Tải bản đầy đủ (.pdf) (13 trang)

Đánh giá nguy cơ thiếu hụt nguồn nước vùng ven biển tỉnh bến tre & một số giải pháp khắc phục

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.1 MB, 13 trang )

TUYỂN TẬP KẾT QUẢ KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 2017 - 2018

ĐÁNH GIÁ NGUY CƠ THIẾU HỤT NGUỒN NƯỚC VÙNG VEN BIỂN
TỈNH BẾN TRE & MỘT SỐ GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC
ThS. Trần Ký
Trường Đại học Tài ngun và Mơi trường TP.HCM
TĨM TẮT
Vùng ven biển Đồng bằng sơng Cửu Long nói chung và vùng ven biển tỉnh Bến Tre
nói riêng bị thiếu nước ngọt một cách nghiêm trọng, đặc biệt vào các tháng mùa
khơ, do lượng mưa mùa khơ chỉ chiếm 4 - 6% lượng mưa năm. Vùng ven biển của
tỉnh Bến Tre bao gồm: huyện Bình Đại, Ba Tri, Thạnh Phú, là phần cuối cùng giáp
biển của ba cù lao với diện tích tự nhiên khoảng 116.700 ha, dân số của vùng
khoảng 4.571.707 người. Mặt khác tỉnh nằm ở cuối nguồn của sơng Tiền, nơi thốt
nước ra và là vùng bị ảnh hưởng mạnh thủy triều của biển Đơng làm cho xâm nhập
mặn sâu. Dưới tác động của biến đổi khí hậu, nước biển dâng, vấn đề khai thác
nước q mức từ thượng lưu hiện nay, đã gây ra các yếu tố bất lợi và các yếu tố thời
tiết cực đoan cho tài ngun nước như suy thối, hạn hán, xâm nhập mặn, làm cho
chất lượng nước của vùng đang ngày càng xấu đi. Bên cạnh những thiệt hại nghiêm
trọng về con người và vật chất do lũ lụt gây ra, việc thiếu hụt nguồn nước ngọt vào
mùa khơ ở vùng nghiên cứu cũng đã và đang trở nên trầm trọng, ảnh hưởng lớn đến
sự phát triển kinh tế - xã hội. Bài viết đánh giá tình hình thiếu hụt nguồn nước ngọt
ở vùng ĐBSCL và phân tích một số giải pháp trước mắt và lâu dài nhằm khắc phục
tình trạng trên, giảm thiểu tác động của nó và góp phần ổn định chính trị và an ninh
nguồn nước cho vùng.
Từ khóa: Thực trạng tài ngun nước, Bến Tre, vùng khan hiếm nước ngọt.

ABSTRACT
The coastal areas of the Mekong Delta in general and scarce freshwater coastal
areas of Ben Tre province in particular are severely depleted of fresh water,
especially in the dry season due to the dry season only 4 - 6% of annual rainfall..
The Coastal areas of Ben Tre Province include Binh Dai District, Ba Tri District,


Thanh Phu District, which is the last part of the sea borders three islands with a
natural area of 116,700 ha. The population of this region is about 4,571,707 people.
On the other hand, this province, located at the end of the Tien River, drains out and
is the tidal area of the East Sea. The climate change, rising sea levels,
overexploitation of upstream water caused adverse factors and extreme weather
factors for the water resources such as degradation, drought, salinity intrusion led
to the water quality of this region is more deteriorate. In addition, the serious
damage on the human and substances caused by floods and the lack of freshwater
resources in the dry season in the Mekong Delta have also been exacerbated,
affecting Socio-economic development. This paper assesses the shortage of
freshwater resources in the Mekong Delta and analyzes some immediate and longterm solutions to overcome this situation in order to mitigate the above impacts and
contribute to political stabilization and water source security for these areas.
Keywords: Reality of water resource, Ben Tre, scarce freshwater coastal areas.
VIỆN KHOA HỌC THỦY LI MIỀN NAM

139


TUYỂN TẬP KẾT QUẢ KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 2017 - 2018

1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Bến Tre là một tỉnh thuộc vùng Đồng bằng sơng Cửu Long [5], nằm cuối
nguồn sơng Cửu Long, Phía Đơng tiếp giáp biển Đơng với chiều dài đường biển khoảng
65 km; Phía Bắc giáp với tỉnh Tiền Giang; Phía Nam giáp với Trà Vinh; Phía Tây giáp
với Vĩnh Long; Trung tâm của tỉnh Bến Tre cách Thành phố Hồ Chí Minh 87 km về
phía Tây qua tỉnh Tiền Giang và Long An.
Vùng khan hiếm nước ven biển tỉnh Bến Tre gồm: huyện Bình Đại, Ba Tri, Thạnh
Phú của tỉnh Bến Tre, là phần cuối cùng giáp biển của ba cù lao với diện tích tự nhiên
khoảng 116.700 ha, dân số của vùng khoảng 4.571.707 người. Vùng nghiên cứu có vị
trí địa lý của vùng giáp với biển Đơng, bị ảnh hưởng bởi chế độ Thủy triều Biển Đơng

là chế độ bán nhật triều khơng đều, mỗi ngày có hai lần nước lên và hai lần nước xuống.
Phần đất trũng, độ cao tối đa khơng q 0,5 m, phân bố ở các huyện ven biển như
huyện Bình Đại, Ba Tri và Thạnh Phú. Kênh rạch dễ bị bồi lắng, địa hình bờ biển của
tỉnh chủ yếu là các bãi bồi rộng với thành phần chủ yếu là bùn hoặc cát. Khi triều rút,
các bãi bồi nổi lên và trải rộng ra biển hàng nghìn mét, do vậy, nguồn nước mặt thường
bị xâm nhập mặn, nhất là vào mùa khơ, qua 3 cửa sơng: cửa Đại, cửa Hàm Lng, cửa
Cổ Chiên gây khó khăn nhiều cho Tài ngun nước nói chung và đặc biệt khó khăn,
khan hiếm nước dùng cho sinh hoạt của vùng. Để có thể xây dựng phát triển vùng tương
xứng với tiềm năng và thế mạnh của nó, một trong những vấn đề khó khăn, thách thức
cả về trước mắt cũng như lâu dài cần phải chủ động đối phó ngay với tình trạng thiếu
hụt trầm trọng nguồn nước ngọt cho sinh hoạt và cho các ngành kinh tế.
2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Điều kiện tự nhiên

