Tải bản đầy đủ (.docx) (33 trang)

VỐN VÀ HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN CỦA DOANH NGHIỆP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (205.12 KB, 33 trang )

VỐN VÀ HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN CỦA DOANH NGHIỆP
1.1. Vốn trong hoạt động của doanh nghiệp
1.1.1. Vốn của doanh nghiệp
1.1.1.1. Khái niệm và phân loại
A. Khái niệm:
Vốn luôn đóng một vai trò quan trọng trong sự tồn tại và phát triển của một
doanh nghiệp. Để định nghĩa “vốn là gì?” các nhà kinh tế đã tốn rất nhiều công sức
và mỗi người đều có những định nghĩa riêng, theo quan điểm riêng của mình.
Theo quan điểm của Marx, dưới giác độ các yếu tố sản xuất, vốn đã được
khái quát hóa thành phạm trù tư bản trong đó nó đem lại giá trị thặng dư và là
“một đầu vào của quá trình sản xuất”. Định nghĩa về vốn của Marx có một tầm
khái quát lớn vì nó bao hàm đầy đủ cả bản chất và vai trò của vốn. Bản chất của
vốn chính là giá trị cho dù nó có thể được biểu hiện dưới nhiều hình thức khác
nhau: nhà cửa, tiền của…Vốn là giá trị đem lại giá trị thặng dư vì nó tạo ra sự
sinh sôi về giá trị thông qua các hoạt động sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, do
hạn chế về trình độ kinh tế lúc bấy giờ, Marx đã chỉ bó hẹp khái niệm về vốn
trong khu vực sản xuất vật chất và cho rằng chỉ có kinh doanh sản xuất vật chất
mới tạo ra giá trị thặng dư cho nền kinh tế.
Theo David Begg, tác giả cuốn “kinh tế học”, thì vốn bao gồm: vốn hiện
vật và vốn tài chính doanh nghiệp. Vốn hiện vật là dự trữ hàng hóa đã sản xuất
để sản xuất ra các hàng hóa khác, vốn tài chính là các tiền và các giấy tờ có giá
của doanh ngiệp. Trong định nghĩa của mình, tác giả đã đồng nhất vốn với tài
sản của doanh nghiệp. Tuy nhiên, thực chất vốn của doanh nghiệp là biểu hiện
bằng tiền của tất cả tài sản của doanh nghiệp dùng trong sản xuất kinh doanh.
Vốn của doanh nghiệp được phản ánh trong bảng cân đối tài sản của doanh
nghiệp. Bất cứ doanh nghiệp nào cũng cần phải có một lượng vốn nhất định để
thực hiện những khoản đầu tư cần thiết như chi phí thành lập doanh nghiệp,
mua sắm nguyên vật liệu, trả lãi vay, nộp thuế… đảm bảo cho hoạt động sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp được liên tục, chi phí mua công nghệ và máy
móc thiết bị mới… để tái sản xuất mở rộng. Do vậy vốn đưa vào sản xuất kinh
doanh có nhiều hình thái vật chất khác nhau để từ đó tạo ra sản phẩm hàng hóa,


