MỤC LỤC
I. PHẦN MỞ ĐẦU:
Trang
1. Lý do chọn đề tài………………………………………………….2
2. Mục tiêu nhiệm vụ của đề tài…………………………………… 3
3. Đối tượng nghiên cứu……………………………………………. 3
4. Phạm vi nghiên cứu……………………………………………….3
5. Phương pháp nghiên cứu…………………………………………..
3
II. NỘI DUNG:
1. Cơ sở lý luận:…………………………………………………… 4
2. Thực trạng…………………………………………………………5
2.1. Thuận lợi, khó khăn…………………………………………….. 6
2.2. Thành công, hạn chế……………………………………………..7
2.3. Mặt mạnh, mặt yếu………………………………………………7
2.4. Các nguyên nhân và yếu tố tác động…………………………… 7
2.5. Phân tích dánh giá các vấn đề về thực trạng…………………… 7
3. Các giải pháp, biện pháp thực hiện:……………………………… 7
3.1. Mục tiêu của biện pháp, giải pháp……………………………….7
3.2. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp………… 8
3.3. Điều kiện thực hiện giải pháp, biện pháp……………………… 14
3.4. Mối quan hệ giữa các biện pháp, giải pháp…………………… 14
3.5. Kết quả khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu… 14
4. Kết quả thu được qua khảo nghiệm……………………………… 15
III. KẾT LUẬN – KIẾN NGHỊ:
1. Kết luận………………………………………………………… 15
2. Kiến nghị………………………………………………………… 15
Tài liệu tham khảo…………………………………………………… 17
1
Đề tài
MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG TRẺ 5 6 TUỔI
LÀM QUEN VỚI VĂN HỌC Ở TRƯỜNG MẦM NON
I. PHẦN MỞ ĐẦU.
1. Lý do chọn đề tài :
Từ khi lọt lòng mẹ đến lúc chập chững tập đi, tập nói, đến lúc trẻ biết
viết, đọc thì văn học là chiếc cầu nối, là phương tiện dẫn dắt trẻ. Nói những
tiếng nói, đi những bước đi đầu tiên, ngôn ngữ trau chuốt của trẻ, ca dao,
chuyện kể là tấm gương mẫu mực về lời ăn tiếng nói cho trẻ học tập là
phương tiện hữu hiệu trong việc giáo dục trẻ lòng yêu thiên nhiên, yêu quê
hương, đất nước, tình yêu mến bạn bè, với những người thân, biết được
việc làm tốt, biết yêu cái đẹp, cái thiện, gét cái ác độc, phê phán những việc
xấu, kính yêu Bác Hồ, thật thà, ngoan ngoãn…và còn là phương tiện hình
thành các phẩm chất đạo đức trong sáng, mà đặc biệt ở trẻ 5 6 tuổi thì vốn
từ và ngôn ngữ của trẻ được phát triển mạnh mẽ, trẻ nói mạch lạc, nói diễn
cảm, nói đúng câu, đúng từ và đúng ngữ pháp.
Qua việc cho trẻ làm quen văn học chính là hình thành ở trẻ những tình
cảm đạo đức tốt đẹp, những cảm xúc thẫm mỹ, phát triển trí tưởng tượng
như: Lòng yêu thiên nhiên cây, hoa, lá, lòng kính trọng yêu thương gần gũi và
giúp đỡ những người thân xung quanh trẻ như ông bà, bố mẹ, cô giáo, anh
chị em. Thông qua hoạt động này trẻ làm tái tạo và sáng tạo thêm những tình
tiết của tác phẩm một cách hồn nhiên phù hợp với nội dung của tác phẩm.
Đồng thời trẻ đọc thuộc thơ, kể lại chuyện được. Chính vì thế, để đạt được
mục đích của môn học làm quen với văn học bản thân tôi đã nghiên cứu suy
nghĩ, tìm ra một số biện pháp để giảng dạy tốt môn Làm quen văn học.
Là giáo viên trực tiếp đứng lớp trẻ 56 tuổi và 100% trẻ là người đồng
bào dân tộc thiểu số, tất cả các cháu đều là lần đầu tiên đến trường và chưa
qua chương trình lớp Chồi, các cháu đến lớp còn nhút nhát, chưa mạnh dạn,
ngôn ngữ giao tiếp tiếng việt của trẻ còn nhiều hạn chế nhất là trong việc
làm quen với các tác phẩm văn học. Từ đó tôi nhận thấy rằng bộ môn làm
quen văn học có tầm quan trọng trong việc phát triển nhận thức, giáo dục
đạo đức, giáo dục thẩm mỹ và qua đọc thơ kể chuyện làm giàu vốn từ cho
trẻ, rèn luyện khả năng phát âm và cách diễn đạt mạch lạc. Các tác phẩm
thơ chuyện chỉ có thể phát huy tác dụng của nó khi cô biết truyền tải được
tư tưởng cảm xúc của tác giả và nội dung tác phẩm thông qua các hình thức
2
nghệ thật hấp dẫn, phong phú, đa dạng. Qua đó giúp trẻ phát huy được tính
tích cực cá nhân tự tin độc lập sáng tạo hình thành tư duy khả năng
ghi nhớ có chủ đích. Mà để dạy trẻ được những nội dung này và nắm bắt
kiến thức được một cách có hệ thống và chính xác, đòi hỏi người giáo viên
phải biết đổi mới trong phương pháp dạy trẻ theo hướng tích cực hoá hoạt
động lấy trẻ làm trung tâm, trẻ tự mình khám phá , nhận xét phán đoán về
những vấn đề có liên quan đến môn học. Chính vì vậy, để nâng cao chất
lượng cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học mà tôi đã mạnh dạn nghiên
cứu và viết đề tài: “Một số biện pháp nâng cao chất lượng trẻ 56 tuổi
làm quen với văn học ở trường Mầm non”.