Hình 1. Bản đồ hành chính tỉnh Bến Tre
Nguồn: Viện QHTLMN

140

VIỆN KHOA HỌC THỦY LI MIỀN NAM


TUYỂN TẬP KẾT QUẢ KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 2017 - 2018

Vị trí địa lý: Tỉnh Bến Tre giới hạn bởi: Phía Bắc giáp với tỉnh Tiền Giang; phía
Nam giáp với tỉnh Trà Vinh; phía Đơng giáp với biển Đơng; Phía Tây giáp với tỉnh
Vĩnh Long.
Khí hậu: Khí hậu nhiệt đới gió mùa, mùa mưa thường kéo dài từ tháng
5 đến tháng 10, các tháng còn lại là mùa khơ. Nhiệt độ trung bình năm từ 26 - 27oC.
Chênh lệch nhiệt độ trung bình các tháng khơng q 30C. Có hai mùa mưa, nắng rõ rệt.

Chênh lệch nhiệt độ trung bình các tháng trong năm khoảng 2,8 ÷ 3,3oC. Số giờ nắng
trung bình hàng năm từ 2.387 – 2.743 giờ, cao nhất là trong mùa khơ, hàng ngày có xấp
xỉ 8 giờ nắng. Lượng mưa trung bình năm từ 1.250 - 1.500 mm, là nguồn nước cực kỳ
quan trọng. Tuy nhiên, lượng mưa phân phối khơng đều trong năm, trên 90% lượng
mưa cả năm tập trung vào mùa mưa gây ra tình trạng thừa nước trong mùa mưa (V XI), thiếu nước ngọt trong mùa khơ (XI - IV).
Địa hình: Bến Tre có địa hình bằng phẳng, có độ cao trung bình từ 1,0 đến 2,0 m
so với mực nước biển, thấp dần từ Tây Bắc xuống Đơng Nam, độ cao chênh lệch khá
lớn, tối đa là 3,5 m.
Đất trũng, ln ln ngập dưới mực nước triều trung bình, gồm có đất đầm mặn
và bãi thủy triều, khu đất ruộng lòng chảo xa sơng cao độ khơng nhỏ dưới 0,5 m. Loại
địa hình này phân bố chủ yếu ở các huyện Bình Đại, Giồng Trơm, Mỏ Cày Nam và khu
đầm mặn ven biển thuộc huyện Bình Đại.
2.2. Tiềm năng nguồn nước nước ngọt
Với hệ thống sơng rạch phát triển, 4 nhánh sơng lớn của sơng Tiền (thuộc hệ
thống sơng Cửu Long) là sơng Mỹ Tho (sơng Tiền), Ba Lai, Hàm Lng và Cổ Chiên,
tổng chiều dài xấp xỉ 600 km. Hệ thống sơng này đã đem lại cho tỉnh Bến Tre nguồn
nước mặt phong phú.
- Sơng Mỹ Tho (sơng Tiền): chạy suốt theo chiều dọc của tỉnh, chiều dài khoảng 90
km; lưu lượng nước đầu mùa lũ khoảng 6.480 m3/s, vào mùa khơ khoảng 1.598 m3/s.
- Sơng Ba Lai: tổng chiều dài khoảng 71 km; lưu lượng nước khoảng 240 m3/s
vào mùa lũ và khoảng 59 m3/s vào mùa khơ.
- Sơng Hàm Lng: có chiều dài khoảng 70 km; là con sơng lớn nằm trọn vẹn
trong địa giới tỉnh Bến Tre, lòng sơng rộng và sâu nên cung cấp lưu lượng nước dồi dào
nhất so với các sơng khác. Vào mùa lũ, lưu lượng nước vào khoảng 3.360 m3/s, mùa
khơ khoảng 828 m3/s.
- Sơng Cổ Chiên: nằm về phía Nam của tỉnh, có chiều dài khoảng 80 km; là ranh
giới tự nhiên giữa Bến Tre với các tỉnh Trà Vinh, Vĩnh Long. Lưu lượng nước vào mùa
lũ khoảng 6.000 m3/s; vào mùa khơ lưu lượng nước khoảng 1.480 m3/s.
Ngồi ra, còn hệ thống kênh rạch nối các sơng lớn với nhau thành mạng lưới
chẳng chịt. Theo thống kê, có khoảng 60 kênh rạch chính với tổng chiều dài trên 2.367

km; trong đó quan trọng là các kênh Giao Hòa (Châu Thành - Bình Đại), Mỏ Cày, Cái
Cấm, Vàm Thơm (Mỏ Cày), Băng Cung, Eo lói, Khém Thuyền (Thạnh Phú), Sơn Đốc
(thị xã Giồng Trơm), Vàm Hố, Cây Da, Mương Đào (Ba Tri).
VIỆN KHOA HỌC THỦY LI MIỀN NAM

141


TUYỂN TẬP KẾT QUẢ KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 2017 - 2018

Trong vòng 10 năm trở lại đây có nhiều cơng trình thủy lợi lớn, vừa và nhỏ đã
được xây dựng trên địa bàn tỉnh, đặc biệt là vùng Ba Lai phục vụ cho phát triển sản xuất
nơng nghiệp và cải thiện điều kiện sinh hoạt của nhân dân trong vùng. Hiện tại tồn tỉnh
có khoảng 50 kênh trục với tổng chiều dài gần 226 km. Nhiều hệ thống trục dẫn tưới đã
hồn thiện và sử dụng có hiệu quả như sau:
- Hệ thống Châu Bình – Vàm Hồ: dẫn nước tưới cho 2/3 diện tích ha đất canh
tác của huyện Ba Tri và một phần huyện Giồng Trơm. Nguồn nước ngọt được dẫn từ
sơng Bến Tre – Chẹt Sậy qua sơng Giồng Trơm – Bình Chánh qua hệ thống kênh chính
A; Kênh chính B.
- Hệ thống cống Cây Da và kênh Cây Da – Ba Tri: thuộc huyện Ba Tri hồn
thành năm 1991 lấy nước từ cống Cây Đa để tưới cho khoảng 8.760 ha.
- Hệ thống thủy lợi Cầu Sập: Kênh Rạch Miễu Ong - Hương Điềm - Sơn Đốc Ba Tri dẫn nước từ sơng Bến Tre xuống Ba Tri tưới cho 7.792 ha đất canh tác thuộc
huyện Giồng Trơm – Ba Tri.
- Cơng trình thủy lợi Ba Lai: sơng Ba Lai dẫn nước từ sơng Mỹ Tho, sơng Tiền,
sơng Bến Tre cung cấp nước cho hầu hết dự án.