dịch vụ tiêu thụ trên thị trường. Số tiền mà doanh nghiệp thu về sau quá trình
tiêu thụ phải bù đắp được chi phí đã bỏ ra và có lãi. Số tiền ban đầu đã được
tăng thêm nhờ hoạt động sản xuất kinh doanh. Quá trình này diễn ra liên tục bảo
đảm cho sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp.
Còn trong nền kinh tế thị trường, vốn được coi là một loại hàng hóa. Nó giống
các hàng hóa khác ở chỗ có chủ sở hữu đích thực, song nó có đặc điểm khác vì
người sở hữu vốn có thể bán quyền sử dụng vốn trong một thời gian nhất định. Giá
của quyền sử dụng vốn chính là lãi suất. Chính nhờ có sự tách rời quyền sở hữu và
quyền sử dụng nên vốn có thể lưu chuyển trong đầu tư kinh doanh và sinh lời.
Dưới góc độ của doanh nghiệp, vốn là một trong những điều kiện vật chất
cơ bản kết hợp với sức lao động và các yếu tố khác làm đầu vào cho quá trình
sản xuất kinh doanh. Sự tham gia của vốn không chỉ bó hẹp trong quá trình sản
xuất riêng biệt mà trong toàn bộ quá trình sản xuất và tái sản xuất liên tục, suốt
thời gian tồn tại của doanh nghiệp, từ khi bắt đầu quá trình sản xuất dầu tiên đến
chu kỳ sản xuất cuối cùng.
Tóm lại, do có rất nhiều quan niệm về vốn nên rất khó đưa ra được một
định nghĩa chính xác và hoàn chỉnh về vốn. Tuy nhiên có thể hiểu mọt cách khái
quát về vốn như sau:
Vốn của doanh nghiệp là toàn bộ những giá trị ứng ra ban đầu, tham gia liên
tục vào quá trình sản xuất kinh doanh với mục đích đem lại giá trị thặng dư.
B. Phân loại vốn:
Để có thể quản lý, sử dụng vốn có hiệu quả bước đầu tiên mà người
quản lí doanh nghiệp phải thực hiện là phân loại vốn. Đây là công việc được
các doanh nghiệp ở các nước có nền kinh tế phát triển rất quan tâm vì nó ảnh
hưởng rất nhiều tới chi phí vốn và cơ cấu huy động vốn. ở các nước đang
phát triển, các nguồn vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh chưa nhiều nên
việc phân loại vốn chưa được mọi người quan tâm.
- Căn cứ vào cơ cấu vốn trong sản xuất kinh doanh: phân thành hai loại là Vốn
sản xuất và vốn đầu tư.
- Vốn sản xuất: Là loại vốn sử dụng trong quá khứ và hiện tại phục vụ

cho quá trình sản xuất kinh doanh. Đó là số tiền, tài sản hữu hình, vô hình...
dùng trong việc hình thành công việc sản xuất, duy trì và phát triển hoạt động
của doanh nhgiệp. Hiệu quả của nó được đánh giá thông qua sự phát triển của
doanh nghiệp và uy tín của doanh nghiệp trên thị trường.
- Vốn đầu tư: Là loại vốn phục cho mục đích sản xuát kinh doanh trong
tương lai. Số lượng vốn đầu tư phụ thuộc vào kế hoạch, các dự án sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp. Vốn đầu tư sẽ quyết định sự tồn tại và phát triển của
doanh nghiệp trong tương lai do sự cạnh tranh ngày càng khóc liệt của các đối
thủ cạnh tranh và do tính phức tạp của nhu cầu ngày càng tăng. Việc huy động
đủ số lượng, kịp thời cho hoạt động sản xuất kinh doanh là một vấn đề mà mọi
doanh nghiệp luôn luôn quan tâm và dốc sức để hoàn thiện công việc đó.
- Căn cứ vào nguồn hình thành vốn
Căn cứ vào nguồn hình thành vốn thì toàn bộ vốn của doanh nghiệp được
chia thành nợ vay và vốn của chủ sở hữu. Đây là cách phân loại cơ bản và phổ
biến trong nền kinh tế thị trường. Hai loại vốn này có mối quan hệ đặc biệt với
nhau khi chúng ta xem xét cơ cấu vốn tối ưu của doanh nghiệp.
- Vốn của chủ sở hữu: Là loại vốn do các chủ sở hữu của doanh nghiệp
tài trợ và giữ lại phần lợi nhuận chưa phân phối. Đối với các loại vốn này doanh
nghiệp không phải hoàn trả những khoản tiền đã huy động được trừ khi doanh
nghiệp đóng cửa. Tuy nhiên các chủ sở hữu có thể giảm vốn bằng cách giảm
vốn ngân sách nhà nước hay mua lại cổ phiêú... Chi phí vốn chủ sở hữu là chi
phí cơ hội cho việc sử dụng vốn. Trong trường hơp huy động vốn cổ phần, chi
phí vốn là lợi tức yêu cầu của các cỏ đông. Do tính dài hạn và gần như không
hoàn trả, vốn chủ sở hữu có độ an toàn rất cao.
- Vốn vay: Những tài trợ cho doanh nghiệp loại vốn này không phải là
chủ sở hữu doanh nghiệp. Đặc trưng của loại vốn này là doanh nghiệp phải tiến
hành hoàn trả vốn vay trong một thời gian nhất định. Chi phí vốn là lãi phải trả
cho các khoản nợ vay. Mức lãi xuất hay chi phí phải trả cho nợ vay thường ổn
định và được thoả thuận trước khi vay. Huy động nợ vay rủi ro hơn huy động
vốn chủ sờ hữu song đôi khi các doanh nghiệp lại thích sử dụng nợ vay do một