2. Mục tiêu nhiệm vụ của đề tài:
Mục tiêu : Nhằm giúp trẻ đến trường mầm non tích cực hơn, hứng
thú hơn đồng thời là phương tiện để phát triển ngôn ngữ cho trẻ, giúp trẻ có
đủ vốn từ để nói năng lưu loát, diễn đạt ngắn gọn, biết sử dụng từ đúng lúc,
đúng chỗ. Thông qua nội dung các tác phẩm văn học giáo dục trẻ biết yêu
quý người hiền lành, biết ơn và yêu mọi người xung quanh…
Nhiệm vụ: Người giáo viên luôn tìm cho mình những “nghệ thuật lên
lớp” để thực hiện được mục tiêu đề ra một cách tốt hơn…
3. Đối tượng nghiên cứu:
“Một số biện pháp nâng cao chất lượng trẻ 56 tuổi làm quen với văn
học trong trường Mầm non”.
4. Phạm vi nghiên cứu:
Học sinh lớp lá 2 Buôn Nẵc, trường MN Hoa Sen – Xã Ea Bông –
Huyện Krông Ana – Đăk Lăk.
5. Phương pháp nghiên cứu:
Phương pháp trực quan, đàm thoại, thực hành. ( Sử dụng lời nói kết
hợp với hình ảnh, vật thật…).
Phương pháp dùng lời kết hợp với trò chơi.
Phương pháp thực hành (trẻ và cô cùng thực hiện mọi lúc mọi nơi).
II. NỘI DUNG
1. Cơ sở lí luận:
Văn học là môn rất quan trọng đối với trẻ mầm non, là phương tiện
phát triển ngôn ngữ cho trẻ có đủ vốn từ để nói năng lưu loát, diễn đạt ngắn
gọn biết sữ dụng từ đúng lúc, đúng chỗ, không những thế mà việc dạy trẻ
làm quen với những từ ngữ nghệ thuật như từ tượng hình, từ tượng thanh
giúp trẻ phát triển trí tưởng tượng, ngôn ngữ, khả năng quan sát, khả năng tư
duy độc lập trong suy nghĩ. Xuất phát từ những vai trò cụ thể đó việc dạy
3
trẻ làm quen với văn học là môn học không thể thiếu trong trương trình chăm
sóc giáo dục trẻ. Vì vậy, việc nâng cao chất lượng dạy trẻ làm quen với tác
phẩm văn học là vấn đề quan trọng trong đỗi mới hình thức tổ chức giáo
dục mầm non.
Trong mỗi tác phẩm văn học, thế giới mới của cuộc sống thực tại bao
gồm thiên nhiên, xã hội, con người được diển tả, biểu đạt, truyền đạt trong
những hình thức đa dạng độc đáo. Văn học nói về thế giới loài vật, cỏ cây,
hoa lá, mọi hiện tượng thiên nhiên, vũ trụ mà trẻ nhìn thấy được, những gì
gần gũi trong môi trường sống của trẻ như làng quê, cánh đồng, dòng sông,
lớp học, …Qua tác phẩm văn học, trẻ bắt đầu nhận ra trong xã hội những
mối quan hệ, những tình cảm gia đình, tình bạn, tình cô cháu,…Trẻ cũng dần
nhận ra có một xã hội ràng buộc con người với nhau trong lịch sử đấu tranh
cách mạng, trong tình làng nghĩa xóm. Văn học có thể cần đề cặp đến những
lực lượng siêu nhiên như thần linh, ông bụt, cô tiên, phù thủy, quỷ sứ và cả
những phép màu còn tồn đọng trong tâm thức dân tộc. Đây cũng là đối tượng
miêu tả của văn học làm nên sự phong phú, hấp dẫn của đời sống tinh thần.
Nhờ được nghe, tiếp xúc với một số lượng văn học, có những hiểu
biết sơ đẳng về văn học, đó là khả năng mô tả cuộc sống xung quanh phong
phú, hấp dẫn. Bước đầu trẻ sẽ nhận biết được sự khác nhau về nội dung và
hình thức giữa các thể loại thơ, chuyện. Không những giúp trẻ cảm nhận
được cái đặc sắc của cách diễn đạt hình tượng, nhà sư phạm còn cần giúp
trẻ phân biệt được hình tượng nghệ thuật với hiện thực, hình thành một số
khái niệm văn học như: Thơ, chuyện, nhân vật, hình ảnh…, giúp trẻ trao đổi
những điều đã được nghe và bộc lộ những suy nghĩ của mình về tác phẩm,
nhằm phát triển đời sống tinh thần của trẻ.
Tác phẩm văn học là một chỉnh thể nghệ thuật, cần giúp trẻ nhận biết
các mối quan hệ biểu hiện giữa hoàn cảnh, trạng thái, tình huống và nhân
vật; giữa lời kể, lời thuật, lời bạch trữ tình và ngôn ngữ nhân vật; Giữa
không khí, âm sắc, giọng điệu chung của tác phẩm văn học và hành động văn
học. Chưa yêu cầu trẻ phải nhớ hết mối quan hệ phức tạp và chưa đòi hỏi
trẻ phân biệt quan hệ chính phụ trong truyện mà chỉ nhằm giúp trẻ nhận ra
tính liên tục của cốt truyện trong các mối liên quan đến nhân vật trung tâm
của tác phẩm.
Với truyện kể, ta hãy giúp trẻ nhận ra, nhớ được sắc thái cơ bản trong
giọng kể, lời thuật, phân biệt ngữ điệu lời nói các loại nhân vật, giúp trẻ
nhận ra ngôn ngữ đời thường (khẩu ngữ) và ngôn ngữ thơ giàu nhạc tính.
Qua tác phẩm văn học, trẻ quen dần tính chất nhiều ý nghĩa và tinh luyện
của ngôn ngữ văn hoá, dần dần tiến tới hiểu được nghĩa thực đến nghĩa
bóng, từ nghĩa văn cảnh đến ý tưởng nhà văn muốn truyền đạt.
4
Khi cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học góp phần mở rộng nhận
thức, phát triển trí tuệ, giáo dục đạo đức, giáo dục thẩm mĩ, phát triển ngôn
ngữ, phát triển ở trẻ hứng thú “đọc sách” kỹ năng đọc và kể tác phẩm.