Hình 2. Các trục dẫn ngọt ở khu vực Nam Bến Tre và Bắc Bến Tre
Nguồn: Viện QHTLMN

Tuy nhiên các kênh trục hiện nay đã bị bồi lắng nhiều cần phải được nạo vét, đặc

biệt là tại các huyện ven biển như Bình Đại, Ba Tri và Thạnh Phú nhiều kênh bị bồi lắng
do đất cát, cần phải nạo vét như rạch Băng Cung, rạch Cả Bảy, rạch Bến Giơng, rạch
bến Găng, rạch Cừ, sơng Eo Lói (huyện Thạnh Phú).
142

VIỆN KHOA HỌC THỦY LI MIỀN NAM


TUYỂN TẬP KẾT QUẢ KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 2017 - 2018

Nguồn nước ngầm
Trữ lượng tiềm năng nước dưới đất tỉnh Bến Tre là 115.786 m3/ngày, phân bố
trong 4 tầng chứa nước là qh, qp3, n21 và n13.
Tầng chứa nước có trữ lượng tiềm năng lớn là Miocen trên và Pliocen dưới, với
trữ lượng lần lượt là 38.255 m3/ngày và 43.486 m3/ngày. Đây là các tầng có thể khai
thác với quy mơ từ trung bình đến lớn. Các tầng chứa nước qh và qp3 do có chiều sâu
phân bố nơng nên chỉ có thể khai thác với qui mơ từ nhỏ đến trung bình.
Địa phương có trữ lượng tiềm năng nước dưới đất (NDĐ) lớn là huyện Châu
Thành với trữ lượng tiềm năng 70.670m3/ngày, tiếp theo là huyện Chợ Lách với 12.213
m3/ngày. Các địa phương còn lại có trữ lượng tiềm năng nước dưới đất nhỏ.
Trữ lượng có thể khai thác NDĐ được lấy bằng trữ lượng khai thác “tương đối an
tồn”, tức là bằng 40% trữ lượng khai thác tiềm năng.
Kết quả tính tốn cho trữ lượng có thể khai thác tồn tỉnh là 46.314 m3/ngày.
Trong đó, tầng n13 và n21 có trữ lượng có thể khai thác lớn nhất là 17.394 m3/ngày và
15.290 m3/ngày.
So sánh hiện trạng khai thác với trữ lượng có thể khai thác cho thấy tổng trữ
lượng còn lại trên địa bàn tỉnh khoảng 30.679 m3/ngày phân bố chủ yếu trong tầng chứa
nước n13 và qh.
2.3. Thực trạng khai thác và sử dụng nguồn nước ngọt cho sinh hoạt của vùng
khan hiếm nước ven biển

Tình hình khan hiếm nước ngọt ven biển tỉnh Bến Tre: Vùng ven biển Đồng bằng
sơng Cửu Long nói chung và vùng ven khan hiếm nước ngọt ven biển tỉnh Bến Tre nói
riêng bị thiếu nước ngọt một cách nghiêm trọng, đặc biệt vào các tháng mùa khơ, do
lượng mưa mùa khơ chỉ chiếm 4÷6 % lượng mưa năm, hơn nữa lại là vùng giáp biển,
cũng như sự gia tăng xâm nhập mặn trên sơng Tiền, sơng Ba Lai, sơng Hàm Lng và
sơng Cổ Chiên do biến đổi khí hậu, do khai thác q mức từ phía thượng lưu, nên việc
cấp nước cho sinh hoạt gặp rất nhiều bất lợi. Vùng nghiên cứu của đề tài bao gồm:
huyện Bình Đại, Ba Tri, Thạnh Phú của tỉnh Bến Tre, là những phần đất cuối cùng giáp
biển của ba cù lao với diện tích tự nhiên khoảng 116.700 ha.
Tình hình sử dụng nước sinh hoạt của nhân dân ở đây còn vơ cùng khó khăn, nhất
là vào những tháng khơ hạn trong những năm qua, bà con phải chắt chiu từng giọt nước
ngọt còn sót lại của mùa mưa và phải mua nước ngọt chưa được xử lý với giá hơn
50.000 đồng/m3 để dành cho ăn uống, sinh hoạt hàng ngày. Cơng tác cấp nước sinh hoạt
cho người dân tỉnh Bến Tre hiện tại có sự tham gia của Cơng ty cấp thốt nước Bến Tre,
Trung tâm nước sạch và vệ sinh mơi trường nơng thơn ngồi ra còn có 1 số doanh
nghiệp tư nhân, cùng hộ gia đình.
Vùng nghiên cứu có 3 nguồn nước đang được sử dụng cho sinh hoạt và sản xuất:
là nước mưa, nước mặt và nước ngầm, tuy nhiên vùng đang phải đối mặt với nhiều
thách thức liên quan đến nguồn nước. Một mặt, nguồn nước, kể cả nước sơng, nước
ngầm, suy giảm nghiêm trọng; nước mưa thì khơng có dụng cụ chứa chỉ dùng được thời
VIỆN KHOA HỌC THỦY LI MIỀN NAM

143


TUYỂN TẬP KẾT QUẢ KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 2017 - 2018

gian ngắn, mặt khác, tình trạng lũ lụt, nước biển dâng, triều cường, bồi lắng, sạt lở của
sơng, bờ biển ngày càng trầm trọng, phát triển kinh tế, xã hội, tăng dân số, làm phát sinh
những mâu thuẫn trong khai thác, sử dụng, bảo vệ nguồn nước và đang đứng trước nguy

cơ suy thối, ơ nhiễm, cạn kiệt, do vậy tỉnh Bến Tre đã phải khai thác nước ngầm, hoặc
chun chở từ nước từ nơi khác đến cho vùng khan hiếm nước ngọt… nên giá thành
nước phục cho dân sinh q cao, khó khăn cho đời sống, mặt khác do khai thác nước
ngầm khơng có quy hoạch, hay dựa trên cơ sở khoa học, gây nên suy thối nguồn nước
của vùng. Từ đặc điểm bất lợi của nguồn nước trong vùng, sự phân bố lượng nướcvề số
lượng, chất lượng, khơng đều theo thời gian, khơng gian có thể thấy rằng tài ngun
nước của vùng đang phải chịu rất nhiều sức ép, tiềm ẩn nhiều nguy cơ trong việc bảo
đảm an ninh nguồn nước.

