Tải bản đầy đủ (.pdf) (108 trang)

Tổ chức và hoạt động của thanh tra an toàn thực phẩm, ban quản lý an toàn thực phẩm thành phố hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.25 MB, 108 trang )



BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NỘI VỤ

………/…………

……/……

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

NGUYỄN THỊ MỸ HUYỀN

TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG
CỦA THANH TRA AN TOÀN THỰC PHẨM
BAN QUẢN LÝ AN TOÀN THỰC PHẨM
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP – LUẬT HÀNH CHÍNH

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - 2019




BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NỘI VỤ

………/…………



……/……

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

NGUYỄN THỊ MỸ HUYỀN

TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG
CỦA THANH TRA AN TOÀN THỰC PHẨM
BAN QUẢN LÝ AN TOÀN THỰC PHẨM
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP – LUẬT HÀNH CHÍNH

Chuyên ngành: Luật Hiến pháp – Luật Hành chính
Mã số: 8 38 01 02

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS. TS VÕ TRÍ HẢO
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - 2019

ii


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các số liệu nêu trong Luận văn là trung thực,
được trích dẫn rõ ràng từ các nguồn hợp pháp. Những kết
luận khoa học của Luận văn không trùng lắp với các công

trình có liên quan đã được công bố./.

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Nguyễn Thị Mỹ Huyền

iii


MỤC LỤC
Lời mở đầu .................................................................................................................1
Chƣơng 1: Cơ sở lý luận và pháp lý về tổ chức và hoạt động của Thanh tra an
toàn thực phẩm Ban Quản lý An toàn thực phẩm thành phố Hồ Chí Minh.......7
1.1. Quan niệm về tổ chức và hoạt động của Thanh tra an toàn thực phẩm ...............7
1.1.1. Thanh tra an toàn thực phẩm .........................................................................7
1.1.2. Tổ chức của Thanh tra an toàn thực phẩm ...................................................16
1.1.3. Hoạt động của Thanh tra an toàn thực phẩm ...............................................20
1.2. Những yếu tố tác động đến hiệu quả tổ chức và hoạt động của Thanh tra an toàn
thực phẩm Ban Quản lý an toàn thực phẩm thành phố Hồ Chí Minh .......................24
1.2.1. Những yếu tố tác động đến hiệu quả tổ chức của Thanh tra an toàn thực
phẩm Ban Quản lý An toàn thực phẩm thành phố Hồ Chí Minh..............................24
1.2.2. Những yếu tố tác động đến hiệu quả hoạt động Thanh tra an toàn thực phẩm
Ban Quản lý An toàn thực phẩm thành phố Hồ Chí Minh .......................................28
Chƣơng 2: Thực trạng tổ chức và hoạt động của Thanh tra an toàn thực phẩm
Ban Quản lý An toàn thực phẩm thành phố Hồ Chí Minh .................................35
2.1. Khái quát về sự ra đời của Thanh tra an toàn thực phẩm Ban Quản lý An toàn
thực phẩm thành phố Hồ Chí Minh...........................................................................35
2.1.1. Đặc điểm địa lý, kinh tế, xã hội liên quan đến vấn đề an toàn thực phẩm tại
Thành phố Hồ Chí Minh ...........................................................................................35
2.1.2. Thực trạng tuân thủ pháp luật về an toàn thực phẩm và nhu cầu thành lập

Ban Quản lý An toàn thực phẩm tại thành phố Hồ Chí Minh ..................................36
2.2. Thực trạng tổ chức của Thanh tra an toàn thực phẩm Ban Quản lý An toàn thực
phẩm thành phố Hồ Chí Minh ...................................................................................42
2.2.1. Cơ cấu tổ chức, vị trí, chức năng của Thanh tra an toàn thực phẩm Ban
Quản lý An toàn thực phẩm thành phố Hồ Chí Minh ...............................................42
2.2.2. Nhiệm vụ, quyền hạn của Thanh tra an toàn thực phẩm Ban Quản lý An
toàn thực phẩm thành phố Hồ Chí Minh ...................................................................45

iv


2.3. Thực trạng hoạt động của Thanh tra an toàn thực phẩm Ban Quản lý An toàn
thực phẩm thành phố Hồ Chí Minh...........................................................................48
2.3.1. Quy trình thanh tra của Thanh tra an toàn thực phẩm Ban Quản lý An toàn
thực phẩm thành phố Hồ Chí Minh...........................................................................48
2.3.2. Hình thức thanh tra của Thanh tra an toàn thực phẩm Ban Quản lý An toàn
thực phẩm thành phố Hồ Chí Minh...........................................................................50
2.3.3. Các hoạt động của Thanh tra an toàn thực phẩm Ban Quản lý An toàn thực
phẩm thành phố Hồ Chí Minh ...................................................................................51
2.4. Đánh giá về tổ chức và hoạt động của Thanh tra an toàn thực phẩm Ban Quản
lý An toàn thực phẩm thành phố Hồ Chí Minh.........................................................63
2.4.1. Kết quả đạt được và nguyên nhân ................................................................63
2.4.2. Hạn chế và nguyên nhân ..............................................................................67
Chƣơng 3: Phƣơng hƣớng, giải pháp hoàn thiện tổ chức và hoạt động của
Thanh tra an toàn thực phẩm Ban Quản lý An toàn thực phẩm thành phố Hồ
Chí Minh ..................................................................................................................75
3.1. Phương hướng hoàn thiện tổ chức và hoạt động của Thanh tra an toàn thực
phẩm Ban Quản lý An toàn thực phẩm thành phố Hồ Chí Minh..............................75
3.1.1. Tổ chức và hoạt động của Thanh tra an toàn thực phẩm cần bám sát yêu cầu
tiếp tục cải cách nền hành chính nhà nước................................................................75