2. Thực trạng:
Như chúng ta đã biết tác phẩm văn học thể hiện hiện thực cuộc sống
bằng hình tượng nghệ thuật. Bằng sức mạnh của tính hình tượng, sự biểu
cảm của ngôn ngử, những hình tượng con người, con vật, bức tranh thiên
nhiên được vẽ nên bằng ngôn ngữ đã tác động mạnh mẽ đến trẻ em. Ấn
tượng trẻ thu nhận được từ tác phẩm văn học khi nghe đọc, kể tác phẩm
phụ thuộc vào trình độ phát triển nhận thức thẩm mỹ của trẻ, vào khả năng
cảm nhận văn học trong sự thống nhất giữa nội dung và hình thức nghệ
thuật tác phẩm. Chúng ta đều nhận thấy rằng, trẻ mẫu giáo có khả năng
cảm nhận văn học nghệ thuật trong thể hoàn chỉnh, thống nhất giữa nội
dung và hình thức tác phẩm bằng cách nghe người lớn đọc, kể tác phẩm.
Tuy nhiên trong quá trình tổ chức, hướng dẫn trẻ giáo viên thường hay mắc
phải một số nhược điểm sau:
+ Đồ dùng tranh ảnh còn ít, dẫn đến việc luyện tập ít, nên tiết học
buồn tẻ không đem lại kết quả như mong muốn.
+ Do đặc điểm tâm lý của trẻ rất hiếu động, thích khám phá, tìm tòi,
nên trẻ không thể chỉ ngồi nhìn và nghe cô giáo kể và đọc thơ. Chính vì vậy ,
nếu không có đồ dùng trực quan, không cho trẻ thao tác thực hành trên đồ vật
đối tượng nhận biết thì trẻ dễ bị phân tán chú ý, mức độ hứng thú không
cao, tri thức lĩnh hội được không sâu và hay bị quên.
+ Giáo viên còn nói nhiều, cách truyền đạt chưa lưu loát, chưa diễn
cảm không phát huy được tính tích cực của trẻ khi tham gia các hoạt động
trong giờ.
Một trong những yếu tố ảnh hưởng không nhỏ đến nhận thức của trẻ
đó là đặc điểm riêng của trường Mầm non Hoa Sen là trường có 5 địa điểm
lẻ và mỗi phân hiệu chưa có lớp phân từng độ tuổi của trẻ. Với điều kiện
kinh tế của phụ huynh còn gặp nhiều khó khăn nên ở lớp lá 2 mẫu giáo lớn
5 6 tuổi do tôi chủ nhiệm đa phần là các cháu chưa qua lớp mẫu giáo bé,
mẫu giáo nhỡ mà học luôn chương trình mẫu lớn. Trẻ gặp nhiều khó khăn
khi gặp phải một vấn đề phức tạp mà không có sự chuẩn bị dần từ những
vấn đề đơn giản, ngoài ra còn có những thuận lợi và khó khăn sau:
2.1. Thuận lợi và khó khăn
* Thuận lợi:
Được sự quan tâm của ban lãnh đạo nhà trường, đã tạo mọi điều
kiện về trang thiết bị, về cơ sở vật chất…
5
Nhờ sự quan tâm giúp đỡ nhiệt tình của chuyên môn đã xây dựng
phương pháp đổi mới bằng công nghệ thông tin, tổ chức dự giờ, hội giảng
góp ý. Từ đó bản thân đã rút ra một số kinh nghiệm để nâng cao chất lượng
giảng dạy.
Luôn được các đồng nghiệp trao đổi, học hỏi chuyên môn và giúp đỡ.
* Khó khăn :
Đa số phụ huynh làm nghề nông, kinh tế gia đình khó khăn, trình độ
hiểu biết của họ còn hạn chế nên họ chỉ chú trọng đến việc làm kinh tế chứ
không mấy quan tâm đến việc giáo dục dạy dỗ con cái. Họ không có thời
gian để trò chuyện hay đọc kể chuyện cho trẻ nghe. Họ không nhiệt tình khi
tham gia các buổi họp phụ huynh cũng như hỗ trợ cho giáo viên trong việc
dạy và giáo dục cho trẻ.
100% học sinh là người đồng bào dân tộc thiểu số, các cháu giao tiếp
với nhau đều bằng tiếng mẹ đẻ, ít hiểu tiếng Việt nên sự tiếp thu bài của
trẻ trong lớp không đồng đều, trẻ đánh giá nhận xét về tính cách của nhân
vật trong truyện một cách hời hợt, chưa chính xác và sâu sắc, nội dung kể
chưa mạch lạc.
Do đặc thù của địa phương nên việc phát âm của trẻ còn nhiều từ
ngọng
Đồ dùng và đồ chơi cho trẻ còn hạn chế
Mặc dù có những khó khăn nhưng với tình cảm và trách nhiệm đối
với các em đã thôi thúc tôi phải phát huy những thuận lợi, vượt qua những
khó khăn để giúp trẻ học tốt hơn nữa bộ môn văn học.
2.2.Thành công và hạn chế:
Bước đầu thực hiện đề tài đã mang lại cho lớp tôi những thành công
như: trẻ đến trường chuyên cần hơn, và khi đến lớp trẻ hứng hơn trong hoạt
động văn học, trẻ tập trung chú ý, mạnh dạn tham gia trong giờ học. Phát
triển tư duy và ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ…
Bên cạnh đó còn một vài hạn chế như : đa số phụ huynh khi trò
chuyện với con em họ đều sử dụng tiếng mẹ đẻ, họ không có thời gian để
trò chuyện hay đọc kể chuyện cho trẻ nghe hay nghe trẻ nói. Sự nhận thức
của phụ huynh còn hạn chế dẫn đến một số trẻ còn nhút nhát, chưa mạnh
dạn…
2.3. Mặt mạnh và mặt yếu.
Đa số trẻ học ở trường là dân địa phương cư trú tại buôn nên quá
trình trẻ đến lớp tương đối thuận tiện. Cơ sơ vật chất, đồ dùng, đồ chơi tuy
còn thiếu thốn nhưng vẫn tạo được sự mới lạ đối với trẻ…
6
Do đời sống của người đồng bào còn khó khăn nên đa số phụ huynh
của trẻ chỉ lo công việc nương rẫy mà chưa thực sự quan tâm đến việc học
của con em mình.