Hình 3. Bản đồ vị trí vùng ven biển khan hiếm nước tỉnh Bến Tre

Tình hình khai thác và sử dụng:
Nước mưa: Là nguồn nước ngọt chính của vùng, đây là nguồn nước có chất lượng
tương đối tốt sử dụng trong mùa mưa dùng cho sinh hoạt, theo thơng tin từ Trung tâm
Nước sạch và vệ sinh Mơi trường Nơng thơn tỉnh Bến Tre, tại vùng, có 80% các hộ dân
sử dụng nguồn nước mưa làm nguồn nước sinh hoạt chính, riêng tại vùng giáp biển khó
khăn về nguồn nước ngọt tỷ lệ dùng nước mưa còn cao hơn nữa, nhu cầu dùng nước của
các hộ gia đình nơng thơn như: ăn uống, tắm, giặt, người dân đã tận dụng tối đa nguồn
nước mưa trong sinh hoạt, chính điều này đã làm giảm đáng kể nhu cầu dùng nước
giếng khoan, giếng đào và nước kênh, tuy nhiên mức độ này sẽ tăng dần từ vùng nhiều
ngọt đến vùng bị nhiễm mặn, do lượng mưa tập trung chủ yếu vào tháng V đến tháng
XI. Lượng nước mưa tuy dư thừa nhưng lại phân bố khơng đều, theo khơng gian và thời
144

VIỆN KHOA HỌC THỦY LI MIỀN NAM


TUYỂN TẬP KẾT QUẢ KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 2017 - 2018

gian, mặt khác do điều kiện kinh tế của người dân nơng thơn còn nghèo, phương tiện

tích trữ quy mơ lớn rất ít vì giá thành đầu tư bể chứa nước mưa q cao, đa số các hộ
chỉ có 1 đến 5 cái lu để chứa nước mưa (loại 200 - 250 lít) chỉ đủ để ăn uống trong thời
gian rất ngắn. Do vậy việc sử dụng nước mưa thì rất hạn chế.
Nước mặt: Vùng có hệ thống sơng, kênh ở vùng phía thượng nguồn có nguồn
nước khơng bị nhiễm mặn từ biển Đơng và hệ thống thủy lợi nội đồng khá hồn chỉnh
(Vàm Hồ, Vàm Đồn, kênh Cây Da, kênh 9A, kênh Phụ nữ, kênh 9 Thước…), hệ thống
thủy lợi này với các đặc điểm kiểm sốt mặn dẫn ngọt về một số xã trong vùng khá hiệu
quả. Người dân sử dụng nguồn nước này cho sinh hoạt bao gồm ăn uống tắm giặt hàng
ngày. Tuy nhiên với các xã vùng ven biển vào mùa khơ lại khơng thể dùng nước mặt về
mùa khơ vì phần lớn nước trong các sơng kênh lại chứa một lượng muối khống từ
4,5‰ tới trên 20‰, cho nên trong những tháng mùa khơ, thường bị thiếu nước ngọt
nghiêm trọng và người ta phải tính tốn khai thác nước ngầm để bù đắp vào.
Khả năng chuyển tải nước ngọt từ sơng Tiền của hệ thống kênh rạch đã phân hóa
thành các khu vực có khả năng cung cấp nước mặt khác nhau. Phương thức sử dụng
nước mặt của người dân: Nước được lấy từ bờ sơng, kênh, rạch… đổ vào lu, khạp, sau
đó đánh phèn dùng cho ăn uống, tắm giặt. Tuy nhiên vào mùa khơ nguồn nước ngọt
xuất hiện rất ít và nhu cầu nước ngọt từ sơng, kênh khơng đáp ứng đủ, do xâm nhập
mặn từ biển cùng những những đợt triều cường sẽ đẩy nước mặn xâm nhập sâu hơn vào
đất liền, gây ra tình trạng thiếu nước cho nước sinh hoạt và sản xuất, Trong những năm
gần đây ngồi nhiễm mặn, thì sự ơ nhiễm của nước mặt diễn ra rất nghiêm trọng do các
chất thải sinh hoạt, phân bón sử dụng trong nơng nghiệp, xác động vật, các khu cơng
nghiệp, các cảng cá… vì vậy nếu khơng xử lý nước sẽ khơng thể sử dụng cho ăn uống
và sinh hoạt và nước mặt cũng chỉ sử dụng được cho đến đầu mùa khơ.
Nước ngầm: Trong vùng nước ngầm có trữ lượng và chất lượng phân bố khơng
đều, khu vực thuận lợi huyện Chợ Lách và phía Tây của huyện Châu Thành, tầng nước
ngầm có thể khai thác nằm ở phía Đơng huyện Châu Thành với tầng nước khá sâu (trên
290 m), tại vùng nghiên cứu: một số khu vực ở huyện Thạnh Phú (có tầng nước ở độ
sâu từ 40 - 60 m) với lưu lượng khai thác < 3 m³/giờ. Nhưng phải khai thác một cách
hợp lý bởi ranh giới mặn nhạt của tầng chứa nước có thể bị thu hẹp; khu vực khó khăn
về nước ngầm, thuộc các huyện ven biển Bình Đại, Ba Tri, Thạnh Phú; khu vực này

nước ngầm bị nhiễm mặn, phèn thuộc ven biển của tỉnh,
BIỂU ĐỒ CÁC LOẠI HÌNH SỬ DỤNG NƯỚC
CỦA VÙNG MẶN CÙ LAO MINH