3.1.2. Đảm bảo nguyên tắc độc lập tuân theo pháp luật trong hoạt động thanh tra
an toàn thực phẩm .....................................................................................................76
3.1.3. Đổi mới tư duy, nhận thức về vị trí, vai trò công tác thanh tra an toàn thực
phẩm ..........................................................................................................................77
3.2. Giải pháp hoàn thiện tổ chức và hoạt động của Thanh tra an toàn thực phẩm
Ban Quản lý An toàn thực phẩm thành phố Hồ Chí Minh .......................................79
3.2.1. Nâng cao hiệu lực quản lý an toàn thực phẩm trên cơ sở hoàn thiện hệ
thống pháp luật an toàn thực phẩm ...........................................................................79
3.2.2. Nâng cao trách nhiệm của người đứng đầu, cán bộ, công chức thanh tra
trong thực hiện nhiệm vụ, công vụ............................................................................82

v


3.2.3. Nâng cao chất lượng, hiệu quả việc tổ chức thực hiện cuộc thanh tra và đổi
mới công tác chỉ đạo, điều hành hoạt động thanh tra an toàn thực phẩm .................84
3.2.4. Đổi mới việc tuyển dụng, quản lý, sử dụng và đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ
cán bộ, công chức thanh tra.......................................................................................86
3.2.5. Xây dựng khung năng lực cho đội ngũ cán bộ, công chức thực hiện công tác
thanh tra an toàn thực phẩm ......................................................................................89
3.2.6. Đổi mới phương thức tuyên truyền để nâng cao chất lượng công tác truyền
thông về an toàn thực phẩm ......................................................................................91
3.2.7. Đầu tư các nguồn lực tài chính, xây dựng cơ sở vật chất đáp ứng yêu cầu
đổi mới về tổ chức, hoạt động thanh tra ....................................................................93
Kết luận ....................................................................................................................94
Danh mục tài liệu tham khảo .................................................................................95
Phụ Lục ......................................................................................................................1

vi



DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

Ban Quản lý ATTP TP HCM: Ban Quản lý An toàn thực phẩm thành phố Hồ Chí Minh
TP HCM

: Thành phố Hồ Chí Minh

UBND

: Ủy ban nhân dân

VBQPPL

: Văn bản quy phạm pháp luật

XHCN

: Xã hội chủ nghĩa

QLNN

: Quản lý nhà nước

ATTP

: An toàn thực phẩm

vii



DANH MỤC C C ẢNG BIỂU

Bảng 2.1: Sơ đồ tổ chức Thanh tra an toàn thực phẩm Ban Quản lý An toàn thực
phẩm thành phố Hồ Chí Minh .................................................................................. 44
Bảng 2.2. Bảng tổng hợp tiếp nhận và giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản
ánh của Phòng Thanh tra Ban Quản lý ATTP giai đoạn 2017 – 2019..................... 60
Bảng 2.3: Thống kê trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của công chức, viên chức được
giao thực hiện chức năng thanh tra ATTP ............................................................... 70

viii


LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của Đề tài
ATTP là một trong những vấn đề mà Đảng, Nhà nước ta từ lâu đặc biệt quan
tâm, coi đây là một vấn đề có ý nghĩa lớn về kinh tế, xã hội, sức khỏe cộng đồng.
Thực phẩm an toàn đóng góp to lớn trong việc cải thiện sức khỏe con người, chất
lượng cuộc sống và chất lượng giống nòi. Do đó, Đảng và Nhà nước ta đã khẳng
định sự cần thiết phải tăng cường quản lý, kiểm soát chặt chẽ, có hiệu quả hơn về an
toàn vệ sinh thực phẩm.
Thực tế chúng ta đang phải đối mặt với một cơn bão thực phẩm bẩn và không
an toàn, đe dọa lâu dài sức khỏe tính mạng người tiêu dùng. Cơn bão này chưa hề
có dấu hiệu kết thúc, thậm chí càng lúc càng phức tạp. Theo áo cáo của Bộ Y tế,
trong giai đoạn 2 11-2 16 đã ghi nhận 7 bệnh truyền qua thực phẩm làm mắc
4. 12. 38 ca bệnh với 123 người chết, trung bình 668.673 ca bệnh năm và 21 người
chết năm, trong đó chủ yếu là tiêu chảy cấp tính. Ước lượng tỷ lệ mắc tiêu chảy cấp
do thực phẩm trong 1 năm là 25,87% dân số.
Theo thống kê của Cục ATTP, trên toàn quốc có gần 9 .


cơ sở sản xuất,

chế biến, kinh doanh thực phẩm, kinh doanh dịch vụ ăn uống. Trong 3 tháng đầu
năm 2 18, trên phạm vi cả nước đã xảy ra 20 vụ ngộ độc thực phẩm, làm 502
trường hợp bị ngộ độc thực phẩm, trong đó có 3 người đã tử vong. Năm 2 17, cả
nước ghi nhận 139 vụ ngộ độc thực phẩm với 3.869 người mắc, giảm 27 vụ và 438
người mắc so với năm 2 16. Số người tử vong do ngộ độc thực phẩm là 24 người,
tăng 12 người so với năm 2 16, trong đó có 11 người ngộ độc methanol trong rượu,
1 người do độc tố tự nhiên (cá nóc, cóc…), 3 trường hợp chưa xác định nguyên
nhân. Trung bình mỗi năm Việt Nam có khoảng 250-500 vụ ngộ độc thực phẩm với
7.000-10.000 nạn nhân và 100-200 ca tử vong.
Từ năm 2 12 đến tháng 3 2 17, cơ quan chức năng đã thanh tra, kiểm tra và
phát hiện 94.768 224.791 lượt cơ sở (chiếm 42,1%) không đạt tiêu chuẩn ATTP; kết
quả xét nghiệm mẫu thực phẩm có 2.109/12.785 mẫu (chiếm 16,4%) không đạt tiêu

1


chuẩn vệ sinh. Cũng trong giai đoạn này trên địa bàn toàn quốc đã xảy ra 2.213 vụ
ngộ độc thực phẩm tại bếp ăn tập thể với 7.653 nạn nhân; 297 vụ ngộ độc thực
phẩm tại các khu công nghiệp, khu chế xuất với 4.498 nạn nhân; 118 vụ ngộ độc
thực phẩm trong các trường học với 1.090 học sinh; 238 vụ ngộ độc thực phẩm do
thức ăn đường phố với 4.980 nạn nhân. Qua kiểm tra, cơ quan chức năng đã xử lý
9.768 vụ vi phạm về ATTP; tiêu hủy trên 180 tấn thực phẩm không đảm bảo ATTP.
Tình trạng ngộ độc thực phẩm có xu hướng gia tăng và ảnh hưởng không nhỏ tới
sức khoẻ cộng đồng. Sản xuất, kinh doanh thực phẩm cơ bản vẫn là nhỏ lẻ, quy mô
hộ gia đình nên việc kiểm soát ATTP rất khó khăn, công tác quản lý ATTP còn
nhiều yếu kém, bất cập, hạn chế về nguồn lực và đầu tư kinh phí, chưa đáp ứng
được yêu cầu của thực tiễn.
Một trong những nguyên nhân trực tiếp liên quan đến hiện trạng mất ATTP là