2.4. Các nguyên nhân các yếu tố tác động.
Các cháu đa số là người đồng bào dân tộc thiểu số, phụ huynh của
các cháu chưa coi trọng việc đưa các cháu đến lớp mầm non, các cháu
thường phải tự đến lớp một mình, không có sự đưa đón của bố mẹ, dẫn đến
việc giáo viên không có cơ hội gặp gỡ các phụ huynh để trao đổi tình hình
của các cháu ở lớp cũng như ở nhà.
Cơ sở vật chất còn thiếu thốn trong việc giảng dạy của cô, đồ dùng
đồ chơi phục vụ cho việc giảng dạy còn nhiều hạn chế….
Kiến thức học sinh không đồng đều, một số trẻ nhận thức còn chậm,
yếu, chưa mạnh dạn trong hoạt động…chính vì vậy mà việc các cháu tiếp
thu các tác phẩm văn học còn gặp rất nhiều hạn chế.
ra:
2.5. Phân tích đánh giá các vấn đề về thực trạng mà đề tài đã đặt
Văn học là môn rất quan trọng đối với trẻ Mầm non, là phương tiện
phát triển ngôn ngữ cho trẻ giúp trẻ có đủ vốn từ để nói năng lưu loát, diễn
đạt ngắn gọn biêt sử dụng từ đúng lúc, đúng chỗ. Không những thế mà việc
dạy trẻ làm quen với những từ ngữ nghệ thuật như từ tượng hình, từ tượng
thanh giúp trẻ phát triển trí tưởng tượng, óc quan sát, khả năng tư duy độc
lập trong suy nghĩ. Thông qua nội dung các tác phẩm giáo dục trẻ biết yêu
quý người hiền lành, biết ơn và kính yêu ông bà, bố mẹ, anh chị, bạn bè, biết
nhường nhịn em nhỏ.
Xuất phát từ những vai trò cụ thể đó cho nên hoạt động dạy trẻ làm
quen với văn học là môn học không thể thiếu trong chương trình chăm sóc
giáo dục trẻ. Vì vậy việc nâng cao chất lượng dạy trẻ làm quen với tác
phẩm văn học là vấn đề quan trọng trong đổi mới hình thức tổ chức giáo
dục mầm non.
3. Giải pháp biện pháp:
3.1. Mục tiêu của giải pháp, biện pháp.
Trước tình hình thực tế ở lớp tôi, tôi nghĩ việc nâng cao chất lượng
cho trẻ dân tộc thiểu số làm quen với tác phẩm văn học là một việc hết sức
quan trọng, rất cần thiết và cấp bách. Khi mới nghĩ đến điều này thì tưởng
chừng như đơn giản nhưng trên thực tế lại không đơn giản tí nào, tôi đã tự
hỏi phải làm thế nào để cung cấp ngôn ngữ cho trẻ, giúp trẻ có đủ vốn từ
để nói năng lưu loát, diễn đạt ngắn gọn, biêt sử dụng từ đúng lúc, đúng chỗ
một cách hiệu quả. Nhận thức được ý nghĩa và tầm quan trọng của bộ môn
nên qua quá trình thực hiện tôi đã sử dụng một số biện pháp sau:
7
3.2. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp và biện pháp:
Biện pháp 1. Khảo sát chất lượng học sinh đầu năm:
Để áp dụng các biện pháp một cách tích cực và phù hợp cô cần đánh
giá đúng mức độ nhận thức của trẻ ngay từ đầu năm, xếp loại trẻ theo đúng
trình độ trẻ có. Qua việc khảo sát tình hình chất l ượng với bộ môn Làm quen
với văn học ở lớp tôi, tôi thấy tỉ lệ trẻ đạt vẫn còn thấp hơn so với tỷ lệ
chưa đạt .
Tổng số
trẻ
Đạt ( tỉ lệ % )
25
8 ( 32 %)
Chưa đạt ( tỉ lệ
% )
17 ( 68 % )
Từ những vấn đề trên tôi đã đưa thêm một số biện pháp để nâng cao
chất lượng giúp trẻ học tốt môn làm quen với văn học cho trẻ 56 tuổi một
cách chính xác, bền vững, khắc phục được những khó khăn của địa phương,
phát huy được tính tích cực của trẻ là thiết thực là cấp bách và cũng là điều
quan trọng trong thực tế hiện nay.
Biện pháp 2: Tạo môi trường học tập cho trẻ:
Môi trường cho trẻ hoạt động là nơi cung cấp nguồn thông tin phong
phú khuyến khích tính độc lập và hoạt động tích cực của trẻ. Môi trường
giúp trẻ tìm tòi khám phá và phát hiện những điều mới lạ hấp dẫn trong
cuộc sống, các kiến thức và kĩ năng của trẻ cũng được củng cố và bổ xung.
Một môi trường đẹp, phong phú và phù hợp sẽ gây hứng thú cho trẻ, trẻ sẽ
chú ý và ghi nhớ có chủ định. Chính vì vậy, cần tạo cho trẻ môi trường lớp
học phong phú, sáng tạo. Ở lớp tôi, tôi đã xây dựng môi tr ường trong lớp
ngay tại các góc chơi như: “Bé thích xây gì ? ”, góc “Bé vui học toán”, “ Siêu
thị của bé”, “ Bé yêu văn học”, “Bé muốn làm bác sĩ”. Ở mỗi góc cô đều
trang trí những hình ảnh gần gũi, quen thuộc với trẻ có tính sáng tạo, phù
hợp với từng nội dung chủ đề.
Ví dụ : góc “Bé vui học toán” ở chủ đề “ Thế giới động vật ” cô sẽ
trang trí vào từng góc tranh ảnh các con vật sao cho phù hợp.
