Tải bản đầy đủ (.pdf) (18 trang)

Một số biện pháp nâng cao chất lượng trẻ 5-6 tuổi làm quen với văn học ở trường Mầm non

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (531.43 KB, 18 trang )

MỤC LỤC
I. PHẦN MỞ ĐẦU:
Trang
1. Lý do chọn đề tài………………………………………………….2
2. Mục tiêu nhiệm vụ của đề tài…………………………………… 3
3. Đối tượng nghiên cứu……………………………………………. 3
4. Phạm vi nghiên cứu……………………………………………….3
5. Phương pháp nghiên cứu…………………………………………..
3
II. NỘI DUNG:
1. Cơ sở lý luận:……………………………………………………   4
2. Thực trạng…………………………………………………………5
2.1. Thuận lợi, khó khăn…………………………………………….. 6
2.2. Thành công, hạn chế……………………………………………..7
2.3. Mặt mạnh, mặt yếu………………………………………………7 
2.4. Các nguyên nhân và yếu tố tác động…………………………… 7
2.5. Phân tích dánh giá các vấn đề về thực trạng……………………  7
3. Các giải pháp, biện pháp thực hiện:………………………………  7
3.1. Mục tiêu của biện pháp, giải pháp……………………………….7
3.2. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp…………  8
3.3. Điều kiện thực hiện giải pháp, biện pháp………………………  14
3.4. Mối quan hệ giữa các biện pháp, giải pháp……………………   14
3.5. Kết quả khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu… 14    
4. Kết quả thu được qua khảo nghiệm………………………………  15
III. KẾT LUẬN – KIẾN NGHỊ:
1. Kết luận…………………………………………………………    15
2. Kiến nghị…………………………………………………………  15
Tài liệu tham khảo……………………………………………………    17

1



Đề tài
MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG TRẺ 5 ­ 6 TUỔI 
LÀM QUEN VỚI VĂN HỌC Ở TRƯỜNG MẦM NON
I. PHẦN MỞ ĐẦU.
1. Lý do chọn đề tài :
Từ khi lọt lòng mẹ đến lúc chập chững tập đi, tập nói, đến lúc trẻ biết 
viết, đọc thì văn học là chiếc cầu nối, là phương tiện dẫn dắt trẻ. Nói những 
tiếng nói, đi những bước đi đầu tiên, ngôn ngữ  trau chuốt của trẻ, ca dao,  
chuyện kể  là tấm gương mẫu mực về  lời ăn tiếng nói cho trẻ  học tập là  
phương tiện hữu hiệu trong việc giáo dục trẻ  lòng yêu thiên nhiên, yêu quê 
hương, đất nước, tình yêu mến bạn bè, với những người thân, biết được 
việc làm tốt, biết yêu cái đẹp, cái thiện, gét cái ác độc, phê phán những việc 
xấu, kính yêu Bác Hồ, thật thà, ngoan ngoãn…và còn là phương tiện hình 
thành các phẩm chất đạo đức trong sáng, mà đặc biệt ở trẻ 5 ­ 6 tuổi thì vốn 
từ và ngôn ngữ của trẻ được phát triển mạnh mẽ, trẻ nói mạch lạc, nói diễn  
cảm, nói đúng câu, đúng từ và đúng ngữ pháp.
Qua việc cho trẻ làm quen văn học chính là hình thành ở trẻ những tình  
cảm đạo đức tốt đẹp, những cảm xúc thẫm mỹ, phát triển trí tưởng tượng 
như: Lòng yêu thiên nhiên cây, hoa, lá, lòng kính trọng yêu thương gần gũi và 
giúp đỡ  những người thân xung quanh trẻ  như  ông bà, bố  mẹ, cô giáo, anh  
chị em. Thông qua hoạt động này trẻ làm tái tạo và sáng tạo thêm những tình  
tiết của tác phẩm một cách hồn nhiên phù hợp với nội dung của tác phẩm.  
Đồng thời trẻ đọc thuộc thơ, kể lại chuyện được. Chính vì thế, để đạt được 
mục đích của môn học làm quen với văn học bản thân tôi đã nghiên cứu suy 
nghĩ, tìm ra một số biện pháp để giảng dạy tốt môn Làm quen văn học.
Là giáo viên trực tiếp đứng lớp trẻ 5­6 tuổi và 100% trẻ là người đồng  
bào dân tộc thiểu số, tất cả các cháu đều là lần đầu tiên đến trường và chưa 
qua chương trình lớp Chồi, các cháu đến lớp còn nhút nhát, chưa mạnh dạn,  
ngôn ngữ giao tiếp tiếng việt của trẻ còn nhiều hạn chế  nhất là trong việc  

làm quen với các tác phẩm văn học. Từ  đó tôi nhận thấy rằng bộ  môn làm 
quen văn học có tầm quan trọng trong việc phát triển nhận thức, giáo dục  
đạo đức, giáo dục thẩm mỹ và qua đọc thơ  kể  chuyện làm giàu vốn từ  cho  
trẻ, rèn luyện khả  năng phát âm và cách diễn đạt mạch lạc. Các tác phẩm 
thơ  chuyện chỉ có thể  phát huy tác dụng của nó khi cô biết  truyền tải được 
tư tưởng cảm xúc của tác giả và nội dung tác phẩm thông qua các hình thức  
2


nghệ thật hấp dẫn, phong phú, đa dạng. Qua đó giúp trẻ  phát huy được tính  
tích cực cá nhân ­ tự  tin ­ độc lập ­ sáng tạo ­ hình thành tư duy ­ khả năng 
ghi nhớ  có chủ  đích. Mà để  dạy trẻ  được những nội dung này và nắm bắt 
kiến thức được một cách có hệ  thống và chính xác, đòi hỏi người giáo viên 
phải biết đổi mới trong phương pháp dạy trẻ theo hướng tích cực hoá hoạt 
động lấy trẻ  làm trung tâm, trẻ  tự  mình khám phá ,  nhận xét phán đoán về 
những vấn đề  có liên quan đến môn học. Chính vì vậy,  để  nâng cao chất 
lượng cho trẻ  làm quen với  tác phẩm văn học mà  tôi  đã  mạnh dạn nghiên 
cứu và viết đề  tài:  “Một số  biện pháp nâng cao chất lượng trẻ 5­6 tuổi  
làm quen với văn học ở trường Mầm non”.
2. Mục tiêu nhiệm vụ của đề tài:
­ Mục tiêu : Nhằm giúp trẻ  đến trường mầm non tích cực hơn, hứng 
thú hơn đồng thời là phương tiện để phát triển ngôn ngữ cho trẻ, giúp trẻ có 
đủ vốn từ để nói năng lưu loát, diễn đạt  ngắn gọn, biết sử dụng từ đúng lúc, 
đúng chỗ. Thông qua nội dung các tác phẩm văn học giáo dục trẻ  biết yêu 
quý người hiền lành, biết ơn và yêu mọi người xung quanh…
­ Nhiệm vụ: Người giáo viên luôn tìm cho mình những “nghệ thuật lên 
lớp” để thực hiện được mục tiêu đề ra một cách tốt hơn…
3. Đối tượng nghiên cứu:
“Một số biện pháp nâng cao chất lượng trẻ 5­6 tuổi làm quen với văn 
học trong trường Mầm non”.

