngược lại. Nếu người
công chức nhận thức được vai trò, tầm quan trọng của việc phải
nâng cao trình độ để giải quyết công việc, để tăng chất lượng thực
thi công vụ thì họ sẽ tham gia các khoá đào tạo, bồi dưỡng một
cách tích cực, ham mê và có hiệu quả. Họ sẽ có ý thức trong việc
tự rèn luyện, trau dồi, học hỏi những kiến thức, kỹ năng mới,
những phương pháp làm việc có hiệu quả. Nếu họ biết được vấn
[24]


đề nâng cao đạo đức công vụ là hết sức quan trọng, là cái mà nhìn
vào đó người ta có thể đánh giá được chất lượng của đội ngũ công
chức, tính hiệu lực, hiệu quả của nền hành chính hiện có thì họ sẽ
luôn có ý thức để rèn luyện, tu dưỡng đạo đức, phấn đấu để hoàn
thành nhiệm vụ, giữ vững đạo đức, phẩm chất cách mạng, có ý
thức tổ chức kỷ luật và tinh thần trách nhiệm.
Ngược lại, khi công chức còn xem thường những chuẩn mực
đạo đức, nhân cách, nên thiếu nghiêm khắc với bản thân, không
thường xuyên rèn luyện, tu dưỡng, dùi mài tinh thần trách nhiệm
sẽ dẫn đến việc mắc bệnh quan liêu, mệnh lệnh, chủ quan, tự tư,
tự lợi, tư tưởng cục bộ, địa phương; phai nhạt lý tưởng, mất cảnh
giác, giảm sút ý chí, kém ý thức tổ chức kỷ luật, tha hóa về đạo
đức, lối sống. Từ đó, dẫn đến tình trạng quan liêu, cửa quyền, sách
nhiễu, gây phiền hà đối với nhân dân và lợi dụng chức trách, thẩm

quyền được Nhà nước và nhân dân giao phó để nhận hối lộ, tham
nhũng, buôn lậu, làm biến dạng những giá trị và tiêu chuẩn đích
thực của người rơi vào chủ nghĩa cá nhân, cơ hội, thực dụng làm
suy giảm uy tín của Đảng và niềm tin của nhân dân đối với Nhà
nước.
Như vậy, nhận thức là vấn đề đầu tiên cần quan tâm trong
việc nâng cao chất lượng cán bộ công chức cấp cấp xã cũng như
các cấp khác trong bộ máy nhà nước hiện nay.
Tiểu kết Chương 1
Công chức cấp xã có vai trò, vị trí rất quan trọng; là cầu nối
giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân; những người gần dân, sát dân,
nắm bắt được tâm tư, nguyện vọng của người dân; là những người
trực tiếp vận động nhân dân thực hiện đường lối chủ trương của
Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước; là những người trực
tiếp giải quyết những yêu cầu, thắc mắc của người dân; là người
trực tiếp tập hợp khối đại đoàn kết toàn dân, phát huy tính cộng
đồng dân cư. Trong những năm qua, công chức cấp xã luôn làm tốt
[25]


×