hệ thống kiểm soát của nhà nước về ATTP thông qua cơ chế tổ chức và hoạt động
của cơ quan thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành ATTP chưa thực sự hiệu
quả. Việc quy định nhiệm vụ, quyền hạn theo phương thức nào để tránh sự chồng
chéo, việc áp dụng quy trình thanh tra như thế nào để mang lại hiệu quả cao, năng
lực chuyên môn nghiệp vụ của đội ngũ thanh tra… trong hoạt động này luôn là vấn
đề đặt ra và chưa được giải quyết triệt để. Vì vậy tổ chức và hoạt động của thanh tra
ATTP cần phải được tiếp cận trong mối quan hệ tương thích, phù hợp với tổ chức
bộ máy thanh tra nói chung và nhất là phải phù hợp với đặc thù của lĩnh vực ATTP.
Trước thực tế đó, việc nghiên cứu các quy định về tổ chức và hoạt động của
thanh tra ATTP đã và đang đặt ra nhu cầu bức thiết để tìm ra phương hướng và giải
pháp vừa thực sự hiệu quả vừa phù hợp với quy định của pháp luật. Do vậy, việc
nghiên cứu đề tài “Tổ chức và hoạt động của Thanh tra An toàn thực phẩm Ban
Quản lý An toàn thực phẩm thành phố Hồ Chí Minh” có ý nghĩa cả về phương
diện lý luận và thực tiễn trong giai đoạn hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn
Pháp luật về thanh tra nói chung và pháp luật trong lĩnh vực thanh tra ATTP là
đề tài thu hút sự quan tâm của nhiều nhà khoa học pháp lý. Nhất trong giai đoạn hiện

2


nay, số lượng các bài viết, công trình nghiên cứu về thanh tra nói chung và thanh tra
về ATTP nói riêng được tăng lên rõ rệt, tiêu biểu là những công trình sau:
- Ts Vũ Tuấn Khanh (chủ nhiệm đề tài) (2014), “Tổ chức và hoạt động thanh
tra chuyên ngành - Những vấn đề lý luận và thực tiễn”. Đề tài nghiên cứu khoa học
cấp Bộ, Thanh tra Chính phủ, Hà Nội. nghiên cứu thực trạng tổ chức và hoạt động
thanh tra chuyên ngành chủ yếu kể từ khi thực hiện Luật Thanh tra năm 2 1 đến
nay, trong đó tập trung vào hoạt động thanh tra chuyên ngành của một số bộ, ngành;
từ đó đề xuất các giải pháp, kiến nghị nhằm hoàn thiện mô hình cơ quan thanh tra
Nhà nước và cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành, góp

phần nâng cao hiệu quả hoạt động thanh tra chuyên ngành.
- Bùi Thị Hồng Nương (2019), “Quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm ở
Việt Nam hiện nay”. Luận án Tiến sĩ Luật học, Học viện Khoa học xã hội Viện Hàn
Lâm Khoa Học Xã Hội Việt Nam. Luận án nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng và
kinh nghiệm quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm của một số nước và bài học rút
ra cho Việt Nam; Phân tích, đánh giá và làm rõ thực trạng QLNN về ATTP Việt
Nam trong bối cảnh hiện nay; đề xuất một số giải pháp nhằm góp phần nâng cao
hiệu quả QLNN về ATTP Việt Nam trong thời gian tới.
- Trần Thu Hương (2010), “Một số giải pháp tăng cường quản lý nhà nước đối
với vệ sinh an toàn thực phẩm”. Luận văn Thạc sĩ Luật, Học viện Hành chính Quốc
Gia đã làm rõ cơ sở khoa học, cơ sở pháp lý cho việc xác định ATTP đóng vai trò
quan trọng của công tác QLNN; Xác định nguyên nhân của những yếu kém trong
công tác quản lý và đề ra giải pháp.
- Vũ Hải Uyên (2018), “Tổ chức và hoạt động của thanh tra nội bộ từ thực tiễn
Đại học Quốc gia Hà Nội”. Luận văn Thạc sĩ Luật, Học viện Khoa Học Xã Hội.
Luận văn đánh giá một cách trung thực tình hình thực tiễn của công tác thanh tra
nội bộ từ những đơn vị sự nghiệp công lập cụ thể, từ đó, chỉ ra những khó khăn,
vướng mắc, đề xuất các giải pháp về tổ chức và hoạt động thanh tra nội bộ trong
thời gian tới.

3


- Nguyễn Tiến Dũng (2018), “Quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm trong
lĩnh vực y tế từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh”. Luận văn Thạc sĩ Luật học,
Viện Hàn Lâm Khoa Học Xã Hội Việt Nam, đánh giá thực trạng công tác quản lý
ATTP, nêu lên những bất cập, chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ của cơ quan
QLNN về ATTP, từ đó đề xuất các giải pháp cụ thể.
- Đinh Thị Quế (2018), “Pháp luật về xử lý vi phạm trong lĩnh vực an toàn
thực phẩm”. Luận văn Thạc sĩ Luật học, Trường Đại Học Luật Huế. Đề tài nhằm

đánh giá hệ thống pháp luật hiện hành về xử lý vi phạm trong lĩnh vực ATTP, từ đó
đề xuất giải pháp để hoàn thiện.
Có thể thấy vấn đề về ATTP nhận được sự quan tâm của nhiều nhà khoa học
nhằm mục đích cải thiện công tác QLNN về ATTP, bảo đảm người dân được tiếp
cận thực phẩm an toàn tốt cho sức khỏe. Ban Quản lý ATTP TP HCM với vị thế là
cơ quan chuyên ngành về ATTP của thành phố và phòng Thanh tra với vai trò đảm
nhiệm trọng trách kiểm soát, quản lý nguy cơ ATTP thì việc nghiên cứu tổ chức và
hoạt động của bộ máy thanh tra sẽ giúp hoàn thiện hơn nữa công tác QLNN về
ATTP. Qua đó, hy vọng có thể bổ sung, hoàn thiện hơn những kết luận nghiên cứu
trước đây nhằm góp thêm những luận cứ khoa học, cũng như cơ sở thực tiễn giúp
hoàn thiện hơn nữa việc tổ chức và hoạt động của thanh tra chuyên ngành ATTP
thành phố Hồ Chí Minh cũng như các địa phương trên cả nước trong thời gian tới.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
- Mục đích luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về tổ chức
và hoạt động của thanh tra ATTP Ban Quản lý ATTP TP HCM; qua đó đề xuất hệ
thống giải pháp khả thi trong tổ chức và hoạt động của thanh tra ATTP Ban Quản lý
ATTP TP HCM trong giai đoạn hiện nay.
Với việc xác định mục đích như vậy, Luận văn có nhiệm vụ như sau:
Một là, phân tích, hệ thống hóa cơ sở lý luận và pháp lý về tổ chức và hoạt
động của thanh tra ATTP Ban Quản lý ATTP TP HCM.