đặc điểm hết sức quan trọng. Chi phí nợ vay được tính vào chi phí hợp lí hợp lệ
không phải chịu thuế thu nhập doanh nghiệp. Trong khi, lợi tức dành cho chủ sở
hữu được trả từ lợi nhuận sau thuế không được tính vào chi phí hợp lí hợp lệ
như nợ vay. Đăc điểm này hết sức quan trọng ảnh hưởng tới việc hình thành cơ
cấu vốn tối ưu với mục đích tối đa hoá giá trị vốn chủ sở hữu.
Nhìn chung đây là hai cách phân loại rất cơ bản và phổ biến trong nền kinh
tế thị trường. Nó giúp cho người sử dụng có thể thấy được thực trạng tài chính
của doanh nghiệp khi xem xét về măt kinh tế. Về mặt pháp lí, người sử dụng có
thể thấy được trách nhiệm của doanh nghiệp về tổng số vốn đã đăng kí kinh
doanh với nhà nước, về số tài sản đã hình thành từ vốn vay ngân hàng... Còn
nhiều cách phân loại vốn khác như thành vốn cố định và vốn lưu động, phân chia
theo khoản mục. Mỗi cách phân loại sẽ phục vụ những mục đích nhất định.
- Căn cứ vào vai trò và đặc điểm chu trình giá trị của vốn khi tham gia
vào quá trình kinh doanh có thể chia vốn sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp thành 2 bộ phận: vốn cố định và vốn lưu động.
+ Vốn cố định của doanh nghiệp.
Vốn cố định của doanh nghiệp là giá trị ứng trước về tài sản cố định (bao
gồm cả tài sản cố định vô hình và tài sản cố định hữu hình). Hay nói cách khác
vốn cố định của doanh nghiệp là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ tài sản cố
định của doanh nghiệp.
Đặc điểm của vốn cố định là tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất sản
phẩm giá trị được luân chuyển dần dần từng phần trong các chu kỳ sản xuất,
hoàn thành vòng luân chuyển khi tài sản cố định hết thời gian sử dụng. Vốn cố
định là một thành phần quan trọng của vốn kinh doanh. Để quản lý vốn cố định
cần phải hiểu những đặc điểm về hiện vật của vốn cố định và các tài sản cố
định của doanh nghiệp.
Tài sản cố định của doanh nghiệp là những tài sản có giá trị lớn, thời gian
sử dụng dài, có chức năng là tư liệu lao động. Trong khi tham gia vào quá trình
sản xuất tài sản cố định được cụ thể hoá như sau:
Về mặt hiện vật: Tài sản cố định tham gia hoàn toàn và nhiều lần vào quá

trình sản xuất nhưng giá trị thì giảm dần cho đến khi hư hỏng hoàn toàn phải
loại khỏi quá trình sản xuất.
Về mặt giá trị: TSCĐ được biểu hiện dưới hai hình thái:
- Một bộ phận tồn tại dưới hình thái ban đầu gắn với hiện vật là tài sản cố định.
- Một bộ phận giá trị chuyển vào sản phẩm mà tài sản cố định sản xuất
ra và bộ phận này sẽ chuyển hoá khi bán được sản phẩm.
Bộ phận thứ nhất ngày càng giảm, bộ phận thứ hai ngày càng tăng cho
đến khi bằng giá trị ban đầu của tài sản cố định thì kết thúc quá trình vận
động. Như vậy khi tham gia vào quá trình sản xuất nói chung tài sản cố định
không bị thay đổi hình thái hiện vật nhưng tính năng công suất thì bị giảm
dần, tức là bị hao mòn và cùng với sự giảm dần về giá trị sử dụng thì giá trị
của nó cũng giảm đi. Bộ phận giá trị hao mòn đó đã chuyển vào giá trị sản
phẩm sản xuất ra và được tính vào chi phí khấu hao. Quỹ khấu hao dùng để
tái sản xuất tài sản cố định khi chúng bị hư hỏng hoàn toàn phải loại ra khỏi
quá trình sản xuất đó nhằm duy trì năng lực sản xuất bình thường của doanh
nghiệp.
Chính đặc điểm vận động về hiện vật và giá trị tài sản cố định đã quyết
định đặc điểm lưu thông và chu chuyển của vốn cố định, đó là khi tham gia vào
quá trình sản xuất, vốn cố định đã bao gồm hai bộ phận.
- Một bộ phận tương ứng với giá trị hao mòn sẽ gia nhập vào giá thành sản
phẩm và được tích luỹ lại khi sản phẩm được tiêu thụ.
- Bộ phận thứ hai là phần giá trị còn lại của tài sản cố định chính từ đặc
điểm này của vốn cố định cũng như tài sản cố định mà khi đánh giá tài sản cố
định cần có các đại lượng như giá trị ban đầu (nguyên giá), giá trị còn lại của tài
sản cố định.
Để quản lý và sử dụng vốn cố định có hiệu quả cần nghiên cứu các
phương pháp phân loại và kết cấu tài sản cố định. Thông thường có các cách
phân loại sau:
- Phân loại tài sản cố định theo hình thức thái biểu hiện, theo phương
pháp này toàn bộ tài sản của doanh nghiệp được chia thành hai loại:

+ Tài sản cố định dùng trong sản xuất kinh doanh cơ bản: Là những tài sản cố
định vô hình và hữu hình trực tiếp tham gia vào quá trình sản xuất và kinh doanh cơ
bản cuả doanh nghiệp như, nhà xưởng, phương tiện vận tải, vật kiến trúc...
+ Tài sản cố định dùng ngoài sản xuất kinh doanh cơ bản: Là các tài sản
dùng cho sản xuất kinh doanh phụ trợ, nhà cửa máy móc thiết bị phục vụ sản
xuất phụ trợ và tài sản cố định cho thuê.
Phân loại tài sản cố định theo tình hình sử dụng: Theo phương pháp này, căn
cứ vào tình hình sử dụng của từng thời kỳ, tài sản cố định phân thành các loại:
+ Tài sản cố định đang dùng
+ Tài sản cố định chưa cần dùng
+ Tài sản cố định không cần dùng và chờ thanh toán
Tuỳ theo từng yêu cầu quản lý mà sử dụng từng phân cách phân loại tài
sản cố định cho phù hợp, từ đó có các biện pháp quản lý và bảo toàn vốn cố
định hiệu quả.
- Vốn lưu động của doanh nghiệp: là số vốn được ứng ra để hình thành các
tài sản lưu động sản xuất và tài sản lưu động lưu thông nhằm đảm bảo cho quá
trình sản xuất của doanh nghiệp được diễn ra liên tục thường xuyên. Vốn lưu
động luân chuyển toàn bộ giá trị ngay trong một lần tuần hoàn liên tục và hoàn
thành một vòng tuần hoàn sau một chu kỳ sản xuất. Vốn lưu động là điều kiện
vật chất không thể thiếu được của quá trình tái sản xuất kinh doanh.
Vốn lưu động của doanh nghiệp dựa theo vai trò của nó trong quá trình
tái sản xuất được chia làm ba loại:
- Vốn lưu động nằm trong quá trình dự trữ sản xuất, bao gồm, vốn
nguyên vật liệu chính vật liệu phụ, phụ tùng thay thế công cụ nhỏ...
- Vốn lưu động nằm trong quá trình trực tiếp sản xuất, bao gồm: vốn sản
phẩm đang chế tạo, vốn bán thành phẩm tự chế.
- Vốn lưu động nằm trong quá trình lưu thông, bao gồm: Vốn tiền tệ vốn
trong thanh toán...
Dựa vào hình thái biểu hiện và theo chức năng của các thành phần vốn
lưu động có thể chia thành:

- Vốn vật tư hàng hoá, vốn nguyên vật liệu chính, vật liệu phụ
- Vốn tiền tệ: Gồm vốn bằng tiền, vốn trong thanh toán.
- Căn cứ vào thời gian hoạt động và sử dụng vốn có thể chia nguồn vốn của
doanh nghiệp thành hai loại:
+ Nguồn vốn thường xuyên: là tổng thể các nguồn vốn có tính chất ổn định
và dài hạn mà doanh nghiệp có thể sử dụng. Nguồn vốn này được dành cho việc
hình thành các tài sản cố định và một bộ phận tài sản lưu động tối thiểu cần thiết
cho hoạt động kinh doanh. Nguồn vốn thường xuyên bao gồm chủ sở hữu và
các khoản vay dài hạn.
+ Nguồn vốn tạm thời: là các nguồn vốn có tính chất ngắn hạn (dưới 1
năm) doanh nghiệp có thể sử dụng nhằm đáp ứng các nhu cầu có tính chất tạm
thời, bất thường phát sinh trong sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nguồn
vốn này bao gồm các khoản vay ngắn hạn ngân hàng và các tổ chức tín dụng.
Các khoản nợ ngắn hạn.
Việc phân loại này giúp cho người quản lý xem xét huy động các nguồn
vốn phù hợp với thời gian sử dụng của các yếu tố trong quá trình kinh doanh.
- Căn cứ vào phạm vi hoạt động có thể chia làm hai nguồn:
+ Nguồn vốn bên trong doanh nghiệp: Là nguồn vốn có thể huy động từ
hoạt động của bản thân doanh nghiệp bao gồm tiền khấu hao tài sản cố định, lợi
nhuận để lại và các khoản dự trữ dự phòng, các khoản thu từ nhượng bán thanh
lý tài sản cố định.
+ Nguồn vốn bên ngoài: là nguồn vốn có thể huy động như vay vốn của
ngân hàng và các tổ chức kinh tế khác, phát hành trái phiếu nợ người cung cấp
và các khoản nợ khác. Cách phân loại này chủ yếu giúp cho sự xem xét huy
động nguồn vốn của doanh nghiệp đang hoạt động.
1.1.1.2. Vai trò của vốn trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp
Hoạt động kinh doanh trong nền kinh tế thị trường đòi hỏi phải có một
lượng vốn nhất định đủ lớn như là một tiền đề quyết định, không có vốn sẽ
không có bất cứ hoạt động sản xuất kinh doanh nào. Sẽ là không tưởng nếu nghĩ
rằng có thể tiến hành bất cứ hoạt động sản xuất kinh doanh nào mà không có

vốn hoặc không đủ vốn. Nói một cách khác vốn có vai trò đặc biệt quan trọng
để bắt đầu, duy trì và phát triển hoạt động của doanh nghiệp.
Vốn là điều kiện không thể thiếu được để thành lập doanh nghiệp. Để bắt đầu hoạt
động sản xuất kinh doanh, trước hết doanh nghiệp cần mua sắm máy móc, trang thiết
bị, xây dựng nhà xưởng hay thuê công sở, mướn nhân công... Vì vậy trong giai đoạn
này, doanh nghiệp cần tới một lượng vốn rất lớn và phải huy động vốn. Vốn là điều
kiện cần thiết để doanh nghiệp chủ động thực hiện các dự án mang lại lợi
nhuận. Không có vốn thì các dự án sản xuất kinh doanh, các cơ hội kinh doanh
mang nhiều lợi nhuận sẽ bị bỏ lỡ và sẽ chỉ là dự định, kế hoạch. Mỗi doanh
nghiệp cần có chiến lược duy trì và phát triển trên thị trường cạnh tranh ngày
càng gay gắt. Vốn vẫn là yếu tố quan trọng hàng đầu giúp doanh nghiệp có khả
năng đầu tư, đổi mới công nghệ, đầu tư cho quảng cáo..., nhằm tăng cường cạnh
tranh trước các đối thủ.
Trong cơ chế bao cấp, mọi nhu cầu về vốn sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp Nhà nước đều được bao cấp qua nguồn cấp phát của ngân sách Nhà
nước và qua nguồn tín dụng lãi suất thấp của ngân hàng. Có thể nói trong thời
bao cấp vốn của doanh nghiệp Nhà nước hầu như được bao cấp “cho không”.
Khi sử dụng đồng vốn doanh nghiệp chỉ lo sao cho làm được kế hoạch Nhà
nước giao còn thực tế lãi lỗ không cần quan tâm, nếu thiếu Nhà nước sẽ bù lỗ.
Chính vì vậy vấn đề khai thác thu hút vốn không được đặt ra như một yêu cầu
cấp bách, có tính sống còn đối với doanh nghiệp. Việc khai thác đảm bảo vốn
kinh doanh của doanh nghiệp trở lên hết sức thụ động. Điều này đã một mặt thủ
tiêu tính chủ động của một doanh nghiệp, mặt khác tạo ra sự cân đối giả tạo về
cung cầu vốn trong nền kinh tế. Đây là lý do chủ yếu để giải thích tại sao trong
thời kỳ bao cấp lại vắng mặt và không cần thiết có thị trường vốn.
Chuyển sang nền kinh tế thị trường, các khoản bao cấp về vốn qua cấp
phát của ngân sách Nhà nước không còn nữa, doanh nghiệp Nhà nước phải tự
trang trải mọi chi phí và đảm bảo kinh doanh có lãi, phải tổ chức và sử dụng
đồng vốn có hiệu quả. Mặt khác doanh nghiệp phải bảo toàn số vốn được giao
kể cả khi có trượt giá, phải chủ động tìm kiếm bạn hàng, đầu tư đổi mới trong