4. Phạm vi nghiên cứu:
­ Học sinh lớp lá 2 Buôn Nẵc, trường MN Hoa Sen – Xã Ea Bông –  
Huyện Krông Ana – Đăk Lăk.
5. Phương pháp nghiên cứu:
­ Phương pháp trực quan, đàm thoại, thực hành. ( Sử dụng lời nói kết  
hợp với hình ảnh, vật thật…). 
­ Phương pháp dùng lời kết hợp với trò chơi.
­ Phương pháp thực hành (trẻ và cô cùng thực hiện mọi lúc mọi nơi).
II. NỘI DUNG
1. Cơ sở lí luận:
Văn học là môn rất quan trọng đối với trẻ  mầm non, là phương tiện 
phát triển ngôn ngữ cho trẻ có đủ vốn từ để nói năng lưu loát, diễn đạt  ngắn 
gọn biết sữ  dụng từ  đúng lúc, đúng chỗ, không những thế  mà việc dạy trẻ 
làm quen với những từ  ngữ  nghệ  thuật như  từ  tượng hình, từ  tượng thanh  
giúp trẻ phát triển trí tưởng tượng, ngôn ngữ, khả năng quan sát, khả năng tư 
duy độc lập trong suy nghĩ. Xuất phát từ  những vai trò cụ  thể  đó việc dạy 
3


trẻ làm quen với văn học là môn học không thể thiếu trong trương trình chăm  
sóc giáo dục trẻ. Vì vậy, việc nâng cao chất lượng dạy trẻ làm quen với tác 
phẩm văn học là vấn đề  quan trọng trong đỗi mới hình thức tổ  chức giáo  
dục mầm non.
Trong mỗi tác phẩm văn học, thế giới mới của cuộc sống thực tại bao  
gồm thiên nhiên, xã hội, con người được diển tả, biểu đạt, truyền đạt trong 
những hình thức đa dạng độc đáo. Văn học nói về  thế giới loài vật, cỏ  cây, 
hoa lá, mọi hiện tượng thiên nhiên, vũ trụ mà trẻ  nhìn thấy được, những gì 
gần gũi trong môi trường sống của trẻ như làng quê, cánh đồng, dòng sông,  
lớp học, …Qua tác phẩm văn học, trẻ  bắt đầu nhận ra trong xã hội những  
mối quan hệ, những tình cảm gia đình, tình bạn, tình cô cháu,…Trẻ cũng dần 

nhận ra có một xã hội ràng buộc con người với nhau trong lịch sử đấu tranh  
cách mạng, trong tình làng nghĩa xóm. Văn học có thể cần đề cặp đến những  
lực lượng siêu nhiên như thần linh, ông bụt, cô tiên, phù thủy, quỷ sứ  và cả 
những phép màu còn tồn đọng trong tâm thức dân tộc. Đây cũng là đối tượng  
miêu tả của văn học làm nên sự phong phú, hấp dẫn của đời sống tinh thần.
Nhờ  được nghe, tiếp xúc với một số  lượng văn học, có những hiểu 
biết sơ đẳng về văn học, đó là khả năng mô tả cuộc sống xung quanh phong  
phú, hấp dẫn. Bước đầu trẻ sẽ nhận biết được sự khác nhau về nội dung và 
hình thức giữa các thể  loại thơ, chuyện. Không những giúp trẻ  cảm nhận  
được cái đặc sắc của cách diễn đạt hình tượng, nhà sư  phạm còn cần giúp  
trẻ phân biệt được hình tượng nghệ thuật với hiện thực, hình thành một số 
khái niệm văn học như: Thơ, chuyện, nhân vật, hình ảnh…, giúp trẻ trao đổi  
những điều đã được nghe và bộc lộ  những suy nghĩ của mình về  tác phẩm,  
nhằm phát triển đời sống tinh thần của trẻ.
Tác phẩm văn học là một chỉnh thể nghệ thuật, cần giúp trẻ nhận biết 
các mối quan hệ  biểu hiện giữa hoàn cảnh, trạng thái, tình huống và nhân 
vật; giữa lời kể, lời thuật, lời bạch trữ  tình và ngôn ngữ  nhân vật; Giữa 
không khí, âm sắc, giọng điệu chung của tác phẩm văn học và hành động văn 
học. Chưa yêu cầu trẻ phải nhớ hết mối quan hệ phức tạp và chưa đòi hỏi 
trẻ phân biệt quan hệ chính phụ  trong truyện mà chỉ  nhằm giúp trẻ  nhận ra 
tính liên tục của cốt truyện trong các mối liên quan đến nhân vật trung tâm 
của tác phẩm.
Với truyện kể, ta hãy giúp trẻ nhận ra, nhớ được sắc thái cơ bản trong  
giọng kể, lời thuật, phân biệt ngữ  điệu lời nói các loại nhân vật, giúp trẻ 
nhận ra ngôn ngữ  đời thường (khẩu ngữ) và ngôn ngữ  thơ  giàu nhạc tính.  
Qua tác phẩm  văn học, trẻ  quen dần tính chất nhiều ý nghĩa và tinh luyện  
của ngôn ngữ  văn hoá, dần dần tiến tới hiểu được nghĩa thực đến nghĩa  
bóng, từ nghĩa văn cảnh đến ý tưởng nhà văn muốn truyền đạt.