Tôi luôn tận dụng diện tích phòng học, chú ý bố trí sắp xếp các góc
học, đội hình để tạo môi trường học tốt và thoải mái cho trẻ .
Để giúp trẻ nâng cao khả năng cảm thụ văn học thì việc tạo cơ hội
cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học phải thường xuyên. Ngay từ đầu năm
học Ban giám hiệu nhà trường đã trang bị cho lớp nhiều quyển truyện, tạp
chí. Ngoài ra tôi còn sưu tầm các sách văn học, các hoạ báo, tập chí, lịch cũ,
nguyên liệu cho trẻ tự làm sách để xây dựng một “Góc thư viện” mang nội
dung văn học, tại “Góc thư viện” trẻ được xem các tranh truyện, tạp chí,
hoạ báo. Sau đó cô kể truyện cho trẻ nghe về nội dung những câu chuyện
8
như “Bác gấu đen và hai chú thỏ” hướng dẫn trẻ cách tri giác các tranh
truyện đó dần dần trẻ có thể tự đọc. Tất nhiên có thể lúc đầu trẻ đọc theo
trí nhớ, trẻ nhớ về nội dung câu chuyện cô đã kể rồi tự kể khớp với nội
dung câu chuyện mà trẻ tri giác.
Bản thân tôi trước khi tổ chức hoạt động cũng phải tự luyện giọng
kể, cách sử dụng tranh, sách, rối mô hình… để giúp trẻ cảm thụ được tác
phẩm văn học đó một cách tốt nhất.
Các loại tranh ảnh sách truyện do cô và trẻ làm không chỉ được sử
dụng trong giờ học văn học mà còn được tôi sử dụng để trang trí lớp, làm đồ
dùng đồ chơi trong góc thư viện. Như vậy trẻ sẽ được ôn luyện, củng cố
kiến thức về các câu truyện bài thơ ở mọi lúc, mọi nơi, trong các thời điểm
khác nhau .
Không những tôi tạo môi trường học tập trong lớp mà tôi còn tạo cho
trẻ môi trường hoạt động ngay ngoài lớp học như xây dựng cho trẻ “Góc
thiên nhiên” ở ngoài hiên với nhiều loại cây hoa khác nhau. Qua đó giúp trẻ
nhận biết được màu sắc quen thuộc trong cuộc sống và trẻ sẽ học và liên
tưởng đến những câu chuyện liên quan đến những loài cây, loài hoa…..từ đó
trẻ tham gia giúp cô chăm sóc góc thiên nhiên. Ngoài ra tôi còn tận dụng
những gì có sẵn trên sân trường để trẻ tiếp thu được kiến thức và kĩ năng
theo yêu cầu của chương trình đề ra.
Kết quả cho thấy trẻ thực sự thích thú khi tham gia vào các hoạt động,
kiến thức, cảm nhận và sự phát triển ngôn ngữ của trẻ được nâng dần lên.
Biện pháp 3: Làm đồ dùng, đồ chơi phục vụ cho dạy và học của cô
và trẻ:
Là giáo viên trực tiếp chăm sóc giáo dục trẻ, tôi đã tìm hiểu và trực
tiếp một số phụ huynh làm nghề thợ may, tôi đưa những con rối đã làm
được cho phụ huynh xem và trao đổi với phụ huynh về cách làm rối, xin phụ
huynh góp ý, giúp đỡ thêm các nguyên liệu để làm rối, như những tấm vải
để bọc đầu rối, quần áo rối tay, may ủng hộ những bộ trang phục vừa với
trẻ để trẻ sử dụng trong các tiết học và để tập kịch như: Quần áo mèo, thỏ,
dê, sói. Để đủ bộ tôi tìm đến các tiệm may thú nhồi bông, đặt may thêm các
mũ con vật cho phù hợp với các nhân vật trong truyện. Những trang phục đó
có thể sử dụng được nhiều trong các thể loại truyện thơ.
Ví dụ:
Thơ : “Mèo đi câu cá”
Truyện: “Ai đáng khen nhiều hơn”
“Cáo và thỏ”
“Chú dê đen”...
9
Còn những con rối tay khi biểu diễn cho trẻ xem yêu cầu phải có
không gian, mô hình để diễn, tôi đã vận động phụ huynh đóng giúp bộ khung
để treo phông màn khi diễn, bộ khung lắp ráp bằng các chốt gỗ nhỏ tháo lắp
dễ dàng, tiện sử dụng, khi không sử dụng được tháo xếp gọn gàng.
Một số câu chuyện bài thơ tôi đã tự làm như: Cắt, dán, tô mà u khuôn
mặt của nhân vật, phần thân tôi lấy giấy bìa từ hộp bánh cuộn tròn dùng dao
khoét lỗ vừa hai ngón tay, khi sử dụng luồn ngón tay giữa và ngón trỏ vào để
di chuyển, nhân vật đi lại trên sa bàn rất sống động và ngộ nghĩnh. Không
dừng lại ở đó, tôi còn tìm các tập báo hoạ mi, xem các chuyên mục: “Chuyện
kể của chim gõ kiến” những câu chuyện bài thơ với nhiều hình ảnh đẹp nội
dung phù hợp với chủ điểm.
Ví dụ: Truyện “Khỉ con đi xem phim” Chủ đề thế giới động vật.
“ Ba anh em” Chủ đề ngành nghề
Thơ: “Hoa mào gà” Chủ đề thế giới thực vật
Đưa photo phóng hình to, rồi cùng trẻ tô màu tranh trong giờ hoạt động
góc ở góc nghệ thuật tạo cho trẻ niềm vui được giúp cô làm đồ dùng dạy
học. Để có nhiều trẻ tham gia tôi cho trẻ làm hai bộ để khi kể chuyện sáng
tạo hai đội sẽ thi đua ghép tranh kể chuyện.