%
100

BIỂU ĐỒ CÁC LOẠI HÌNH SỬ DỤNG NƯỚC
CỦA VÙNG MẶN CÙ LAO BẢO

%
Nước mưa
Nước kênh

80

100

Nước mưa

Giếng đào
Nước máy

40

Giếng khoan

60

Giếng đào


3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

Tháng

Nước máy
Mua xe bồn

Mua xe bồn
Nguồn khác

0


2

Giếng đào

40

20

1

Giếng khoan

60

Nước máy

40

Nguồn khác

0

Nước kênh

80

Mua xe bồn

20


Nước mưa

Nước kênh

80

Giếng khoan

60

BIỂU ĐỒ CÁC LOẠI HÌNH SỬ DỤNG NƯỚC
CỦA VÙNG MẶN CÙ LAO AN HỐ

%
100

20

Nguồn khác

0

1

2

3

4


5

6

7

8

9

10

11

12

Tháng

1

2

3

4

5

6


7

8

9

10

11

12

Tháng

Hình 4. Biểu đồ các loại hình sử dụng nước vùng nghiên cứu

VIỆN KHOA HỌC THỦY LI MIỀN NAM

145


TUYỂN TẬP KẾT QUẢ KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 2017 - 2018

Chất lượng nước ngầm chỉ tạm sử dụng cho sinh hoạt trong thời gian rất ngắn vì
vào mùa khơ độ mặn đo được từ 0,35 - 0,8‰, trong khi tiêu chuẩn Bộ Y tế chỉ là 0,3‰.
Theo Trung tâm Nước sạch và Vệ sinh Mơi trường Nơng thơn tỉnh Bến Tre, do biến đổi
khí hậu, nguồn nước ngọt ở Bến Tre hiện nay thiếu trầm trọng.
2.4. Nguy cơ và khó khăn do thiếu hụt nguồn nước ngọt
Thách thức đối với vấn đề quản lý khai thác nguồn nước ở Bến tre cũng là bài

tốn nan giải cho các nhà quản lý tài ngun nước của các bộ ngành Trung ương đến
các Sở, ban ngành địa phương, nhằm giảm thiểu các vấn đề lũ, triều cường, mặn, thiếu
nước ngọt, vấn đề sạt lở bờ sơng, cửa sơng, vấn đề ơ nhiễm mơi trường... Trong khn
khổ bài viết này chỉ đề cập đến vấn đề thiếu hụt nguồn nước ngọt và những hệ lụy cơ
bản mà nó gây ra.
Theo dự báo trong báo cáo của các cơ quan nghiên cứu khoa học [2]; [4]; [5],
trong những năm tới mực nước biển sẽ ngày một dâng cao, khả năng xâm nhập mặn sẽ
rất lớn. Lưu lượng nước thượng nguồn về bị giảm sút sẽ khơng đủ lưu lượng đẩy mặn,
nước mặn sẽ xâm nhập sâu vào nội địa, thực tế có những năm ở một số sơng mặn xâm
nhập sâu:
Vùng thuận lợi nước mặt: Thuộc huyện Chợ Lách, huyện Châu Thành tuy nhiên
nước mặt tại Châu Thành lại bị nhiễm phèn gây khó khăn trong sinh hoạt.
Vùng thiếu nước ngọt: Vùng thiếu từ 2 đến 3 tháng bao gồm: Mỏ Cày Nam,
Giồng Trơm; Vùng thiếu từ 1 tháng là Mỏ Cày Bắc.
Vùng khó khăn khan hiếm nguồn nước của tỉnh Bến Tre: Là 03 huyện ven biển
Bình Đại, Ba Tri, Thạnh Phú, (gồm các xã Thừa Đức, Thái Thuận, Thạnh Phước của
huyện Bình Đại; Xã An Thủy của huyện Ba Tri; Xã An Điền, An Nhơn, Thạnh Phong,
Thanh Hải, Giao Thạnh của huyện Thạnh Phú) thường xun thiếu nước ngọt trong
mùa khơ và vấn đề suy thối, ơ nhiễm nguồn nước gây xâm nhập mặn hầu như ảnh
hưởng đến tồn bộ diện tích; ngồi ra, các hoạt động phát triển kinh tế xã hội cũng góp
phần làm cho tình hình xâm nhập mặn ảnh hưởng trên diện rộng và ngày càng sâu sắc
hơn. Các ngun nhân ảnh hưởng đến xu thế xâm nhập mặn như:
- Bị ảnh hưởng bởi chế độ triều Biển Đơng là chế độ bán nhật triều khơng đều,
mỗi ngày có hai lần nước lên và hai lần nước xuống. Vùng chịu ảnh hưởng có một số
hướng sóng nguy hiểm, hướng sóng đánh vng góc với bờ biển nên thủy triều dễ dàng
xâm nhập vào sâu trong đất liền.
- Trong mùa khơ kiệt hàng năm (từ tháng I - IV), lượng nước mưa tích trữ được
hầu như khơng đáng kể, nguồn nước ngọt duy nhất vào hệ thống sơng ngòi của vùng là
nguồn nước sơng Tiền (được tiếp nước từ dòng chảy thượng nguồn sơng Mê Kơng)
trùng với thời kỳ lưu lượng thượng nguồn tương đối nhỏ và nhỏ nhất vào tháng IV; nhu

cầu nước cho sản xuất nơng nghiệp lớn, độ dốc lòng sơng nhỏ, địa hình khá bằng phẳng
tạo điều kiện thuận lợi cho nước mặn theo sơng rạch vào đất liền.
- Tác động tương hỗ giữa dòng chảy sơng và động lực biển gây ảnh hưởng trực
tiếp đến các khu vực ven biển, đặc biệt mực nước sơng xuống thấp; dòng chảy ra biển
146

VIỆN KHOA HỌC THỦY LI MIỀN NAM


TUYỂN TẬP KẾT QUẢ KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 2017 - 2018

khơng đủ mạnh để ngăn nước mặn chảy ngược vào cùng với triều cường có thể đẩy
ngược nước mặn vào sâu trong sơng và hệ thống kênh rạch tạo ra một vùng nước nhiễm
mặn với các nồng độ khác nhau.
- Vấn đề khai thác q mức từ thượng lưu; việc khai thác nước ngầm để sử dụng
là một vấn đề tất yếu ở tỉnh Bến Tre, vì hầu hết nguồn nước mặt của tỉnh là bị nhiễm
phèn, mặn. Mặt khác do gia tăng dân số, phát triển kinh tế xã hội, bùng nổ các hoạt
động ni tơm làm cho việc khai thác nước ngầm ở đây hoạt động rất mạnh mẽ. Chính
vì việc khai thác nước ngầm q mức đã làm suy thối, cạn kiệt nguồn nước ngầm.
Nước mặn từ biển và tầng nước mặn dễ thẩm thấu vào tầng nước ngầm gây nhiễm mặn
nước ngầm.
- Cơng tác quản lý, nguồn nước, quy hoạch phát triển kết cấu hạ tầng, hệ thống
sơng, kênh, hồ chứa, đê, cống, đập kiểm sốt mặn, hệ thống cơng trình cấp nước còn
chưa đáp ứng kịp với sự phát triển kinh tế xã hội, chưa được quan tâm đúng mức; vốn
đầu tư cho phát triển kết cấu hạ tầng còn hạn chế, phân bổ còn dàn trải; chưa huy động
được nhiều nguồn lực ngồi nhà nước để đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng; cơng tác
quản lý và đầu tư về lĩnh vực Tài ngun nước và các lĩnh vực liên quan còn nhiều bất
cập, còn bị chồng chéo, do vậy tỉnh Bến Tre rất cần được tiếp tục quan tâm hỗ trợ từ
Chính phủ, các Bộ, ngành Trung ương, sự tài trợ từ các tổ chức Quốc tế.
Từ những vấn đề trên cho thấy, các thách thức về nguồn nước của vùng nghiên