4



Khi cho trẻ  làm quen với tác phẩm văn học góp phần mở  rộng nhận 
thức, phát triển trí tuệ, giáo dục đạo đức, giáo dục thẩm mĩ, phát triển ngôn 
ngữ, phát triển ở trẻ hứng thú “đọc sách” kỹ năng đọc và kể tác phẩm.
2. Thực trạng:
Như chúng ta đã biết tác phẩm văn học thể hiện hiện thực cuộc sống  
bằng hình tượng nghệ  thuật. Bằng sức mạnh của tính hình tượng, sự  biểu 
cảm của ngôn ngử, những hình tượng con người, con vật, bức tranh thiên 
nhiên được vẽ  nên bằng ngôn ngữ  đã tác động mạnh mẽ  đến trẻ  em.  Ấn  
tượng trẻ  thu nhận được từ  tác phẩm văn học khi nghe đọc, kể  tác phẩm  
phụ thuộc vào trình độ phát triển nhận thức thẩm mỹ của trẻ, vào khả năng 
cảm nhận văn học trong sự  thống nhất giữa nội dung và hình thức nghệ 
thuật tác phẩm. Chúng ta đều nhận thấy rằng, trẻ  mẫu giáo có khả  năng 
cảm nhận văn học nghệ  thuật trong thể  hoàn chỉnh,  thống nhất giữa nội 
dung và hình thức tác phẩm bằng cách nghe người lớn đọc, kể  tác phẩm.  
Tuy nhiên trong quá trình tổ chức, hướng dẫn trẻ giáo viên thường hay mắc  
phải một số nhược điểm sau:
+ Đồ  dùng tranh  ảnh còn ít, dẫn đến việc luyện tập ít, nên tiết học  
buồn tẻ không đem lại kết quả như mong muốn.
+ Do đặc điểm tâm lý của trẻ  rất hiếu động, thích khám phá, tìm tòi, 
nên trẻ không thể chỉ ngồi nhìn và nghe cô giáo kể và đọc thơ. Chính vì vậy , 
nếu không có đồ dùng trực quan, không cho trẻ thao tác thực hành trên đồ vật 
đối tượng nhận biết thì trẻ  dễ  bị  phân tán chú ý, mức độ  hứng thú không 
cao, tri thức lĩnh hội được không sâu và hay bị quên.
+ Giáo viên còn nói nhiều, cách truyền đạt chưa lưu loát, chưa diễn 
cảm không phát huy được tính tích cực của trẻ  khi tham gia các hoạt động 
trong giờ.
Một trong những yếu tố ảnh hưởng không nhỏ đến nhận thức của trẻ 
đó là đặc điểm riêng của trường Mầm non Hoa Sen là trường có 5 địa điểm 

lẻ  và mỗi phân hiệu chưa có lớp phân từng độ  tuổi của trẻ. Với điều kiện 
kinh tế của phụ huynh còn gặp nhiều khó khăn nên ở lớp lá 2 mẫu giáo lớn 
5­  6  tuổi do tôi chủ  nhiệm đa phần là các cháu chưa qua lớp mẫu giáo bé, 
mẫu giáo nhỡ mà học luôn chương trình mẫu lớn. Trẻ  gặp nhiều khó khăn 
khi gặp phải một vấn đề  phức tạp mà không có sự  chuẩn bị  dần từ  những  
vấn đề đơn giản, ngoài ra còn có những thuận lợi và khó khăn sau:
2.1. Thuận lợi và khó khăn
* Thuận lợi:
­ Được sự  quan tâm của ban lãnh đạo nhà trường, đã tạo mọi điều 
kiện về trang thiết bị, về cơ sở vật chất…
5


­  Nhờ  sự  quan tâm giúp đỡ  nhiệt tình của chuyên môn  đã  xây dựng 
phương pháp đổi mới bằng công nghệ  thông tin, tổ  chức dự  giờ, hội giảng  
góp ý. Từ đó bản thân đã rút ra một số kinh nghiệm để nâng cao chất lượng  
giảng dạy.
­ Luôn được các đồng nghiệp trao đổi, học hỏi chuyên môn và giúp đỡ.
* Khó khăn :
­ Đa số phụ huynh làm nghề nông, kinh tế gia đình khó khăn, trình độ 
hiểu biết của họ còn hạn chế nên họ chỉ chú trọng đến việc làm kinh tế chứ 
không mấy quan tâm đến việc giáo dục dạy dỗ  con cái. Họ  không có thời 
gian để trò chuyện hay đọc kể chuyện cho trẻ nghe. Họ không nhiệt tình khi  
tham gia các buổi họp phụ  huynh cũng như  hỗ  trợ  cho giáo viên trong việc  
dạy và giáo dục cho trẻ.
­ 100% học sinh là người đồng bào dân tộc thiểu số, các cháu giao tiếp 
với nhau đều bằng tiếng mẹ  đẻ, ít hiểu tiếng Việt nên sự  tiếp thu bài của 
trẻ  trong lớp không đồng đều, trẻ  đánh giá nhận xét về  tính cách của nhân 
vật trong truyện một cách hời hợt, chưa chính xác và sâu sắc, nội dung kể 
chưa mạch lạc.

­ Do đặc thù của địa phương nên việc phát âm của trẻ  còn nhiều từ 
ngọng
­ Đồ dùng và đồ chơi cho trẻ còn hạn chế
­ Mặc dù có những khó khăn nhưng với tình cảm và trách nhiệm đối 
với các em đã thôi thúc tôi phải phát huy những thuận lợi, vượt qua những  
khó khăn để giúp trẻ học tốt hơn nữa bộ môn văn học.
2.2.Thành công và hạn chế:
­ Bước đầu thực hiện đề tài đã mang lại cho lớp tôi những thành công 
như: trẻ đến trường chuyên cần hơn, và khi đến lớp trẻ hứng hơn trong hoạt  
động  văn học, trẻ  tập trung chú ý, mạnh dạn tham gia trong giờ  học.  Phát 
triển tư duy và ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ…
­ Bên cạnh đó còn một vài hạn chế  như  : đa số  phụ  huynh khi trò 
chuyện với con em họ đều sử  dụng tiếng mẹ đẻ, họ  không có thời gian để 
trò chuyện hay đọc kể  chuyện cho trẻ  nghe hay nghe trẻ  nói. Sự  nhận thức 
của phụ  huynh còn hạn chế  dẫn đến một số  trẻ  còn nhút nhát, chưa mạnh 
dạn…
2.3. Mặt mạnh và mặt yếu.
­ Đa số  trẻ  học  ở  trường là dân địa phương cư  trú tại buôn nên quá 
trình trẻ đến lớp tương đối thuận tiện. Cơ sơ vật chất, đồ dùng, đồ chơi tuy 
còn thiếu thốn nhưng vẫn tạo được sự mới lạ đối với trẻ…
6


­ Do đời sống của người đồng bào còn khó khăn nên đa số phụ huynh 
của trẻ chỉ lo công việc nương rẫy mà chưa thực sự  quan tâm đến việc học 
của con em mình.
2.4. Các nguyên nhân các yếu tố tác động.
­ Các cháu đa số  là người đồng bào dân tộc thiểu số, phụ  huynh của 
các   cháu   chưa   coi   trọng   việc   đưa   các   cháu   đến   lớp   mầm   non,   các   cháu  
thường phải tự đến lớp một mình, không có sự đưa đón của bố mẹ, dẫn đến 

việc giáo viên không có cơ  hội gặp gỡ  các phụ  huynh để  trao đổi tình hình  
của các cháu ở lớp cũng như ở nhà. 
­ Cơ sở vật chất còn thiếu thốn trong việc giảng dạy của cô, đồ dùng 
đồ chơi phục vụ cho việc giảng dạy còn nhiều hạn chế….
­ Kiến thức học sinh không đồng đều, một số trẻ nhận thức còn chậm,  
yếu, chưa mạnh dạn trong hoạt động…chính vì vậy mà việc các cháu tiếp 
thu các tác phẩm văn học còn gặp rất nhiều hạn chế. 
ra:

2.5. Phân tích đánh giá các vấn đề về thực trạng mà đề tài đã đặt  

Văn học là môn rất quan trọng đối với trẻ  Mầm non, là phương tiện  
phát triển ngôn ngữ cho trẻ giúp trẻ có đủ vốn từ để nói năng lưu loát, diễn  
đạt ngắn gọn biêt sử dụng từ đúng lúc, đúng chỗ. Không những thế mà việc  
dạy trẻ làm quen với những từ ngữ nghệ thuật như từ tượng hình, từ tượng  
thanh giúp trẻ  phát triển trí tưởng tượng, óc quan sát, khả  năng tư  duy độc  
lập trong suy nghĩ.      Thông qua nội dung các tác phẩm giáo dục trẻ biết yêu 
quý người hiền lành, biết ơn và kính yêu ông bà, bố mẹ, anh chị, bạn bè, biết 
nhường nhịn em nhỏ.
Xuất phát từ  những vai trò cụ  thể  đó cho nên hoạt động dạy trẻ  làm 
quen với văn học là môn học không thể  thiếu trong chương trình chăm sóc 
giáo dục trẻ. Vì vậy việc nâng cao chất lượng dạy trẻ  làm quen với tác 
phẩm văn học là vấn đề  quan trọng trong đổi mới hình thức tổ  chức giáo  
dục mầm non. 
3. Giải pháp biện pháp:
3.1. Mục tiêu của giải pháp, biện pháp.
­ Trước tình hình thực tế  ở lớp tôi, tôi nghĩ việc nâng cao chất lượng  
cho trẻ dân tộc thiểu số làm quen với tác phẩm văn học là một việc hết sức  
quan trọng, rất cần thiết và cấp bách. Khi mới nghĩ đến điều này thì tưởng 
chừng như đơn giản nhưng trên thực tế lại không đơn giản tí nào, tôi đã tự 

hỏi phải làm thế  nào để  cung cấp ngôn ngữ  cho trẻ, giúp trẻ  có đủ  vốn từ 
để nói năng lưu loát, diễn đạt ngắn gọn, biêt sử dụng từ đúng lúc, đúng chỗ 
một cách hiệu quả. Nhận thức được ý nghĩa và tầm quan trọng của bộ môn 
nên qua quá trình thực hiện tôi đã sử dụng một số biện pháp sau:
7


3.2. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp và biện pháp:
Biện pháp 1. Khảo sát chất lượng học sinh đầu năm:
Để  áp dụng các biện pháp một cách tích cực và phù hợp cô cần đánh 
giá đúng mức độ nhận thức của trẻ ngay từ đầu năm, xếp loại trẻ theo đúng 
trình độ trẻ có. Qua việc khảo sát tình hình chất l ượng với bộ môn Làm quen 
với văn học ở  lớp tôi, tôi thấy tỉ  lệ  trẻ  đạt vẫn còn thấp hơn so với tỷ  lệ 
chưa đạt .
Tổng số 
trẻ

 Đạt  ( tỉ lệ % )

        25

     8  ( 32 %)

Chưa đạt ( tỉ lệ 
% )
       17 ( 68 % )

Từ  những vấn đề  trên tôi đã đưa thêm một số  biện pháp để  nâng cao 
chất lượng giúp trẻ  học tốt môn làm quen với văn học cho trẻ  5­6 tuổi một 
cách chính xác, bền vững, khắc phục được những khó khăn của địa phương,  

phát huy được tính tích cực của trẻ là thiết thực là cấp bách và cũng là điều 
quan trọng trong thực tế hiện nay.
Biện pháp 2: Tạo môi trường học tập cho trẻ:
Môi trường cho trẻ hoạt động là nơi cung cấp nguồn thông tin phong  
phú khuyến khích tính độc lập và hoạt động tích cực của trẻ. Môi trường 
giúp trẻ  tìm tòi khám phá và phát hiện những điều mới lạ  hấp dẫn trong 
cuộc sống, các kiến thức và kĩ năng của trẻ cũng được củng cố và bổ xung. 
Một môi trường đẹp, phong phú và phù hợp sẽ  gây hứng thú cho trẻ, trẻ  sẽ 
chú ý và ghi nhớ có chủ  định. Chính vì vậy, cần tạo cho trẻ môi trường lớp 
học phong phú, sáng tạo.  Ở  lớp tôi, tôi đã xây dựng môi tr ường trong lớp 
ngay tại các góc chơi như: “Bé thích xây gì ? ”, góc “Bé vui học toán”, “ Siêu 
thị  của bé”, “  Bé yêu văn học”,   “Bé muốn làm bác sĩ”.  Ở  mỗi góc cô đều 
trang trí những hình  ảnh gần gũi, quen thuộc với trẻ  có tính sáng tạo, phù 
hợp với từng nội dung chủ đề. 
Ví dụ  : góc “Bé vui học toán”  ở  chủ  đề  “ Thế  giới động vật ” cô sẽ 
trang trí vào từng góc tranh ảnh các con vật sao cho phù hợp.
­ Tôi luôn tận dụng diện tích phòng học, chú ý bố trí sắp xếp các góc 
học, đội hình để tạo môi trường học tốt và thoải mái cho trẻ .
­ Để giúp trẻ nâng cao khả năng cảm thụ  văn học thì việc tạo cơ hội  
cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học phải thường xuyên. Ngay từ đầu năm 
học Ban giám hiệu nhà trường đã trang bị  cho lớp nhiều quyển truyện, tạp  
chí. Ngoài ra tôi còn sưu tầm các sách văn học, các hoạ báo, tập chí, lịch cũ, 
nguyên liệu cho trẻ tự làm sách để  xây dựng một “Góc thư  viện” mang nội  
dung văn học, tại “Góc thư  viện” trẻ  được xem các tranh truyện, tạp chí, 
hoạ  báo. Sau đó cô kể  truyện cho trẻ  nghe về  nội dung những câu chuyện 
8


như  “Bác gấu đen và hai chú thỏ” hướng dẫn trẻ  cách tri giác các tranh 
truyện đó dần dần trẻ  có thể  tự  đọc. Tất nhiên có thể  lúc đầu trẻ  đọc theo 