4


Hai là, phân tích, đánh giá thực trạng tổ chức và hoạt động của thanh tra
ATTP, qua đó chỉ ra những kết quả đạt được, hạn chế của hoạt động này cũng như
xác định nguyên nhân của chúng.
Ba là, đề xuất phương hướng, giải pháp hoàn thiện tổ chức và hoạt động của
thanh tra ATTP Ban Quản lý ATTP TP HCM.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn

- Đối tượng nghiên cứu của luận văn: Là các vấn đề lý luận, thực tiễn trong tổ
chức và hoạt động của thanh tra ATTP Ban Quản lý ATTP TP HCM.
- Phạm vi nghiên cứu của luận văn:
Hoạt động của các cơ quan thanh tra nhà nước được thực hiện với 4 chức năng
cơ bản là giúp cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện QLNN về công tác thanh
tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng; tiến hành thanh tra,
giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng theo quy định của pháp
luật. Dưới góc độ Luật hành chính và Luật Hiến pháp, luận văn chỉ tập trung nghiên
cứu về tổ chức và hoạt động của thanh tra ATTP Ban Quản lý ATTP TP HCM
trong thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành theo quy định của Luật Thanh tra
kể từ khi thành lập.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
- Phương pháp luận: Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận chủ
nghĩa duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mac-Lênin, chủ trương, đường
lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước trong lĩnh vực thanh tra ATTP.
- Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu
như: phương pháp phân tích và tổng hợp; phương pháp thống kê, phương pháp luật
học so sánh…
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Ý nghĩa lý luận: luận văn góp phần hệ thống hóa và làm rõ hơn cơ sở lý luận
về tổ chức và hoạt động của thanh tra ATTP. Đồng thời phân tích, đánh giá thực
trạng về tổ chức và hoạt động của thanh tra ATTP Ban Quản lý ATTP TP HCM.

5


- Ý nghĩa thực tiễn: luận văn đã để xuất được hệ thống giải pháp góp phần
hoàn thiện về tổ chức và hoạt động của thanh tra ATTP Ban Quản lý ATTP TP
HCM. Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể làm tài liệu nghiên cứu cho Ban
Quản lý ATTP TP HCM trong quá trình tiếp tục hoàn thiện về tổ chức và hoạt động

của bộ máy thanh tra giai đoạn tiếp theo.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn có kết
cấu gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và pháp lý về tổ chức và hoạt động của Thanh tra an
toàn thực phẩm Ban Quản lý An toàn thực phẩm thành phố Hồ Chí Minh.
Chương 2: Thực trạng tổ chức và hoạt động của Thanh tra an toàn thực phẩm
Ban Quản lý An toàn thực phẩm thành phố Hồ Chí Minh.
Chương 3: Phương hướng, giải pháp hoàn thiện tổ chức và hoạt động của
Thanh tra an toàn thực phẩm Ban Quản lý An toàn thực phẩm thành phố Hồ Chí
Minh.

6


Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ TỔ CHỨC
VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA THANH TRA AN TOÀN THỰC PHẨM
BAN QUẢN LÝ AN TOÀN THỰC PHẨM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
1.1. QUAN NIỆM VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA THANH TRA
AN TOÀN THỰC PHẨM
1.1.1. Thanh tra an toàn thực phẩm
1.1.1.1. Các khái niệm liên quan đến thanh tra an toàn thực phẩm
* Khái niệm thanh tra
Hoạt động thanh tra (inspect) xuất phát từ gốc La tinh (inspectorate) có nghĩa
là “nhìn vào bên trong”, chỉ một sự kiểm tra, xem xét từ bên ngoài đối với hoạt
động của một số đối tượng nhất định. Theo Từ điển Tiếng Việt: “Thanh tra là kiểm
soát, xem xét tại chỗ việc làm của địa phương, cơ quan, xí nghiệp”. Với nghĩa này,
thanh tra bao hàm nghĩa kiểm soát nhằm: “xem xét và phát hiện ngăn chặn những gì
trái với quy định”. Thanh tra thường đi kèm với một chủ thể nhất định: Người làm

nhiệm vụ thanh tra, đoàn thanh tra và đặt trong phạm vi quyền hành của một chủ thể
nhất định.
Quan niệm về thanh tra hiện nay cũng như trong lịch sử nước ta được thể hiện
qua mô hình các cơ quan nhà nước, các quy định của Hiến pháp, pháp luật và được
đề cập ở các góc độ khác nhau. Thời kỳ phong kiến, khái niệm thanh tra chưa được
áp dụng, nhưng các triều đại Lý, Trần, Lê có cơ quan gọi là Ngự sử đài, có chức
năng giống như cơ quan Thanh tra Chính phủ hiện nay và Quan ngự sử đứng đầu
Ngự sử đài tương đương như Tổng Thanh tra Chính phủ. Ngự sử đài có nhiệm vụ
giúp vua trong việc theo dõi, xem xét các công việc hệ trọng của triều đình. Quan
ngự sử đời nhà Trần có quyền tiền trảm hậu tấu và là chức quan duy nhất có quyền
can gián Vua. Thời Lê có hàm Gián nghị đại phu phong tặng cho bất cứ bề tôi nào
dám nói thẳng, nói đúng sự thật. Gián nghị đại phu có quyền can gián nhà Vua
trong những việc nên làm và những việc không nên làm [19].

7


Từ khi nhà nước mới được thành lập, hoạt động thanh tra ngày càng được coi
trọng, khái niệm thanh tra được quy định trong các văn bản pháp lý khác nhau. Hiến
pháp năm 1946, Hiến pháp đầu tiên của Nhà nước ta chưa sử dụng thuật ngữ “thanh
tra”, hoạt động thanh tra, kiểm tra chưa được giao cho một cơ quan chuyên trách
nào, mà quyền “kiểm soát” đối với Chính phủ được giao cho

an thường vụ của

Nghị viện. Ngày 23/11/1945, chỉ sau gần ba tháng từ khi Chính phủ Việt Nam Dân
Chủ Cộng Hoà ra đời, Hồ Chủ tịch đã ký Sắc lệnh số 64-SL thành lập Ban Thanh
tra đặc biệt. Từ đây thuật ngữ “thanh tra” xuất hiện, quyền thanh tra được xác định
và chính thức giao cho Chính phủ. Hiến pháp năm 1959 cũng đề cập đến một số nội
dung về kiểm tra việc thi hành các quyết định QLNN. Hiến pháp năm 198 đã sử