hoạt động kinh doanh. Nếu không làm cho vốn sinh sôi nảy nở, không bảo toàn
và phát triển vốn tất yếu sẽ ảnh hưởng đến sự tồn tại và phát triển của doanh
nghiệp, nguy cơ phá sản là khó tránh khỏi.
Với vai trò quan trọng to lớn như vậy nên việc bảo tồn và tăng trưởng vốn là một
nguyên lí, là điều kiện đảm bảo cho sự phát triển lành mạnh của doanh nghiệp.
Chính vì vậy mà một trong những vấn đề mà các doanh nghiệp luôn trăn trở là:
Doanh nghiệp nên tạo vốn bằng cách nào? Làm thế nào doanh nghiệp có thể huy
động vốn tối đa từ mọi nguồn với một chi phí thấp nhất và một cơ cấu tối ưu?.
1.2. Nguồn vốn và quản lý sử dụng vốn trong doanh nghiệp
1.2.1. Nguồn vốn của doanh nghiệp
1.2.2. Chi phí vốn và cơ cấu vốn của doanh nghiệp
1.2.2.1. Chi phí vốn.
Chi phí vốn là yếu tố đầu tiên có tác động quan trọng tới việc tạo lập
vốn của doanh nghiệp. Vốn là yếu tố cần thiết cho sản xuất. Cũng như bất
kỳ một yếu tố nào khác để sử dụng vốn, doanh nghiệp cần bỏ ra một chi
phí nhất định. Để tạo vốn, doanh nghiệp có thể huy động vốn từ các nguồn
khác nhau. Với mỗi một loại vốn cụ thể thì chi phí vốn chính là chi phí trả
cho nguồn vốn huy động. Nó được tính bằng số lợi nhuận cần phải đạt
được trên nguồn vốn huy động để giữ không làm thay đổi số lợi nhuận
dành cho chủ sở hữu. Với mỗi nguồn huy động khác nhau lại có cách tính
chi phí riêng. Vì vậy, trên thực tế, người ta phân loại chi phí vốn theo
những nguồn cụ thể. Thông thường, khi tính toán chi phí vốn, doanh
nghiệp thường phần chia vốn thành vốn chủ sở hữu và nợ vay.
- Chi phí nợ vay.
Chi phí nợ vay là chi phí trả cho nguồn vay nợ của doanh nghiệp. Nó
được phân ra thành chi phí nợ trước thuế và chi phí nợ sau thuế. Chi phí nợ
trước thuế (K
d
) được tính toán trên cơ sở lãi suất nợ vay. Lãi suất này được
ấn định trong hợp đồng tiền vay. Trên thực tế khoản chi phí nợ vay trước

thuế còn bao gồm cả các chi phí khác ngoài lãi tiền vay như chi phí làm hồ
sơ xin vay, chi phí đi lại... Những khoản chi phí này đôi khi là rất lớn. Tuy
nhiên về cơ bản, người ta vẫn hiểu chi phí nợ vay trước thuế là lãi tiền vay
trả cho chủ nợ. Chi phí nợ sau thuế K
d
(1-T) được sử dụng để tính chi phí
trung bình của vốn. Nó được xác định bằng chi phí nợ trước thuế K
d
trừ đi
khoản tiết kiệm nhờ thuế bởi vì lãi tiền vay được tính vào chi phí trước
thuế của doanh nghiệp. Sở dĩ, các doanh nghiệp thường tính chi phí nợ sau
thuế là để có thể so sánh chi phí các loại vốn khác nhau. Hơn nữa các
doanh nghiệp luôn quan tâm đến luồng tiền sau thuế vì đây mới là phần mà
doanh nghiệp được hưởng. Do vậy, tất cả các chi phí vốn cần được tính
quy về chi phí sau thuế.
- Chi phí vốn chủ sở hữu.
Chi phí vốn chủ sở hữu bao gồm chi phí cổ phiếu ưu tiên,chi phí cổ
phiếu thường và chi phí của lợi nhuận không chia. Chi phí của cổ phiếu ưu
tiên được xác định bằng cách lấy cổ tức ưu tiên chia cho giá phát hành
thuần, phần mà công ty nhận được sau khi đã trừ chi phí phát hành.