trí nhớ, trẻ  nhớ  về  nội dung câu chuyện cô đã kể  rồi tự  kể  khớp với nội 
dung câu chuyện mà trẻ tri giác.
Bản thân tôi trước khi tổ  chức hoạt động cũng phải tự  luyện giọng 
kể, cách sử  dụng tranh, sách, rối mô hình… để  giúp trẻ  cảm thụ  được tác 
phẩm văn học đó một cách tốt nhất.
Các loại tranh  ảnh sách truyện do cô và trẻ  làm không chỉ  được sử 
dụng trong giờ học văn học mà còn được tôi sử dụng để trang trí lớp, làm đồ 
dùng đồ  chơi trong góc thư  viện.  Như  vậy trẻ  sẽ  được ôn luyện, củng cố 
kiến thức về các câu truyện bài thơ ở mọi lúc, mọi nơi, trong các thời điểm  
khác nhau .
Không những tôi tạo môi trường học tập trong lớp mà tôi còn tạo cho 
trẻ  môi trường hoạt động ngay ngoài lớp học như  xây dựng cho trẻ  “Góc 
thiên nhiên”  ở  ngoài hiên với nhiều loại cây hoa khác nhau. Qua đó giúp trẻ 
nhận biết được màu sắc quen thuộc trong cuộc sống và trẻ  sẽ  học và liên  
tưởng đến những câu chuyện liên quan đến những loài cây, loài hoa…..từ đó 
trẻ  tham gia giúp  cô chăm sóc góc thiên nhiên. Ngoài ra tôi còn tận dụng 
những gì có sẵn trên sân trường để  trẻ  tiếp thu được kiến thức và kĩ năng 
theo yêu cầu của chương trình đề ra.
Kết quả cho thấy trẻ thực sự thích thú khi tham gia vào các hoạt động,  
kiến thức, cảm nhận và sự phát triển ngôn ngữ của trẻ được nâng dần lên.
Biện pháp 3:  Làm đồ dùng, đồ chơi phục vụ cho dạy và học của cô  
và trẻ:
Là giáo viên trực tiếp chăm sóc giáo dục trẻ, tôi đã tìm hiểu và trực 
tiếp một số  phụ  huynh làm nghề  thợ  may, tôi đưa những con rối đã làm 
được cho phụ huynh xem và trao đổi với phụ huynh về cách làm rối, xin phụ 
huynh góp ý, giúp đỡ  thêm các nguyên liệu để  làm rối, như  những tấm vải 
để  bọc đầu rối, quần áo rối tay, may  ủng hộ  những bộ  trang phục vừa với  
trẻ để trẻ sử dụng trong các tiết học và để tập kịch như: Quần áo mèo, thỏ,  
dê, sói. Để đủ bộ tôi tìm đến các tiệm may thú nhồi bông, đặt may thêm các 
mũ con vật cho phù hợp với các nhân vật trong truyện. Những trang phục đó 

có thể sử dụng được nhiều trong các thể loại truyện thơ.
Ví dụ:
 Thơ :  “Mèo đi câu cá”
Truyện: “Ai đáng khen nhiều hơn”
   “Cáo và thỏ”
   “Chú dê đen”...
9


Còn những con rối tay khi biểu diễn cho trẻ  xem yêu cầu phải có  
không gian, mô hình để diễn, tôi đã vận động phụ huynh đóng giúp bộ khung 
để treo phông màn khi diễn, bộ khung lắp ráp bằng các chốt gỗ nhỏ tháo lắp 
dễ dàng, tiện sử dụng, khi không sử dụng được tháo xếp gọn gàng.
Một số  câu chuyện bài thơ  tôi đã tự  làm như: Cắt, dán, tô mà u khuôn 
mặt của nhân vật, phần thân tôi lấy giấy bìa từ hộp bánh cuộn tròn dùng dao 
khoét lỗ vừa hai ngón tay, khi sử dụng luồn ngón tay giữa và ngón trỏ vào để 
di chuyển, nhân vật đi lại trên sa bàn rất sống động và ngộ  nghĩnh. Không 
dừng lại ở đó, tôi còn tìm các tập báo hoạ mi, xem các chuyên mục: “Chuyện  
kể của chim gõ kiến” những câu chuyện bài thơ với nhiều hình ảnh đẹp nội 
dung phù hợp với chủ điểm.
Ví dụ: Truyện “Khỉ con đi xem phim” ­ Chủ đề thế giới động vật.
“ Ba anh em” ­ Chủ đề ngành nghề
Thơ: “Hoa mào gà” ­ Chủ đề thế giới thực vật
Đưa photo phóng hình to, rồi cùng trẻ tô màu tranh trong giờ hoạt động  
góc  ở  góc nghệ  thuật tạo cho trẻ  niềm vui được giúp cô làm đồ  dùng dạy 
học. Để có nhiều trẻ tham gia tôi cho trẻ làm hai bộ để khi kể  chuyện sáng 
tạo hai đội sẽ thi đua ghép tranh kể chuyện.
Để  củng cố  nội dung tác phẩm, tôi treo những bức tranh đó lên yêu 
cầu trẻ, mỗi lần sẽ có một bạn lên chọn bức tranh mình thích và đọc lời thơ 
ứng với nội dung bức tranh và nói vì sao mình chọn bức tranh đó. Những trẻ 

khi giúp cô tô màu đã rất vui vì trong khi đọc và xem các bức tranh minh họa 
trẻ tiếp nhận thế giới hiện thực trong tác phẩm văn học.
Biện pháp 4:   Cho trẻ  làm quen trong các giờ  đón trẻ, hoạt động  
ngoài trời, trước khi trẻ ngủ, thời gian vui chơi tự do buổi chiều.
Cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học không chỉ ở hoạt động chung, 
hoạt động góc tôi còn tận dụng mọi thì giờ  hoạt động đều có thể  đưa văn 
học đến với trẻ bằng các trò chơi một cách nhẹ nhàng như đọc các bài đồng 
dao, ca dao có tính chất vận động nhẹ   nhàng lại có khả năng rèn luyện phát 
triển ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ.
Ví dụ: “Nu na nu nống”
 “Ông sảo ông sao”
 “Gánh gánh gồng gồng”.
Trò chơi vận động ở giờ hoạt động tôi sử dụng các trò chơi vận động 
kèm lời thơ với các bài.
Ví dụ: “Rồng rắn lên mây”
 “Chi chi chành chành”
10