dụng thuật ngữ “thanh tra” với nội dung là một chức năng của cơ quan QLNN. Đến
Hiến pháp năm 1992, khái niệm thanh tra, kiểm tra được thể hiện rõ hơn qua các
Điều 112, 115, 116 và 124. Khoản 7 Điều 112 quy định Chính phủ có nhiệm vụ “tổ
chức và lãnh đạo công tác kiểm kê, thống kê của Nhà nước, công tác thanh tra, kiểm
tra nhà nước, chống quan liêu, tham nhũng trong bộ máy nhà nước; công tác giải
quyết khiếu nại, tố cáo của công dân”.
Hiến pháp được sửa đổi năm 2 13 tiếp tục quy định về nhiệm vụ thanh tra của
các cơ quan QLNN. Cụ thể, Khoản 5, Điều 96, Hiến pháp quy định, Chính phủ có
nhiệm vụ, quyền hạn “tổ chức công tác thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố
cáo, phòng chống quan liêu, tham nhũng trong bộ máy nhà nước”. Pháp lệnh thanh
tra năm 199 , hoạt động thanh tra của các tổ chức Thanh tra được xác định là một
chức năng thiết yếu của cơ quan QLNN.
Đến Luật Thanh tra năm 2

4 tiếp tục quy định sự cần thiết của hoạt động

thanh tra và phạm vi thanh tra. Theo đó, cơ quan thanh tra nhà nước tiến hành thanh
tra việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan, tổ chức,
cá nhân thuộc thẩm quyền quản lý của cơ quan QLNN cùng cấp (Điều 2). Đặc biệt,
Luật Thanh tra năm 2 1 đã quy định cụ thể và toàn diện về chức năng của cơ quan
thanh tra nhà nước. Thanh tra nhà nước là hoạt động xem xét, đánh giá, xử lý theo
trình tự, thủ tục do pháp luật quy định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với

8


việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan, tổ chức, cá
nhân. Thanh tra nhà nước bao gồm thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành
(Điều 3). Điều 5 của Luật này quy định: “Cơ quan thanh tra nhà nước trong phạm
vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình thực hiện và giúp cơ quan nhà nước có thẩm

quyền thực hiện quản lý nhà nước về công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo
và phòng chống tham nhũng; tiến hành thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và
phòng chống tham nhũng theo quy định của pháp luật”. Luật Thanh tra năm 2 1
cũng khẳng định hoạt động thanh tra nhằm phát hiện sơ hở trong cơ chế quản lý,
chính sách, pháp luật, phòng ngừa, xử lý hành vi vi phạm; giúp cơ quan, tổ chức
thực hiện đúng quy định pháp luật; góp phần nâng cao hiệu quả QLNN.
Từ những phân tích nêu trên, có thể đưa ra khái niệm hoạt động thanh tra như
sau: “Thanh tra là việc xem xét, đánh giá, xử lý của cơ quan quản lý hành chính
nhà nước có thẩm quyền theo trình tự, thủ tục pháp luật quy định đối với việc làm
của cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân thuộc phạm vi quản lý nhằm kết luận đúng,
sai, chỉ ra ưu điểm, khuyết điểm, trên cơ sở đó phát huy nhân tố tích cực, phòng
ngừa, xử lý các vi phạm, góp phần hoàn thiện cơ chế quản lý, tăng cường pháp chế
xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, các quyền, lợi ích hợp pháp của cơ
quan, tổ chức và cá nhân”.
* Khái niệm thanh tra chuyên ngành an toàn thực phẩm
Mục đích của QLNN, xét cho cùng là bảo đảm cho hoạt động của đối tượng
quản lý tuân thủ theo các quy định của pháp luật, bảo đảm quyền và lợi ích hợp
pháp cho các cơ quan, tổ chức, cá nhân, tạo điều kiện phát huy mọi năng lực sản
xuất của xã hội [14, tr. 18]. Để đạt được mục tiêu đó, một mặt Nhà nước phải tăng
cường các biện pháp nhằm không ngừng nâng cao hiệu quả, hiệu lực quản lý. Mặt
khác, bản thân các cơ quan nhà nước cũng phải thường xuyên hoàn thiện, kịp thời
phát hiện và xử lý, khắc phục những hạn chế, yếu kém phát sinh trong quá trình
thực thi quyền lực nhà nước và ngăn chặn, xử lý các những hành vi vi phạm pháp
luật xâm phạm đến trật tự quản lý.

9


Tương ứng với hai nhiệm vụ này là hai loại hình của hoạt động thanh tra gồm
thanh tra hành chính (hướng vào xem xét, đánh giá việc thực hiện nhiệm vụ của các

cơ quan, tổ chức, đơn vị, người có thẩm quyền nằm trong hệ thống bộ máy quản lý)
và thanh tra chuyên ngành (hướng ra ngoài xã hội, nhằm xem xét, đánh giá, xử lý vi
phạm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân là những đối tượng quản lý trong việc tuân
thủ các quy định của pháp luật, tiêu chuẩn kỹ thuật, chuyên môn về quản lý theo
chuyên ngành).
Luật Thanh tra năm 2 1 ra đời thay thế cho Luật Thanh tra năm 2 4 đã làm rõ
và phân biệt hai khái niệm thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành, theo đó:
Thanh tra hành chính là hoạt động thanh tra của cơ quan QLNN theo cấp hành
chính đối với việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ của cơ quan, tổ chức,
cá nhân thuộc quyền quản lý trực tiếp.
Thanh tra chuyên ngành là hoạt động thanh tra của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền theo ngành, lĩnh vực đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc chấp hành
pháp luật chuyên ngành, quy định về chuyên môn - kỹ thuật, quy tắc quản lý thuộc
ngành, lĩnh vực đó.
Thực tiễn cho thấy, sự xuất hiện của thanh tra chuyên ngành như là một tất yếu
của quản lý, ngay từ đầu, đó là nhu cầu phải kịp thời phát hiện và xử lý các hành vi vi
phạm pháp luật trên các lĩnh vực QLNN. Mặc dù với tên gọi là “thanh tra” và được
coi là một trong các loại hình thanh tra nhưng bản chất và các nguyên tắc hoạt động
thanh tra chuyên ngành có sự khác biệt rất lớn so với thanh tra hành chính. Với quan
niệm và thực tiễn hoạt động như hiện nay thì hoạt động thanh tra hành chính cần
được hiểu là một loại hình hoạt động giám sát hành chính, còn thanh tra chuyên
ngành thực chất là một loại hoạt động kiểm tra hành chính. Trong trường hợp phát
hiện các chủ thể có sai phạm thì áp dụng chế tài xử lý trực tiếp và kịp thời.
Với quan niệm như trên, mục đích của hoạt động thanh tra chuyên ngành có
những điểm đặc thù cần nhấn mạnh hơn so với quy định về mục đích hoạt động
thanh tra được quy định trong Luật Thanh tra năm 2 1 . Cụ thể là nếu như mục
đích hoạt động thanh tra nói chung nhấn mạnh đến vai trò là phát hiện sơ hở trong