cứu hiện tại và trong tương lai gần: nguồn nước cùa vùng phụ thuộc vào các nguồn
nước từ thượng lưu, do vùng thượng nguồn tăng cường khai thác nguồn nước; Mặt khác
tài ngun nước của vùng phân bố khơng đều theo cả khơng gian và thời gian cả về chất
và lượng, đã dẫn đến xuất hiện các vấn đề khan hiếm và thiếu nước nước trong mùa
khơ; Thêm nữa việc khai thác sử dụng nguồn nước chưa hợp lý và thiếu bền vững dẫn
đến tình trạng suy giảm nguồn nước trong khi hiệu quả sử dụng nước còn thấp; Nhu cầu
sử dụng nước gia tăng trong khi nguồn nước có nguy cơ bị ơ nhiễm, suy thối, khan
hiếm, cạn kiệt; Biến đổi khí hậu gia tăng đang gây ra những tác động sâu sắc đến tài
ngun nước của vùng nghiên cứu.
2.5. Dự báo nhu cầu nước cho tỉnh Bến Tre
Nhu cầu cấp nước: Theo quyết định về việc phê duyệt đồ án quy hoạch cấp nước
vùng tỉnh Bến Tre đến năm 2020, định hướng đến năm 2030, số 2090/QĐ-UBND ngày
17/10/2014.
Chỉ tiêu cấp nước:
- Giai đoạn 2020: Đối với TP. Bến Tre tỷ lệ cung cấp nước sạch đạt 95 – 100%,
tiêu chuẩn cấp nước 120 – 150 lít/người/ngày; đối với các thị trấn (đơ thị loại IV, V) tỷ
lệ cung cấp nước sạch đạt 80 – 90%, tiêu chuẩn cấp nước 100 – 120 lít/người/ngày; các
khu, cụm cơng nghiệp chỉ tiêu cấp nước 35 m3/ha/ngày với 80% diện tích; khu vực dân
cư nơng thơn sống tập trung chỉ tiêu cấp nước 60 – 80 lít/người/ngày, tỷ lệ 60 – 70%.
- Giai đoạn 2030: TP. Bến Tre tỷ lệ cấp nước đạt 100%, chỉ tiêu cấp nước là 150
lít/người/ngày; các đơ thị loại IV, V tỷ lệ cấp nước đạt 100%, chỉ tiêu cấp nước 120
lít/người/ngày đêm; các khu, cụm cơng nghiệp chỉ cấp nước 35 m3/ha/ngày với 80%
VIỆN KHOA HỌC THỦY LI MIỀN NAM

147


TUYỂN TẬP KẾT QUẢ KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 2017 - 2018

diện tích; khu vực dân cư nơng thơn sống tập trung chỉ tiêu cấp nước 80 lít/người/ngày,

tỷ lệ cấp nước 80%.
Nhu cầu dùng nước theo các giai đoạn;
- Nhu cầu dùng nước giai đoạn 2020: 200.000 – 226.000 m3/ngày;
- Nhu cầu dùng nước giai đoạn 2030: 270.000 – 290.000 m3/ngày.
Nguồn cấp nước chính:
Nguồn cấp nước chính là nguồn nước mặt từ hệ thống sơng Tiền. Địa điểm lấy
nước được dự kiến tại xã Phú Phụng (huyện Chợ Lách), xã Tân Phú (huyện Châu
Thành).
Tồn tỉnh có 2 hệ thống tạo nguồn nước thơ cùng hoạt động như sau:
- Nguồn cấp nước thơ chính thứ nhất lấy từ phía thượng nguồn sơng Tiền và sơng
Ba Lai tại khu vực Châu Thành và Chợ Lách chuyển tải nước thơ về cấp cho các nhà
máy nước trong tỉnh với cơng suất trạm bơm chiếm 80 – 85% cơng suất các nhà máy
nước phục vụ trong các tháng mùa mưa và các tháng mùa khơ;
- Nguồn cấp nước thơ chính thứ hai lấy từ kênh, sơng, rạch ngay tại khu vực xây
dựng các nhà máy nước trong các tháng mùa mưa. Mùa khơ, nếu nguồn nước tại chỗ
nhiễm mặn thì nguồn nước thơ từ đầu nguồn về sẽ pha lỗng nhằm giảm độ mặn nguồn
nước tại chỗ.
Giai đoạn quy hoạch
- Giai đoạn 2020: Khi nguồn nước mặt sơng Tiền bị nhiễm mặn vượt lên tới khu
vực khai thác nguồn nước thơ của 2 trạm bơm giai đoạn 2015 sẽ tiến hành xây dựng 1
trạm bơm nước thơ tại khu vực xã Phú Phụng (huyện Chợ Lách), cơng suất 180 –
200.000 m3/ngày thay thế nguồn cho các trạm bơm nước thơ của giai đoạn 2015.
- Giai đoạn 2030: Bổ sung thêm nguồn nước sạch từ hệ thống cấp nước của vùng
ĐBSCL để cung cấp một phần nhu cầu của tỉnh. Các nhà máy nước của tỉnh có tính ổn
định về nguồn và cơng suất lớn tiếp tục hoạt động, các nhà máy nước có cơng suất nhỏ
chuyển đổi thành các trạm bơm tăng áp. Nhu cầu tiêu thụ của tỉnh giai đoạn 2030 là
270.000 – 290.000 m3/ngày.
2.6. Một số giải pháp tạo nguồn nước cấp
Giải pháp cơng trình: Hồn chỉnh hệ thống cơng trình kiểm sốt lũ mặn nhằm đáp
ứng khả năng phục vụ của hệ thống cơng trình thủy lợi, trong khai thác, sử dụng tài