 “Lộn cầu vồng”.
Trước khi trẻ  ngủ  chọn những bài thơ  êm dịu, nhẹ  nhàng mang tính 
chất lời ru như bài thơ “Giờ đi ngủ” hoặc mở nhỏ nhạc lời bài hát ru của các 
nghệ   sỹ,   “Ru   con”,   “Mẹ   yêu   con”,   “Ru   con   mùa   đông”,   “Ơn   nghĩa   sinh  
thành”...
Ở hoạt động buổi chiều tôi chọn bài thơ, câu chuyện trong báo hoạ mi  
đọc cho trẻ  nghe rồi đặt câu hỏi gợi mở  để  đạt được mức độ  sâu sắc của  
cảm thụ văn học. Đó là một giải pháp hiệu quả để trẻ nhận thức, thức tỉnh  
trong trẻ những gì vốn có khiến trẻ không phải thụ động nghe cô giáo đọc và  
kể tác phảm rồi ghi nhớ một cách thụ động.
Ví dụ: Tôi giới thiệu tên chuyện: Đọc cho trẻ  nghe đến khoảng 2/3 

nội dung chuyện tôi cho trẻ đưa ra các nhận xét về các hình tượng nhân vật, 
xác định thái độ của mình với các nhân vật bằng các câu hỏi “cháu thấy câu 
chuyện này có hay không ? ” Vì sao?  “Nếu cháu là nhân vật ... Cháu có làm 
như  vậy không? Tại sao? ... Trong khi trả  lời câu hỏi của cô giáo, trẻ  phải 
thể  hiện sự  hiểu biết của mình về  tư  tưởng tác phẩm, học cách trình bày, 
thể hiện các ý nghĩ của mình.
Biện pháp 5 : Một số hình thức vào bài gây hứng thú cho trẻ. 
Để tìm được cách vào bài gây hứng thú cho trẻ đòi hỏi người giáo viên  
ngoài lòng yêu nghề, mến trẻ cần phải có năng lực sư phạm trình độ chuyên 
môn, hiểu tâm lý trẻ. Trong một tiêt dạy phần vào bài tuy chiếm ít thời gian 
nhưng lại giữ một vị trí không kém phần quan trọng.
Đối với trẻ 4 tuổi việc hiểu biết và cảm nhận được về tác phẩm văn  
học chủ yếu là do cô giáo truyền thụ thông qua giọng kể, cac đồ  dùng trực 
quan…cho nên cô giáo có thể dẫn dắt vào bài bằng rất nhiều hình thức khác 
nhau như câu đố, trò chơi dân gian, tiếng kêu, bài hát…có liên quan đến chủ 
đề tới nội dung câu chuyện.
Cô vào bài cần gắn gọn, dí dỏm, dễ hiểu và thu hút trẻ
Sử  dụng các trò chơi bài hát để  vào bài như: nghe tiếng kêu đoán tên  
con vật, trò chơi bắt chước tiếng kêu các con vật…Cô dùng hình thức cho 
trẻ  vừa hát vừa vận động theo lời bài hát giúp trẻ  vào tiết nhẹ  nhàng thoải 
mái hơn. 
Ngoài ra tôi còn sử dụng những trò chơi dân gian để vào bài cho trẻ rất 
thích.
Sử  dụng câu đố  để  vào bài : trong các tiết truyện theo chủ  đề  tôi sử 
dụng các câu đố phù hợp với bài dạy để tạo sự tò mò của trẻ.
Nhờ  các hình thức vào bài mới đơn giản nhẹ nhàng bằng các trò chơi 
dân gian, trò chơi đóng vai, câu đố….Phù hợp với từng chủ đề để gây hứng 
thú đối với trẻ, giúp trẻ  dễ  hiểu, dễ  tiếp thu bài hơn, luôn có cảm giác tự 
11



nhiên thoải mái không bị  gò bó khi vào bài mới.  Bằng các hình thức giới 
thiệu bài phong phú, hấp dẫn không chỉ thu hút trẻ mà còn giúp trẻ  nhớ lâu, 
tạo điều kiện cho trẻ ghi nhớ có chủ định, phát triển ngôn ngữ và tư duy cho 
trẻ.
Biện pháp  6:    Sửa lỗi về  phát âm  ( sữa ngọng)  và luyện phát âm  
giúp trẻ.
Ở  độ  tuổi này bộ  máy phát âm của trẻ  chưa hoàn thiện cho nên vẫn  
còn một số  trẻ  thường phát âm chưa đúng một số  âm như  N­L (làm – nàm) 
KH – H (không – hông). Vì vậy, luyện phát âm cho trẻ là khâu đầu tiên trong 
quá trình giáo dục ngôn ngữ, là cơ  sở  đầu tiên để hình thành tiếng nói của 
trẻ.
Ở  lứa tuổi này trẻ  bắt trước ngữ điệu một cách dễ  dàng và tự  nhiên, 
chính vì vậy để  cho trẻ  phát âm chính xác, rõ ràng,  mạch lạc, ngữ  điệu rõ 
ràng tự  nhiên và không bị  ngọng thì giáo viên phải phát âm chính xác, to, rõ 
ràng, chậm, có ngữ  điệu để  thu hút trẻ  và có ý thức dạy trẻ phát âm và sửa  
nỗi phát âm cho trẻ.
Đối với những từ  khó như  :  l,  n,  s,  x,  p,  q,  t,  d,  đ….cô phải phát âm 
mẫu cho trẻ  nhiều lần, yêu cầu trẻ  chú ý khi cô phát âm và nhận xét cách 
phát âm, cô cho trẻ  phát âm và hỏi miệng, môi, lưỡi phải như  thế  nào? Cô  
giới thiệu cho trẻ rõ cách phát âm.
Cô ôn luyện cách phát âm cho trẻ bằng các trò chơi được sử dụng rất 
nhiều, rất đa dạng và phong phú. 
VD: Trò chơi “ Bắt chước tiếng kêu của các con vật”.
Bò kêu: Bò….
Mèo kêu: Mèo….
Chó sủa: Gâu gâu….
Gà gáy: Ò ó o….
Hay trò chơi “Bắt chước tiếng kêu của các phương tiện giao thông”
Máy bay: ù ù…

Tàu hỏa : Tu tu…..
Ô tô : Píp píp……
Xe đạp : Kính koong…….
Cô sử dụng các bài thơ ca dao đồng dao luyện phát âm cho trẻ giúp trẻ 
cảm nhận được nhịp điệu, vần diệu của tiếng việt. 
VD: Với chữ N cô đọc bài đồng dao “ Nu na nu nống” với chữ D đọc 
bài “ Dung dăng dung dẻ”, với chữ R đọc bài “ Con rùa”…
12