10



cơ chế quản lý, chính sách, pháp luật thì mục đích của hoạt động thanh tra chuyên
ngành tập trung vào phát hiện và xử lý kịp thời các hành vi vi phạm pháp luật trong
các lĩnh vực QLNN.
Theo Luật An toàn thực phẩm năm 2 1 , thanh tra về ATTP là thanh tra
chuyên ngành do ngành Y tế, ngành Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, ngành
Công Thương thực hiện theo quy định của pháp luật về thanh tra. Mục đích của
thanh tra ATTP là nhằm phát hiện và xử lý kịp thời các hành vi vi phạm pháp luật
về ATTP. Do đó, thanh tra ATTP được xem là trụ cột thứ hai của hệ thống ATTP
của châu Âu (sau trụ cột phân tích nguy cơ) và được xem là công cụ kiểm soát nguy
cơ hiệu quả [37, tr. 145].
Qua hoạt động thanh tra chuyên ngành ATTP, Ban Quản lý ATTP TP HCM
tiến hành kiểm soát và quản lý hoạt động của các chủ thể tham gia vào lĩnh vực thực
phẩm. Theo đó, dựa trên các quy định pháp lý đội ngũ thanh tra sẽ tiến hành kiểm
tra xem các cơ sở sản xuất và kinh doanh có tuân thủ quy định của pháp luật chuyên
ngành hay không. Quá trình thanh tra kết thúc bằng việc lập một biên bản, trên đó
ghi có hay không có sai phạm. Trong trường hợp vi phạm thì có thể áp dụng các chế
tài xử phạt.
Do đó, có thể định nghĩa: Thanh tra chuyên ngành ATTP là hoạt động xem
xét, đánh giá việc chấp hành pháp luật ATTP và xử lý các hành vi vi phạm pháp
luật của chủ thể quản lý đối với đối tượng thuộc phạm vi quản lý nhằm kịp thời phát
hiện, chấn chỉnh những bất cập, yếu kém trong công tác QLNN về ATTP; phát hiện,
ngăn chặn, xử lý các trường hợp vi phạm về ATTP, đồng thời đề xuất các giải pháp
nâng cao hiệu quả công tác bảo đảm ATTP.
* Khái niệm kiểm tra an toàn thực phẩm
Theo Từ điển Tiếng Việt: “kiểm tra là xem xét tình hình thực tế để đánh giá, nhận
xét”. Thanh tra được xem là một biện pháp (phương pháp) của kiểm tra. Trên một bình
diện rộng hơn nữa, kiểm tra có thể là sự xem xét thực tế để đánh giá, nhận xét của bất
kỳ một cá nhân nào trong xã hội trong bất cứ một hoạt động nào [32, Tr. 23].


11


Về mặt quản lý chung, kiểm tra ATTP hướng tới việc kiểm tra việc tuân thủ
pháp luật ATTP và các văn bản liên quan của các cơ sở thuộc phạm vi QLNN trong
lĩnh vực ATTP; qua đó phát hiện sai phạm để kịp thời chấn chỉnh nhằm hướng đến
xây dựng mạng lưới thực phẩm an toàn.
Nhìn chung thanh tra, kiểm tra ATTP đều giống nhau về mục đích, thông qua
thanh tra, kiểm tra nhằm phòng ngừa, phát hiện và xử lý các hành vi vi phạm pháp
luật trong lĩnh vực ATTP; phát hiện những sơ hở trong cơ chế quản lý, chính sách
pháp luật để kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền các biện pháp khắc
phục; phát huy nhân tố tích cực; góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả QLNN về
ATTP; bảo vệ lợi ích nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá
nhân. Tuy nhiên, giữa thanh tra và kiểm tra ATTP cũng có những điểm khác biệt
nhất định, cụ thể:
- Về mục đích thực hiện: Mục đích của thanh tra bao giờ cũng rộng và sâu hơn
đối với các hoạt động kiểm tra. Đặc biệt, đối với các cuộc thanh tra để giải quyết
khiếu nại, tố cáo về ATTP thì sự khác biệt về mục đích, ý nghĩa giữa hoạt động
thanh tra, kiểm tra cần rõ hơn nhiều, bởi: thông thường khiếu nại, tố cáo phản ánh
sự bức xúc, bất bình của nhân dân trước những việc mà nhân dân cho là quyền và
lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm, cho nên mục đích của hoạt động thanh tra
không còn chỉ là xem xét, đánh giá một cách bình thường nữa.
- Về phương pháp tiến hành: Với mục đích rõ ràng, rộng hơn, khi tiến hành
thanh tra, Đoàn thanh tra cũng áp dụng những biện pháp nghiệp vụ sâu hơn, đi vào
thực chất đến tận cùng như: Xác minh, thu thập chứng cứ, đối thoại, chất vấn, giám
định… Đặc biệt, trong quá trình thanh tra, các Đoàn thanh tra có thể áp dụng những
biện pháp cần thiết để phục vụ thanh tra theo quy định của pháp luật về thanh tra để
tác động lên đối tượng bị quản lý.
- Về trình độ nghiệp vụ: Hoạt động thanh tra đòi hỏi các thanh tra viên, cán bộ
thanh tra ATTP phải có nghiệp vụ giỏi, am hiểu kinh tế-xã hội, có khả năng chuyên