Để củng cố nội dung tác phẩm, tôi treo những bức tranh đó lên yêu
cầu trẻ, mỗi lần sẽ có một bạn lên chọn bức tranh mình thích và đọc lời thơ
ứng với nội dung bức tranh và nói vì sao mình chọn bức tranh đó. Những trẻ
khi giúp cô tô màu đã rất vui vì trong khi đọc và xem các bức tranh minh họa
trẻ tiếp nhận thế giới hiện thực trong tác phẩm văn học.
Biện pháp 4: Cho trẻ làm quen trong các giờ đón trẻ, hoạt động
ngoài trời, trước khi trẻ ngủ, thời gian vui chơi tự do buổi chiều.
Cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học không chỉ ở hoạt động chung,
hoạt động góc tôi còn tận dụng mọi thì giờ hoạt động đều có thể đưa văn
học đến với trẻ bằng các trò chơi một cách nhẹ nhàng như đọc các bài đồng
dao, ca dao có tính chất vận động nhẹ nhàng lại có khả năng rèn luyện phát
triển ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ.
Ví dụ: “Nu na nu nống”
“Ông sảo ông sao”
“Gánh gánh gồng gồng”.
Trò chơi vận động ở giờ hoạt động tôi sử dụng các trò chơi vận động
kèm lời thơ với các bài.
Ví dụ: “Rồng rắn lên mây”
“Chi chi chành chành”
10
“Lộn cầu vồng”.
Trước khi trẻ ngủ chọn những bài thơ êm dịu, nhẹ nhàng mang tính
chất lời ru như bài thơ “Giờ đi ngủ” hoặc mở nhỏ nhạc lời bài hát ru của các
nghệ sỹ, “Ru con”, “Mẹ yêu con”, “Ru con mùa đông”, “Ơn nghĩa sinh
thành”...
Ở hoạt động buổi chiều tôi chọn bài thơ, câu chuyện trong báo hoạ mi
đọc cho trẻ nghe rồi đặt câu hỏi gợi mở để đạt được mức độ sâu sắc của
cảm thụ văn học. Đó là một giải pháp hiệu quả để trẻ nhận thức, thức tỉnh
trong trẻ những gì vốn có khiến trẻ không phải thụ động nghe cô giáo đọc và
kể tác phảm rồi ghi nhớ một cách thụ động.
Ví dụ: Tôi giới thiệu tên chuyện: Đọc cho trẻ nghe đến khoảng 2/3
nội dung chuyện tôi cho trẻ đưa ra các nhận xét về các hình tượng nhân vật,
xác định thái độ của mình với các nhân vật bằng các câu hỏi “cháu thấy câu
chuyện này có hay không ? ” Vì sao? “Nếu cháu là nhân vật ... Cháu có làm
như vậy không? Tại sao? ... Trong khi trả lời câu hỏi của cô giáo, trẻ phải
thể hiện sự hiểu biết của mình về tư tưởng tác phẩm, học cách trình bày,
thể hiện các ý nghĩ của mình.
Biện pháp 5 : Một số hình thức vào bài gây hứng thú cho trẻ.
Để tìm được cách vào bài gây hứng thú cho trẻ đòi hỏi người giáo viên
ngoài lòng yêu nghề, mến trẻ cần phải có năng lực sư phạm trình độ chuyên
môn, hiểu tâm lý trẻ. Trong một tiêt dạy phần vào bài tuy chiếm ít thời gian
nhưng lại giữ một vị trí không kém phần quan trọng.
Đối với trẻ 4 tuổi việc hiểu biết và cảm nhận được về tác phẩm văn
học chủ yếu là do cô giáo truyền thụ thông qua giọng kể, cac đồ dùng trực
quan…cho nên cô giáo có thể dẫn dắt vào bài bằng rất nhiều hình thức khác
nhau như câu đố, trò chơi dân gian, tiếng kêu, bài hát…có liên quan đến chủ
đề tới nội dung câu chuyện.
Cô vào bài cần gắn gọn, dí dỏm, dễ hiểu và thu hút trẻ
Sử dụng các trò chơi bài hát để vào bài như: nghe tiếng kêu đoán tên
con vật, trò chơi bắt chước tiếng kêu các con vật…Cô dùng hình thức cho
trẻ vừa hát vừa vận động theo lời bài hát giúp trẻ vào tiết nhẹ nhàng thoải
mái hơn.
Ngoài ra tôi còn sử dụng những trò chơi dân gian để vào bài cho trẻ rất
thích.
Sử dụng câu đố để vào bài : trong các tiết truyện theo chủ đề tôi sử
dụng các câu đố phù hợp với bài dạy để tạo sự tò mò của trẻ.
Nhờ các hình thức vào bài mới đơn giản nhẹ nhàng bằng các trò chơi
dân gian, trò chơi đóng vai, câu đố….Phù hợp với từng chủ đề để gây hứng
thú đối với trẻ, giúp trẻ dễ hiểu, dễ tiếp thu bài hơn, luôn có cảm giác tự
11
nhiên thoải mái không bị gò bó khi vào bài mới. Bằng các hình thức giới
thiệu bài phong phú, hấp dẫn không chỉ thu hút trẻ mà còn giúp trẻ nhớ lâu,
tạo điều kiện cho trẻ ghi nhớ có chủ định, phát triển ngôn ngữ và tư duy cho
trẻ.
Biện pháp 6: Sửa lỗi về phát âm ( sữa ngọng) và luyện phát âm
giúp trẻ.
Ở độ tuổi này bộ máy phát âm của trẻ chưa hoàn thiện cho nên vẫn
còn một số trẻ thường phát âm chưa đúng một số âm như NL (làm – nàm)
KH – H (không – hông). Vì vậy, luyện phát âm cho trẻ là khâu đầu tiên trong
quá trình giáo dục ngôn ngữ, là cơ sở đầu tiên để hình thành tiếng nói của
trẻ.
Ở lứa tuổi này trẻ bắt trước ngữ điệu một cách dễ dàng và tự nhiên,
chính vì vậy để cho trẻ phát âm chính xác, rõ ràng, mạch lạc, ngữ điệu rõ
ràng tự nhiên và không bị ngọng thì giáo viên phải phát âm chính xác, to, rõ
ràng, chậm, có ngữ điệu để thu hút trẻ và có ý thức dạy trẻ phát âm và sửa
nỗi phát âm cho trẻ.