Ngoài ra cô còn sử dụng những trò chơi dân gian kết hợp với lời ca: Cô 
sử  dụng những bài hát dân gian trong các buổi biểu diễn thơ  ca s áng tạo, 
giúp trẻ  có niền tin ham thích văn học, trẻ  vừa được chơi vừa được luyện  
cách phát âm được nhiều hình thức khác nhau, dần dần trẻ có ý thức về âm 
điệu, nhịp điệu, tiết tấu khả ngăng phát âm được, rèn luyện giúp cho trẻ phát 
âm chuẩn, chính xác các từ, các câu quen thuộc trong đời sống hàng ngày.
Biện Pháp 7: Đưa công nghệ thông tin vào hoạt động giảng dạy.
Phương pháp dạy học bằng công nghệ  thông tin trong giáo dục mầm  
non tạo ra một môi trường dạy học tương tác cao, sống động, hứng thú và 
đạt hiệu quả  cao của quá trình dạy học đa giác quan cho trẻ. Hình  ảnh 
những  nhân vật  ngộ   nghĩnh, những bông  hoa biết  cử   động  đủ   màu sắc, 
những hàng chữ  biết đi và những con số  biết nhảy theo nhạc hiện ngay ra  
với hiệu  ứng của những âm thanh sống động ngay lập tức, thu hút được sự 
chú ý và kích thích hứng thú của trẻ vì được chủ động hoạt động nhiều hơn 
để khám phá nội dung bài giảng .
Để  hoạt động cho trẻ  làm quen với tác phẩm văn học, dù là thơ  hay 
truyện. Muốn đạt kết quả  cao thì việc đầu tiên giáo viên phải chuẩn bị  tốt 
đồ dùng dạy học, đồ  dùng đẹp, hấp dẫn sẽ thu hút sự  chú ý của trẻ. Trước 
đây giáo viên thường sử dụng tranh minh hoạ làm đồ  dùng chính trong hoạt 
động cho trẻ  làm quen với tác phẩm văn học. Song với hình thức đổi mới  

hiện nay, thời đại công nghệ  thông tin nên việc  ứng dụng công nghệ  thông 
tin vào bài giảng mang lại kết quả rất cao. Biện pháp này luôn gây sự chú ý, 
tò mò cho trẻ. Vì vậy giáo viên nên đưa công nghệ  thông tin vào giảng dạy 
để mang lại kết quả cao. Đơn giản là các hình ảnh đưa lên máy sử dụng các  
hiệu ứng, màu sắc phù hợp cũng đã gây sự chú ý của trẻ.
Biện pháp 8 : Trao đổi với phụ huynh.
Như chúng ta đã thấy môi trường tiếp xúc của trẻ chủ yếu là gia đình  
và nhà trường. Chính vì vậy việc kết hợp giữa gia đình và nhà trường là một  
biện pháp không thể thiếu. Phụ huynh chính là nhân tố quyết định trong việc 
tạo nguồn nhiên liệu để chúng tôi làm đồ dùng của các góc, nhất là góc làm 
quen với văn học. Ngay đầu năm học tôi đã tổ  chức họp phụ  huynh, tuyên 
truyền với phụ huynh về tầm quan trọng của việc cho trẻ đến trường để trẻ 
được làm quen với trường lớp, với các bạn, giao lưu với các bạn. Ngoài ra 
tôi còn trao đổi với phụ huynh về vấn đề chăm sóc và giáo dục trẻ ở trường 
cũng như  ở nhà để cô giáo và phụ huynh cùng kết hợp dạy trẻ. Đặc biệt tôi  
đề  cập đến tầm quan trọng của bộ  môn “Làm quen với văn học” vì đây là 
môn học giúp trẻ  phát triển ngôn ngữ  một các mạch lạc, giúp trẻ  phát triển  
khả năng cảm thụ văn học, qua các tác phẩm trẻ hiểu biết về thế giới xung  
quanh .

13


Vận động phụ  huynh hỗ  trợ  vật liệu, nguyên liệu như: giấy, sách, 
những lọ nhựa, vải vụn để làm rối kể chuyện cho trẻ.
Đối với những trẻ tiếp thu chậm tôi trực tiếp trao đổi với phụ  huynh  
để cùng đưa ra những biện pháp để trẻ tiếp thu kiến thức một cách tốt nhất.
Động viên phụ  huynh ngoài những giờ  làm việc, vui chơi hàng ngày  
của gia đình nên dành một số thời gian nhất định để đọc truyện cho trẻ nghe 
để bố  mẹ và trẻ cùng được thư  giản bằng các câu chuyện có nội dung giáo 

dục nhẹ nhàng. Tôi hướng dẫn cho các bậc phụ huynh chọn các câu chuyện 
trong và ngoài chương trình để đọc và kể  cho trẻ nghe nhằm mở rộng kiến  
thức cho trẻ,  đồng thời cùng phối hợp với giáo viên trong việc thực hiện 
chương trình dạy trẻ.
3.3. Điều kiện để thực hiện giải pháp.
Để  thực hiện biện pháp trên người giáo viên phải thật sự  yêu nghề,  
mến trẻ, luôn gần gũi yêu thương trẻ, không có sự phân biệt trẻ người đồng 
bào hay người kinh…bên cạnh đó người giáo viên thường xuyên sưu tầm 
nhiều đồ dùng, đồ chơi phục vụ cho các hoạt động nhằm tạo hứng thú và lôi 
cuốn trẻ hơn, không dừng lại ở đó bản thân người giáo viên cần phải tìm tòi 
không ngừng học tập để nâng cao trình độ chuyên môn, học hỏi những kinh  
nghiệm của thế  hệ  đi trước nhằm trang bị  cho mình những nghệ  thuật lên 
lớp hay hơn nữa.
3.4. Mối quan hệ giữa các giải pháp, biện pháp.
Các biện pháp đã nêu trong đề tài có mối quan hệ mật thiết với nhau,  
nó bổ sung cho nhau, tạo thành một mối liên kết với nhau ( vd: muốn trẻ biết  
đọc thơ, kể  chuyện diễn cảm, nói đúng câu từ  và hiểu tiếng Việt chúng ta 
không những chỉ  dạy trẻ   ở trường mà chúng ta phải biết phối hợp với phụ 
huynh của trẻ ở nhà, nhờ họ tạo điều kiện khi trẻ ở nhà cũng có thể cho trẻ 
làm quen với văn học như  hát ru cho trẻ  ngủ, kể  chuyện cho trẻ  nghe, dạy  
trẻ  đọc thơ, đưa ra các câu hỏi yêu cầu trẻ  trả  lời, uốn nắn câu từ  cho  
trẻ…). 
Bằng sự  cố  gắng của bản thân, luôn ham học hỏi và mạnh dạn áp 
dụng những biện pháp trên, nhằm phát triển ngôn ngữ cho trẻ thông qua hoạt 
động làm quen với văn học, tôi nhận thấy việc kết hợp và sử  dụng nhiều  
hình thức khác nhau để phát triển ngôn ngữ cho trẻ là một phương pháp hữu  
hiệu để  đạt được kết quả  cao nhất phù hợp với đặc điểm tâm sinh lí của  
trẻ.
cứu.