ngun nước cho phù hợp với thực tế. Về ngun tắc các giải pháp nhằm tạo nguồn
cung cấp nước cho vùng khan hiếm nước ven biển của tỉnh Bến Tre:
1) Giải pháp trữ nước ngọt bằng các hồ nhân tạo:
Giải pháp này đã được một số tổ chức, cá nhân đề xuất làm ở một số nơi trong
vùng ĐBSCL và các hải đảo với mục đích xây dựng đào một số ao, hồ ở những vùng
đất trũng nơi mà sản xuất nơng nghiệp kém hiệu quả, một số khu vực, những vùng trũng
này có thể tạo ra các hồ chứa tới vài trăm hoặc vài ngàn mét khối nước.
148

VIỆN KHOA HỌC THỦY LI MIỀN NAM


TUYỂN TẬP KẾT QUẢ KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 2017 - 2018

Bổ sung các cơng trình kiểm sốt nguồn nước đầu các kênh. Tận dụng cải tạo các
diện tích mặt nước tại các ấp, xã… làm hồ chứa nước. Cần thực hiện dự án cải tạo các
hố đào khai thác khống sản làm hồ trữ nước và xử lý để dùng cho sinh hoạt.
2) Giải pháp xây dựng các cơng trình ngăn sơng, kênh quy mơ vừa, nhỏ:
Để ngăn mặn và trữ nước cho từng vùng, kết hợp chống hạn đi kèm với ngăn mặn.
Hiện tại, đại đa số các cơng trình vùng ĐBSCL đã và đang được quy hoạch xây dựng
theo hướng này. Theo đó, các cơng trình thủy lợi đã ngăn được một số nhánh sơng nhỏ
chảy vào sơng lớn (hoặc ngăn được một số sơng vừa), bỏ ngõ sơng lớn thốt lũ và chấp
nhận cho mặn xâm nhập. Như thế, ngăn mặn chưa thật triệt để vì dòng mặn còn xâm
nhập sâu vào nội địa và trong nhiều trường hợp nếu nguồn nước ngọt phía thượng lưu bị
thiếu hụt thì khả năng “tập hậu” mặn là rất lớn khi đó việc ngăn mặn ở các sơng nhỏ sẽ
kém hiệu quả rất nhiều. Mặt khác, theo hướng này sẽ khơng có khả năng khai thác
nguồn nước ngọt dồi dào ở những dòng sơng lớn.
Tuy nhiên đối với thời điểm hiện tai cho vùng khan hiếm nước ven biển Tỉnh Bến
Tre:
Xây dựng các cơng trình ngăn sơng, kênh quy mơ vừa, nhỏ, các cơng trình thủy

lợi nội đồng theo hướng này sẽ phát huy tác dụng tốt khi kết hợp với cơng tác xây dựng
các hệ thống đê vùng khép kín. Ưu điểm nổi bật của giải pháp này là cơng trình xây
dựng đơn giản, mức đầu tư xây dựng thấp, hiệu quả xây dựng cơng trình sớm phát huy,
phù hợp với điều kiện kinh tế của nước ta hiện nay.
Trữ nước ngọt bằng tất cả những gì có thể tại địa phương, tận dụng tối đa khai
thác nguồn nước tại chỗ, (tận dụng các đoạn kênh ít thuyền qua lại ngăn lại để trữ nước
ngọt trong mùa khơ), ưu tiên khai thác nguồn nước mặt có chất lượng tốt, phục vụ sinh
hoạt và sản xuất.
Những thách thức cần phải được giải quyết:
Việc nghiên cứu, phân tích đánh giá các giải pháp nói trên nhằm lựa chọn được
hướng giải quyết tối ưu trên cơ sở phân tích một cách tổng hợp lợi ích kinh tế - chính trị
- xã hội hài hòa đòi hỏi phải có sự phối kết hợp chặt chẽ của nhiều ngành, nhiều lĩnh
vực và đặc biệt phải nhận được sự đồng tình ủng hộ, thống nhất giữa chính quyền và
nhân dân.
Tính phức tạp và khó khăn của phương án 2, là phải đáp ứng được gần như đồng
thời các u cầu chính như sau:
+ Trong và sau khi xây dựng cơng trình khơng được ảnh hưởng đến khả năng
thốt lũ của sơng hoặc chỉ ảnh hưởng rất nhỏ khơng đáng kể;
+ Khơng ảnh hưởng đến giao thơng thủy kể cả trong q trình thi cơng;
+ Hạn chế đến mức tối thiểu di dân giải phóng mặt bằng, gây ảnh hưởng thấp nhất
về mơi trường trong q trình thi cơng (thi cơng khơng cần đắp đê quai sanh, dẫn dòng
thi cơng);
+ Giá thành xây dựng cơng trình thấp.
VIỆN KHOA HỌC THỦY LI MIỀN NAM

149


TUYỂN TẬP KẾT QUẢ KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 2017 - 2018