Đối với những từ khó như : l, n, s, x, p, q, t, d, đ….cô phải phát âm
mẫu cho trẻ nhiều lần, yêu cầu trẻ chú ý khi cô phát âm và nhận xét cách
phát âm, cô cho trẻ phát âm và hỏi miệng, môi, lưỡi phải như thế nào? Cô
giới thiệu cho trẻ rõ cách phát âm.
Cô ôn luyện cách phát âm cho trẻ bằng các trò chơi được sử dụng rất
nhiều, rất đa dạng và phong phú.
VD: Trò chơi “ Bắt chước tiếng kêu của các con vật”.
Bò kêu: Bò….
Mèo kêu: Mèo….
Chó sủa: Gâu gâu….
Gà gáy: Ò ó o….
Hay trò chơi “Bắt chước tiếng kêu của các phương tiện giao thông”
Máy bay: ù ù…
Tàu hỏa : Tu tu…..
Ô tô : Píp píp……
Xe đạp : Kính koong…….
Cô sử dụng các bài thơ ca dao đồng dao luyện phát âm cho trẻ giúp trẻ
cảm nhận được nhịp điệu, vần diệu của tiếng việt.
VD: Với chữ N cô đọc bài đồng dao “ Nu na nu nống” với chữ D đọc
bài “ Dung dăng dung dẻ”, với chữ R đọc bài “ Con rùa”…
12
Ngoài ra cô còn sử dụng những trò chơi dân gian kết hợp với lời ca: Cô
sử dụng những bài hát dân gian trong các buổi biểu diễn thơ ca s áng tạo,
giúp trẻ có niền tin ham thích văn học, trẻ vừa được chơi vừa được luyện
cách phát âm được nhiều hình thức khác nhau, dần dần trẻ có ý thức về âm
điệu, nhịp điệu, tiết tấu khả ngăng phát âm được, rèn luyện giúp cho trẻ phát
âm chuẩn, chính xác các từ, các câu quen thuộc trong đời sống hàng ngày.
Biện Pháp 7: Đưa công nghệ thông tin vào hoạt động giảng dạy.
Phương pháp dạy học bằng công nghệ thông tin trong giáo dục mầm
non tạo ra một môi trường dạy học tương tác cao, sống động, hứng thú và
đạt hiệu quả cao của quá trình dạy học đa giác quan cho trẻ. Hình ảnh
những nhân vật ngộ nghĩnh, những bông hoa biết cử động đủ màu sắc,
những hàng chữ biết đi và những con số biết nhảy theo nhạc hiện ngay ra
với hiệu ứng của những âm thanh sống động ngay lập tức, thu hút được sự
chú ý và kích thích hứng thú của trẻ vì được chủ động hoạt động nhiều hơn
để khám phá nội dung bài giảng .
Để hoạt động cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học, dù là thơ hay
truyện. Muốn đạt kết quả cao thì việc đầu tiên giáo viên phải chuẩn bị tốt
đồ dùng dạy học, đồ dùng đẹp, hấp dẫn sẽ thu hút sự chú ý của trẻ. Trước
đây giáo viên thường sử dụng tranh minh hoạ làm đồ dùng chính trong hoạt
động cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học. Song với hình thức đổi mới
hiện nay, thời đại công nghệ thông tin nên việc ứng dụng công nghệ thông
tin vào bài giảng mang lại kết quả rất cao. Biện pháp này luôn gây sự chú ý,
tò mò cho trẻ. Vì vậy giáo viên nên đưa công nghệ thông tin vào giảng dạy
để mang lại kết quả cao. Đơn giản là các hình ảnh đưa lên máy sử dụng các
hiệu ứng, màu sắc phù hợp cũng đã gây sự chú ý của trẻ.
Biện pháp 8 : Trao đổi với phụ huynh.
Như chúng ta đã thấy môi trường tiếp xúc của trẻ chủ yếu là gia đình
và nhà trường. Chính vì vậy việc kết hợp giữa gia đình và nhà trường là một
biện pháp không thể thiếu. Phụ huynh chính là nhân tố quyết định trong việc
tạo nguồn nhiên liệu để chúng tôi làm đồ dùng của các góc, nhất là góc làm
quen với văn học. Ngay đầu năm học tôi đã tổ chức họp phụ huynh, tuyên
truyền với phụ huynh về tầm quan trọng của việc cho trẻ đến trường để trẻ
được làm quen với trường lớp, với các bạn, giao lưu với các bạn. Ngoài ra
tôi còn trao đổi với phụ huynh về vấn đề chăm sóc và giáo dục trẻ ở trường
cũng như ở nhà để cô giáo và phụ huynh cùng kết hợp dạy trẻ. Đặc biệt tôi
đề cập đến tầm quan trọng của bộ môn “Làm quen với văn học” vì đây là
môn học giúp trẻ phát triển ngôn ngữ một các mạch lạc, giúp trẻ phát triển
khả năng cảm thụ văn học, qua các tác phẩm trẻ hiểu biết về thế giới xung
quanh .
13
Vận động phụ huynh hỗ trợ vật liệu, nguyên liệu như: giấy, sách,
những lọ nhựa, vải vụn để làm rối kể chuyện cho trẻ.
Đối với những trẻ tiếp thu chậm tôi trực tiếp trao đổi với phụ huynh
để cùng đưa ra những biện pháp để trẻ tiếp thu kiến thức một cách tốt nhất.
Động viên phụ huynh ngoài những giờ làm việc, vui chơi hàng ngày
của gia đình nên dành một số thời gian nhất định để đọc truyện cho trẻ nghe
để bố mẹ và trẻ cùng được thư giản bằng các câu chuyện có nội dung giáo
dục nhẹ nhàng. Tôi hướng dẫn cho các bậc phụ huynh chọn các câu chuyện
trong và ngoài chương trình để đọc và kể cho trẻ nghe nhằm mở rộng kiến
thức cho trẻ, đồng thời cùng phối hợp với giáo viên trong việc thực hiện
chương trình dạy trẻ.