3.5. Kết quả  khảo nghiệm, giá trị  khoa học của vấn đề  nghiên  
­ Kết quả khảo nghiệm:
14


Qua một vài kinh nghiệm tôi tự nghiên cứu và áp dụng cho các cháu ở 
lớp tôi tuy chỉ  trong một thời gian ngắn nhưng tôi thấy có sự  chuyển biến 
một cách rõ rệt và đạt kết quả như sau :
Thời gian

  Đầu năm
       Kiến thức của trẻ

Cuối năm
Kiến thức của trẻ

    Đạt

8 trẻ = 32%

21 trẻ = 84%

   Chưa đạt

17 trẻ = 68%

4 trẻ = 16%

­ Giá trị  khoa học: Khi đưa các biện pháp trên vào giảng dạy tôi thấy 
trẻ  hứng thú nghe kể  chuyện và phát triển tốt hơn về  ngôn ngữ.  Đặc biệt 

thông qua các tác phẩm văn học trẻ được tìm hiểu thế giới xung quanh, được 
khám phá thế  giới xung quanh với nhiều hình thức phong phú, hấp dẫn với  
trẻ, tạo cho trẻ hứng thú say mê hơn khi tham gia học tập.
4. Kết quả thu được qua khảo nghiệm, giá trị  khoa học của vấn  
đề nghiên cứu.
+ Qua một vài kinh nghiệm tôi tự  tìm tòi, nghiên cứu và áp dụng cho 
các cháu  ở  lớp tôi tuy chỉ  trong một thời gian ngắn nhưng tôi thấy có sự 
chuyển biến một cách rõ rệt, có hiệu quả, và đạt được kết quả rất cao.
­ Trẻ hào hứng học tập, tập trung chú ý, mạnh dạn tham gia đạt:  100 
%
­ Trẻ có kiến thức về văn học phù hợp với độ tuổi đạt : 84 %
­ Phát triển tư duy và ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ.
­ Trẻ trả lời đúng câu hỏi của cô là 98 %
+ Giá trị  khoa học : Với đề  tài trên tuy tôi chỉ  áp dụng một vài biện  
pháp nhỏ nhưng nó đã mang lại cho lớp tôi những kết quả rất lớn trong việc  
phát triển ngôn ngữ  cho trẻ, nhờ  đó trẻ  tích cực giao tiếp hơn, thích khám 
phá thế  giới xung quanh và đặt ra các câu hỏi tò mò về  sự  vật…, làm giàu 
kho tàng kiến thức cho trẻ sau này.
III. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
1. Kết luận: 
Qua bản sáng kiến “Một số biện pháp nâng cao chất lượng trẻ  5 – 6 
tuổi làm quen với văn học ở trường Mầm non”. Bản thân tôi thấy rằng, việc 
làm quen với tác phẩm văn học cho trẻ  5­6 tuổi là một trọng tâm những nội 
dung lớn của chương trình giáo dục cho trẻ Mầm non. Nhằm phát triển ngôn 
ngữ và các mặt phát triển khác của nhân cách toàn diện, góp phần quan trọng 
vào việc chuẩn bị cho trẻ học ở phổ thông sau này.
15


Ngành giáo dục mầm non là ngành học đặc biệt trong sự  nghiệp đào 

tạo con người mới, là cơ  sở  hình thành và phát triển con người. Để  thực 
hiện nhiệm vụ  cao cả  đó đòi hỏi người giáo viên mầm non phải có phẩm 
chất đạo đức tốt, lối sống lành mạnh, lập trường tư tưởng vững vàng, không 
ngừng học hỏi, luôn bồi dưỡng trau dồi kiến thức, rèn kỹ  năng phát âm 
chuẩn cho trẻ, kỹ  năng này đóng một vị  trí rất quan trọng trong cuộc sống 
hàng ngày của trẻ, giúp trẻ có nhiều vốn từ mới làm giàu cho kho tàng kiến 
thức của trẻ. 
Muốn giáo dục trẻ đạt kết quả tốt, người giáo viên phải có tâm huyết  
với nghề, có tấm lòng yêu nghề, mến trẻ, phải nắm rõ đặc điểm tâm sinh lý  
của trẻ. Người giáo viên phải có trình độ  chuyên môn vững vàng, không 
ngừng học hỏi nâng cao trình độ  chuyên môn hoàn thành tốt nhiệm vụ  của 
mình.
2. Kiến nghị:
­ Nhà trường cần tạo điều kiện cho giáo viên được tham quan học tập 
ở  các đơn vị  khác để  trau dồi, học hỏi kinh nghiệm, học hỏi dự  giờ  những 
tiết dạy mẫu, dạy giỏi để nâng cao trình độ chuyên môn.
­  Bổ  sung hỗ  trợ  tài liệu đổi để  giáo viên được học hỏi, tiếp cận  
những cái mới.
­ Chuyên môn tạo nhiều điều kiện cho giáo viên chúng tôi được tham 
dự  các lớp tập huấn cũng như  tổ  chức các buổi chuyên đề  về  chương trình 
mầm   non  mới,  giúp  cho   giáo   viên  chúng  tôi  trao  dồi  thêm  kiến  thức  về 
chuyên môn nghiệp vụ để chúng tôi hoàn thành nhiệm vụ tôt hơn .
­ Để  phát triển ngôn ngữ  cho trẻ  được tốt hơn thông qua hoạt động 
làm quen văn học, tôi mong nhà trường tạo mọi điều kiện để  đồ  dùng dạy 
học và đồ chơi của trẻ được phong phú, đa dạng hơn.
Trên   đây   là   một   số   kinh   nghiệm   của   tôi   đưa   ra   còn   nhiều   hạn  
chế mong được các cấp lãnh đạo, chi em đồng nghiệp góp ý kiến bổ xung và  
nhận xét để bài viết của tôi được phong phú, sáng tạo và hiệu quả hơn nữa.
Tôi xin chân thành cảm ơn
                                                         EaBông, ngày 20 tháng 02 năm 2016

                                                                      Người viết

                                                                               
                                                                              H’ Ngoăc Hmok

16


NHẬN XÉT CỦA HỘI ĐỒNG CHẤM SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………...........................................................................
.....................
                                                                      CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG 

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Tài liệu bồi dưỡng thường xuyên
2. Tài liệu về  biện pháp nâng cao chất lượng trẻ  làm quen với tác 
phẩm văn học.
3. Tài liệu tập huấn chuyên đề giáo dục mầm non mới
4. Chuyên đề đặc san giáo dục mầm non
5. Tài liệu về  một số  bài sáng kiến kinh nghiệm của Bộ  giáo dục  
mầm non.

17



18



×