n
P
p
D
=
p
K
Trong đó: KP- Chi phí của cổ phiếu ưu tiên
DP- Cổ tức ưu tiên

Pn- Gía phát hành thuần
Chi phí của lợi nhuận không chia: Nó chính là tỷ lệ đổi tức mà người nắm
giữ cổ phiếu thông thường yêu cầu đối với cổ phần mà công ty đạt được
bằng lợi nhuận không chia được xác định bằng công thức K
s
= D
1
/P
0
+ g.
Trong đó: K
s
: Chi phí của lợi nhuận không chia.
D
1
/P
0
: Mức sinh lời của cổ phiếu.
g: Tỷ lệ tăng trưởng mong đợi.
Chi phí của cổ phiếu thường mới (K
e
). Để các cổ đông cũ không bị giảm
lợi nhuận do phát hành cổ phiếu mới vì giãn lợi nhuận các khoản đầu tư
mới của doanh nghiệp phải mang lại một tỷ suất lợi nhuận sao cho cổ tức
của các cổ đông cũ ít nhất không bị giảm.
Với: P
n
: là giá thuần của một cổ phiếu.
K
e

: là chi phí của cổ phiếu mới.
D
t
: là cổ tức trong thời gian t (t = 1, 2, 3...)
thì P
n
=


=
+
1t
t
e
t
)K1(
D
Do đó :
g +
F)-(1
0
P
1
D
=
e
K

Thông thường, các doanh nghiệp đặt tiêu chí chi phí vốn lên hàng
đầu, tận dụng triệt để các nguồn vốn có chi phí thấp sau đó mới xét đến

khả năng cung ứng các nguồn vốn, thời gian sử dụng... Vì vậy tính toán chi
phí vốn sẽ giúp cho doanh nghiệp thấy được cách thức huy động nào có chi
phí thấp hơn, từ đó xác định chiến lược khai thác nguồn vốn của doanh
nghiệp.
Ngoài ra các doanh nghiệp còn tính toán chi phí vốn trung bình dựa
trên cơ cấu vốn và chi phí từng nguồn vốn. Chẳng hạn một doanh nghiệp
tạo lập vốn từ ba nguồn: vay nợ, phát hành cổ phiếu thường từ lợi nhuận
không chia và phát hành cổ phiếu ưu tiên với tỷ trọng từng nguồn là W
d
,
W
s
và W
p
thì chi phí vốn trung bình của doanh nghiệp (WACC) được tính
theo công thức:
WACC = W
d
K
d
(1-T) + W
p
K
p
+ W
s
K
s
Trong đó: Wd, Wp,Ws : lần lượt là tỉ trọng của từng nguồn là vay nợ,
phát hành cổ phiếu từ lợi nhuận không chia, phát hành cổ phiếu ưu tiên

Kd, Kp, Ks :Lần lượt là chi phí của từng nguồn
Như vậy, với cơ cấu vốn khác nhau, mặc dù chi phí từng nguồn huy
động là giống nhau thì chi phí vốn trung bình là khác nhau. Việc tính toán
chi phí vốn trung bình rất quan trọng khi doanh nghiệp đứng trước quyết
định phải chấp nhận hay từ chối một dự án đầu tư. Nếu dự án có tỷ lệ hoàn
vốn nội bộ thấp hơn chi phí trung bình của vốn thì cần phải từ chối vì điều
đó có nghĩa là tỷ lệ thu nhập do đầu tư mang lại sẽ thấp hơn chi phí tài trợ
của nó. Như thế, chi phí vốn có vai trò rất quan trọng, được sử dụng làm
căn cứ khi quyết định đầu tư.

×