sâu vào lĩnh vực của thanh tra hướng đến. Do nội dung hoạt động kiểm tra ít phức

12


tạp hơn thanh tra nên nói chung, trình độ nghiệp vụ kiểm tra không nhất thiết đòi
hỏi như nghiệp vụ thanh tra.
- Về thời gian tiến hành: Trong hoạt động thanh tra thường có nhiều vấn đề
phải xác minh, đối chiếu rất công phu, nhiều mối quan hệ cần được làm rõ, cho nên
phải sử dụng thời gian nhiều hơn so với kiểm tra.
Có thể nói giữa hoạt động thanh tra và kiểm tra ATTP có mối quan hệ chặt
chẽ, gần gũi và có nhiều điểm giao thoa với nhau, có mối quan hệ đan chéo. ởi vì
thanh tra và kiểm tra đều là những công cụ quan trọng, một chức năng chung của
QLNN, là hoạt động mang tính chất phản hồi của chu trình quản lý [31, tr. 12]. Qua
thanh tra, kiểm tra, các cơ quan QLNN có thể phân tích, đánh giá, theo dõi quá trình
thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ quản lý đề ra. Nếu hiểu theo nghĩa rộng thì thanh
tra là một loại hình đặc biệt của kiểm tra, ngược lại nếu hiểu theo nghĩa hẹp, thanh
tra lại bao hàm cả kiểm tra. Các hoạt động thao tác, nghiệp vụ trong một cuộc thanh
tra như việc xem xét sổ sách, tài liệu của đối tượng thanh tra; so sánh, đối chiếu,
đánh giá, xác minh… tài liệu, chứng cứ thu thập được trong quá trình thanh tra…
đó là kiểm tra. Chính vì vậy trong thực tiễn nhiều người thường hay nhầm lẫn, đồng
nhất thanh tra với kiểm tra.
Như vậy, từ hai khái niệm và những so sánh cụ thể có thể thấy giữa thanh tra
và kiểm tra tuy có sự khác biệt nhất định nhưng chỉ mang tính chất tương đối vì
giữa thanh tra và kiểm tra có nhiều điểm giao thoa nhau, có mối quan hệ đan chéo
nhau. Khi tiến hành một cuộc thanh tra, thường phải tiến hành nhiều thao tác nghiệp
vụ mà thực chất là kiểm tra. Ngược lại, đôi khi tiến hành kiểm tra để làm rõ vụ việc,
từ đó lựa chọn nội dung thanh tra. kiểm tra và thanh tra là hai khái niệm khác nhau
nhưng có mối quan hệ qua lại, gắn bó mật thiết. Bộ Y tế cũng cho rằng, để phân biệt
như thế nào là thanh tra chuyên ngành, thế nào là kiểm tra chuyên ngành cũng là

một vấn đề hết sức phức tạp.
Trong quá trình thực hiện chức năng quản lý chuyên ngành, Ban Quản lý
ATTP TP HCM tiến hành đồng thời hoạt động Thanh tra chuyên ngành ATTP và
hoạt động kiểm tra ATTP.

13


1.1.1.2. Đặc điểm của thanh tra an toàn thực phẩm
Thanh tra là chức năng thiết yếu của quản lý, từ thực tiễn tổ chức, hoạt động
cho thấy thanh tra ATTP là một bộ phận cấu thành của thanh tra ở Việt Nam. Do
đó, thanh tra ATTP cũng mang những những đặc điểm của thanh tra nói chung.
Thứ nhất, thanh tra gắn liền với QLNN.
Với tư cách là một chức năng, là một giai đoạn của chu trình QLNN, thanh tra
gắn liền với QLNN, quản lý đồng thời phải có thanh tra, quản lý và thanh tra là một
chứ không phải là hai. Thanh tra là một phạm trù lịch sử, thanh tra gắn liền với quá
trình lao động xã hội. Chính bản chất của quá trình lao động xã hội đã đòi hỏi tính
tất yếu phải có quản lý, việc xem xét, định hướng, đánh giá kết quả quản lý là một
phương diện của quản lý xã hội. QLNN là một bộ phận quản lý xã hội và ở đâu có
QLNN thì ở đó có thanh tra.
Trong mối quan hệ giữa quản lý và thanh tra thì QLNN giữ vai trò chủ đạo,
chi phối hoạt động của thanh tra (đề ra đường lối, chủ trương, quy định thẩm quyền
của các cơ quan Thanh tra, sử dụng các kết quả, các thông tin từ phía các cơ quan
Thanh tra). QLNN và thanh tra có cái chung là nhân danh quyền lực nhà nước thực
hiện sự tác động lên các đối tượng bị quản lý. Song xem xét theo cơ cấu, chức năng
của quản lý thì thanh tra chỉ là những công cụ, phương tiện để QLNN.
Là một khâu trong chu trình quản lý, thanh tra bị ràng buộc, chế ước bởi quản
lý, nhưng đồng thời tác động trở lại, góp phần điều chỉnh cách thức, phương pháp
quản lý của chủ thể QLNN. Trong chu trình đó, thanh tra phản ánh và bảo vệ mục
đích của quản lý. Một thể chế hành chính và cơ chế QLNN sẽ không đầy đủ nếu

thiếu thanh tra.
Thứ hai, thanh tra ATTP luôn mang tính quyền lực nhà nước.
Tính quyền lực nhà nước của hoạt động thanh tra có mối liên hệ chặt chẽ với
tính quyền uy - phục tùng của QLNN. Là một chức năng của QLNN, thanh tra phải
thể hiện như một tác động tích cực nhằm thực hiện quyền lực của chủ thể quản lý
đối với đối tượng quản lý. Không thể không có quyền lực mà không gắn với một tổ

14


chức. Vì vậy, thanh tra phải được Nhà nước sử dụng như một công cụ có hiệu quả
trong quá trình quản lý, khi thanh tra thiếu quyền lực thì đó chỉ là thanh tra suông.
Có thể nói, thanh tra là một hoạt động luôn luôn mang tính quyền lực nhà
nước. Chủ thể tiến hành thanh tra luôn luôn là cơ quan nhà nước. Các cơ quan thực
hiện chức năng thanh tra luôn luôn áp dụng quyền năng của Nhà nước trong quá
trình tiến hành hoạt động của mình và nó nhân danh Nhà nước khi áp dụng quyền
năng đó. Nói cách khác, thanh tra là sản phẩm của Nhà nước. Thanh tra chỉ xuất
hiện từ khi Nhà nước ra đời trong lịch sử và nó cũng sẽ tiêu vong cùng với sự tiêu
vong của Nhà nước.
Như vậy, chủ thể duy nhất tiến hành thanh tra là Nhà nước, thanh tra xuất
hiện, tồn tại và tiêu vong cùng với Nhà nước. Điều 1 Luật Thanh tra năm 2 1 quy
định: “Thanh tra là một chức năng thiết yếu của cơ quan quản lý nhà nước; là
phương thức bảo đảm pháp chế, tăng cường kỷ luật trong quản lý nhà nước, thực
hiện quyền dân chủ xã hội chủ nghĩa”.
Tính quyền lực nhà nước của hoạt động thanh tra thể hiện ở chỗ, các cơ quan
Thanh tra nhà nước đều có quyền hạn được xác định và khả năng thực hiện những
quyền hạn đó như ra các quyết định bắt buộc thi hành đối với các đối tượng bị thanh
tra trong việc sửa chữa những thiếu sót đã bị Thanh tra phát hiện; yêu cầu truy cứu
trách nhiệm đối với những người có lỗi gây ra những vi phạm được phát hiện, kể cả
việc chuyển hồ sơ sang cơ quan điều tra để truy tố trước pháp luật…