Tại Bến Tre cần tăng cường thực hiện các biện pháp phòng, chống hạn hán, xâm
nhập mặn. Trong đó, giải pháp ngăn sơng bằng đập tạm để chống mặn xâm nhập, giữ
nước ngọt phục vụ sản xuất và sinh hoạt được xem là tối ưu, được triển khai từ rất sớm.
Một vấn đề chúng ta cần lưu ý là việc xây dựng các cơng trình ngăn sơng tạo
nguồn nước khơng những có tác động tích cực đến việc cải thiện dòng chảy kiệt, bổ
sung nguồn nước mà nó còn có tác dụng ngăn chặn khả năng xâm nhập mặn, nhờ vậy
khơng mất thêm nước ngọt để đẩy mặn đồng thời sẽ giảm được lũ do chặn được lưu
lượng hồi quy do dòng chảy ngược trong mùa lũ khi triều lên. Chính vì thế, việc nghiên
cứu các cơng nghệ ngăn sơng lớn xét về một góc độ nào đó cũng sẽ góp phần giải quyết
bài tốn kiểm sốt lũ, mặn ở vùng nghiên cứu.
Giải pháp bảo vệ nguồn cấp nước:
- Khoanh vùng bảo vệ nguồn nước trên sơng Tiền, sơng Hàm Lng, sơng Ba Lai
theo khu vực dọc theo sơng để tránh ơ nhiễm do các nguồn thải chưa xử lý đạt tiêu
chuẩn như: nước thải, chất thải rắn từ đơ thị, KCN và các khu dân cư tập trung, dư
lượng phân bón, thuốc bảo vệ thực vật trong hoạt động canh tác, thức ăn và NTTS;
- Quản lý khai thác nước ngầm, kiểm sốt quy trình đào giếng, đặc biệt các cơ sở
tư nhân, theo dõi giếng đang khai thác;
- Bố trí các trạm quan sát chất lượng nước trên các sơng chính, định kỳ khảo sát,
lấy mẫu thí nghiệm đánh giá chất lượng nước tại các vị trí đặc trưng có thể mơ phỏng
được tồn cảnh hệ thống sơng, kênh rạch về chất lượng (sơng Tiền, Ngã ba sơng Tiền Ba Lai, Hàm Lng).
- Chuyển dịch cơ cấu cây trồng, nghiên cứu chọn lựa cho ra các loại giống thích
nghi hạn, mặn, bố trí thời vụ hợp lý để giảm lượng nước tưới mùa kiệt và thực thi tiết
kiệm nước.
- Tun truyền, giáo dục pháp luật về bảo vệ mơi trường, tài ngun nước; xây
dựng chiến lược liên vùng, liên ngành trong khai thác, bảo vệ tài ngun nước trên cơ
sở quy hoạch tài ngun nước tồn khu vực; xây dựng kế hoạch ứng phó với BĐKH
gây yếu tố bất lợi như: hạn hán, xâm nhập mặn và nước biển dâng; giảm khai thác nước
ngầm nhằm giảm tốc độ hạ thấp mực nước ngầm như hiện nay.
3. KẾT LUẬN
Vấn đề thiếu nguồn nước ở ĐBSCL nói chung, tại tỉnh Bến Tre nói riêng và

những hệ lụy của nó là hiện hữu và có thể trở thành thảm họa trong tương lai gần. Do
đó, song song với việc nghiên cứu dòng chảy lũ, kiểm sốt lũ, mặn cho hệ thống sơng,
kênh của tỉnh Bến Tre, vấn đề nghiên cứu đánh giá tiềm năng, thực trạng nguồn nước
ngọt và dự báo nhu cầu nước ngọt tương lai và các giải pháp khoa học cơng nghệ tương
ứng đã đến lúc cần phải được chú trọng, đầu tư một cách đúng mức. Vì vậy, ngay từ bây
giờ cần có một chương trình nghiên cứu về vấn đề này làm cơ sở khoa học, tìm ra
phương án cơng trình hợp lý tạo điều kiện thuận lợi cho các bước tiếp theo của q trình
đầu tư xây dựng cơng trình.

150

VIỆN KHOA HỌC THỦY LI MIỀN NAM


TUYỂN TẬP KẾT QUẢ KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 2017 - 2018

Hiện trạng cơ sở hạ tầng Tài ngun nước vùng nghiên cứu còn chưa đáp ứng sự
phát triển kinh tế xã hội hiện nay. Việc khai thác tài ngun thời gian qua còn nhiều bất
cập, lãng phí, chưa chú ý đến yếu tố bảo vệ để sử dụng lâu dài. Cần chủ động ứng phó
với tình trạng thiếu nước ngọt hiện nay, có kế hoạch phòng chống cạn kiệt, suy thối
nguồn nước (hạn, mặn). Vận hành đóng các cửa cống để trữ ngọt; tận dụng các hệ thống
cơng trình có khả năng lấy ngọt khi có điều kiện; đắp các đập tạm để ngăn mặn trữ ngọt.
Tác giả dựa trên các tài liệu khảo sát thu thập đã định hướng đề xuất các giải pháp
quy hoạch, quản lý và sử dụng nguồn nước mặt của tỉnh Bết Tre phục vụ cấp nước dân
sinh kinh tế trong điều kiện nguồn nước ngày càng khan hiếm và ảnh hưởng mặn đối
với các vùng ven biển ngày càng gia tăng hiện nay.
Đây là những vấn đề mang tính chiến lược, liên quan, ảnh hưởng trực tiếp đến sự
phát triển kinh tế - xã hội của đất nước do đó cần phải được nghiên cứu xem xét một
cách khoa học và có bài bản, đặc biệt là những vấn đề liên quan đến giải pháp cơng
trình bởi vì nó khơng chỉ đảm bảo những nhiệm vụ như cấp nước nơng nghiệp, dân sinh,

cơng nghiệp... mà còn ảnh hưởng trực tiếp đến việc tiêu thốt lũ, giao thơng thủy, đảm
bảo cân bằng mơi trường sinh thái cho cả khu vực./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Một số kết quả nghiên cứu định kỳ năm 2006, 2007 của đề tài NCKH cấp Bộ “Nghiên cứu
cơng nghệ để thiết kế xây dựng các cơng trình ngăn sơng lớn vùng triều”, Hà Nội, 7/2007.
[2] Viện quy hoạch thủy lợi miền Nam (2009) - Quy hoạch cấp nước và vệ sinh mơi trường
nơng thơn tỉnh Bến Tre đến năm 2020.
[3] Viện kỹ thuật Biển thực hiện năm (2016) - Điều tra đánh giá diễn biến lòng dẫn, bồi lắng
sạt lở, xâm nhập mặn và dòng chảy trong hệ thống sơng vùng ĐBSCL, năm 2014; 2015.
(Đo đạc giám sát mặn ở Đồng bằng sơng Cửu Long).
[4] Sở Tài ngun mơi trường năm (2015), Báo cáo hiện trạng mơi trường tỉnh Bến Tre giai
đoạn 2011-2015.
[5] Viện QHTL miền Nam thực hiện năm (2017), Điều chỉnh, bổ sung quy hoạch thủy lợi tỉnh
Bến Tre đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030.
[6] Viện QHTL miền Nam thực hiện năm (2010), Quy hoạch thủy lợi tỉnh Bến Tre đến năm
2020.

Phản biện: PGS. TS. Lương Văn Thanh

VIỆN KHOA HỌC THỦY LI MIỀN NAM

151



×