Thứ ba, thanh tra có tính độc lập tương đối.
Đây là đặc điểm vốn có, xuất phát từ bản chất của thanh tra. Tính độc lập
tương đối trong quá trình thanh tra được thể hiện trên các điểm sau: (i) thực hiện
theo pháp luật; (ii) tự mình tổ chức các cuộc thanh tra trong các lĩnh vực theo thẩm
quyền đã được pháp luật quy định; (iii) ra các kết luận, kiến nghị, quyết định xử lý
theo các quy định của pháp luật về thanh tra; chịu trách nhiệm về quyết định thanh
tra của mình.
Ở đây, tính độc lập của hoạt động thanh tra chỉ là tương đối, bởi vì trong hoạt
động thanh tra, các cơ quan Thanh tra phải căn cứ vào pháp luật và chính sách hiện

15


hành, đồng thời phải xuất phát từ thực tế cuộc sống, đặt sự vật, hiện tượng, việc làm
đang xem xét trong sự phát triển của nền kinh tế thị trường.
1.1.2. Tổ chức của thanh tra an toàn thực phẩm
1.1.2.1. Khái niệm về tổ chức của thanh tra an toàn thực phẩm
Đề cập đến tổ chức của thanh tra ATTP thì cần tiếp cận từ góc độ chung nhất
về tổ chức, trước hết cần phải xác định rõ tổ chức thanh tra là gì? bao gồm những
nội dung nào để từ đó xác định vị trí, vai trò của tổ chức thanh tra ATTP trong tổng
thể tổ chức của bộ máy nhà nước.
“Tổ chức” là một thuật ngữ được sử dụng khá phổ biến. Nguyên nghĩa của “tổ
chức” là “organon”, theo tiếng Hy Lạp là để chỉ một cơ quan nào đó của cơ thể
người, có chức năng nhất định, là kết cấu tự nhiên trong chỉnh thể người. Tổ chức
được ghép vào lĩnh vực xã hội, coi tổ chức là một tổ hợp xã hội, một tập thể gồm
những con người hợp lại với nhau để thực hiện một mục tiêu nào đó.
Thuật ngữ “tổ chức” được nhiều ngành khoa học sử dụng với những ý nghĩa
khác nhau, tùy thuộc vào mục tiêu mà mỗi ngành khoa học đặt ra. Nhưng tựu chung
lại dưới góc độ khoa học tổ chức và quản lý, thì quan niệm tổ chức được hiểu là
cách thức tổ chức của một tập hợp các cơ quan, đơn vị cấu thành. Nó không chỉ bao

gồm các thành tố cấu thành, quy mô của một tổ chức mà còn chỉ ra cách thức tập
hợp các thành tố đó, mối liên hệ hữu cơ chỉ đạo, chi phối và phụ thuộc giữa các
thành tố với nhau, những chức năng, nhiệm vụ của tổ chức đó. Với cách tiếp cận
như vậy, cho thấy nội hàm quan niệm về tổ chức bao gồm các thành tố như sau:
- Cơ cấu tổ chức được xác định, con người bên trong tổ chức đó;
- Có phạm vi, chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền;
- Được hình thành và hoạt động theo những nguyên tắc nhất định phù hợp với
quy định pháp luật.
Tổ chức thanh tra ATTP bao gồm các thành tố cấu thành hệ thống thanh tra
ATTP, bao gồm phòng ban, bộ phận trong nội bộ đơn vị thanh tra và các công chức,
thanh tra viên được giao thực hiện chức năng thanh tra ATTP. Thanh tra ATTP
được giao các nhiệm vụ giúp cơ quan QLNN tiến hành các hoạt động thanh tra,

16


kiểm tra trong lĩnh vực ATTP, hoạt động theo nguyên tắc trực thuộc về tổ chức
trong mối quan hệ với cơ quan QLNN cấp trên và quan hệ phối hợp với cơ quan
được giao nhiệm vụ thanh tra ATTP khác trên địa bàn thành phố.
Như vậy, tổ chức thanh tra ATTP chính là việc thiết lập và duy trì các bộ
phận, chức năng, nhiệm vụ của phòng thanh tra và liên kết các bộ phận, chức năng,
nhiệm vụ với nhau để thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Thanh tra ATTP Ban
Quản lý ATTP TP HCM.
1.1.2.2. Các thành tố cấu thành tổ chức thanh tra an toàn thực phẩm
a) Cơ cấu tổ chức thanh tra an toàn thực phẩm
Với quan điểm thanh tra gắn liền với quản lý, nhưng cũng đồng thời xác định
vị trí, vai trò và tính độc lập tương đối của thanh tra với hoạt động quản lý. Do quan
niệm về tổ chức thanh tra khác nhau và đặc điểm, yêu cầu công tác quản lý về
ATTP của từng thời kỳ cũng khác nhau nên hệ thống tổ chức thanh tra ATTP cũng
được tổ chức khác nhau và luôn được Nhà nước quan tâm, củng cố, kiện toàn thành

một hệ thống thống nhất.
Ban Quản lý ATTP TP HCM là cơ quan thuộc UBND TP HCM, có chức năng
giúp UBND thành phố tổ chức thực thi pháp luật về an toàn, vệ sinh thực phẩm trên
địa bàn thành phố. Phòng Thanh tra là một trong những đơn vị cấu thành Ban Quản
lý ATTP TP HCM gồm: Thanh tra trung tâm và 1 Đội Quản lý ATTP liên quận huyện được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành ATTP.
Bên cạnh đó, yếu tố con người cũng là một nội dung cấu thành nên nội dung
tổ chức thanh tra ATTP, bao gồm việc xây dựng đội ngũ cán bộ thanh tra ATTP, từ
việc xây dựng các vị trí, tiêu chuẩn các chức danh nghề nghiệp của công chức được
giao thực hiện nhiệm vụ thanh tra ATTP, việc tuyển dụng, quản lý, bổ nhiệm, điều
động, luân chuyển, sử dụng…
b) Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn thanh tra an toàn thực phẩm
Theo khoa học về tổ chức thì chức năng là nhiệm vụ cơ bản của một tổ chức mà
nếu không có những chức năng này thì không cần có sự ra đời của tổ chức đó. Như
vậy, chức năng của một tổ chức được hiểu là những phương diện hoạt động chủ yếu

17


×