3.3. Điều kiện để thực hiện giải pháp.
Để thực hiện biện pháp trên người giáo viên phải thật sự yêu nghề,
mến trẻ, luôn gần gũi yêu thương trẻ, không có sự phân biệt trẻ người đồng
bào hay người kinh…bên cạnh đó người giáo viên thường xuyên sưu tầm
nhiều đồ dùng, đồ chơi phục vụ cho các hoạt động nhằm tạo hứng thú và lôi
cuốn trẻ hơn, không dừng lại ở đó bản thân người giáo viên cần phải tìm tòi
không ngừng học tập để nâng cao trình độ chuyên môn, học hỏi những kinh
nghiệm của thế hệ đi trước nhằm trang bị cho mình những nghệ thuật lên
lớp hay hơn nữa.
3.4. Mối quan hệ giữa các giải pháp, biện pháp.
Các biện pháp đã nêu trong đề tài có mối quan hệ mật thiết với nhau,
nó bổ sung cho nhau, tạo thành một mối liên kết với nhau ( vd: muốn trẻ biết
đọc thơ, kể chuyện diễn cảm, nói đúng câu từ và hiểu tiếng Việt chúng ta
không những chỉ dạy trẻ ở trường mà chúng ta phải biết phối hợp với phụ
huynh của trẻ ở nhà, nhờ họ tạo điều kiện khi trẻ ở nhà cũng có thể cho trẻ
làm quen với văn học như hát ru cho trẻ ngủ, kể chuyện cho trẻ nghe, dạy
trẻ đọc thơ, đưa ra các câu hỏi yêu cầu trẻ trả lời, uốn nắn câu từ cho
trẻ…).
Bằng sự cố gắng của bản thân, luôn ham học hỏi và mạnh dạn áp
dụng những biện pháp trên, nhằm phát triển ngôn ngữ cho trẻ thông qua hoạt
động làm quen với văn học, tôi nhận thấy việc kết hợp và sử dụng nhiều
hình thức khác nhau để phát triển ngôn ngữ cho trẻ là một phương pháp hữu
hiệu để đạt được kết quả cao nhất phù hợp với đặc điểm tâm sinh lí của
trẻ.
cứu.
3.5. Kết quả khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên
Kết quả khảo nghiệm:
14
Qua một vài kinh nghiệm tôi tự nghiên cứu và áp dụng cho các cháu ở
lớp tôi tuy chỉ trong một thời gian ngắn nhưng tôi thấy có sự chuyển biến
một cách rõ rệt và đạt kết quả như sau :
Thời gian
Đầu năm
Kiến thức của trẻ
Cuối năm
Kiến thức của trẻ
Đạt
8 trẻ = 32%
21 trẻ = 84%
Chưa đạt
17 trẻ = 68%
4 trẻ = 16%
Giá trị khoa học: Khi đưa các biện pháp trên vào giảng dạy tôi thấy
trẻ hứng thú nghe kể chuyện và phát triển tốt hơn về ngôn ngữ. Đặc biệt
thông qua các tác phẩm văn học trẻ được tìm hiểu thế giới xung quanh, được
khám phá thế giới xung quanh với nhiều hình thức phong phú, hấp dẫn với
trẻ, tạo cho trẻ hứng thú say mê hơn khi tham gia học tập.
4. Kết quả thu được qua khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn
đề nghiên cứu.
+ Qua một vài kinh nghiệm tôi tự tìm tòi, nghiên cứu và áp dụng cho
các cháu ở lớp tôi tuy chỉ trong một thời gian ngắn nhưng tôi thấy có sự
chuyển biến một cách rõ rệt, có hiệu quả, và đạt được kết quả rất cao.
Trẻ hào hứng học tập, tập trung chú ý, mạnh dạn tham gia đạt: 100
%
Trẻ có kiến thức về văn học phù hợp với độ tuổi đạt : 84 %
Phát triển tư duy và ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ.
Trẻ trả lời đúng câu hỏi của cô là 98 %
+ Giá trị khoa học : Với đề tài trên tuy tôi chỉ áp dụng một vài biện
pháp nhỏ nhưng nó đã mang lại cho lớp tôi những kết quả rất lớn trong việc
phát triển ngôn ngữ cho trẻ, nhờ đó trẻ tích cực giao tiếp hơn, thích khám
phá thế giới xung quanh và đặt ra các câu hỏi tò mò về sự vật…, làm giàu
kho tàng kiến thức cho trẻ sau này.
III. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
1. Kết luận:
Qua bản sáng kiến “Một số biện pháp nâng cao chất lượng trẻ 5 – 6
tuổi làm quen với văn học ở trường Mầm non”. Bản thân tôi thấy rằng, việc
làm quen với tác phẩm văn học cho trẻ 56 tuổi là một trọng tâm những nội
dung lớn của chương trình giáo dục cho trẻ Mầm non. Nhằm phát triển ngôn
ngữ và các mặt phát triển khác của nhân cách toàn diện, góp phần quan trọng
vào việc chuẩn bị cho trẻ học ở phổ thông sau này.
15
Ngành giáo dục mầm non là ngành học đặc biệt trong sự nghiệp đào
tạo con người mới, là cơ sở hình thành và phát triển con người. Để thực
hiện nhiệm vụ cao cả đó đòi hỏi người giáo viên mầm non phải có phẩm
chất đạo đức tốt, lối sống lành mạnh, lập trường tư tưởng vững vàng, không
ngừng học hỏi, luôn bồi dưỡng trau dồi kiến thức, rèn kỹ năng phát âm
chuẩn cho trẻ, kỹ năng này đóng một vị trí rất quan trọng trong cuộc sống
hàng ngày của trẻ, giúp trẻ có nhiều vốn từ mới làm giàu cho kho tàng kiến
thức của trẻ.
Muốn giáo dục trẻ đạt kết quả tốt, người giáo viên phải có tâm huyết
với nghề, có tấm lòng yêu nghề, mến trẻ, phải nắm rõ đặc điểm tâm sinh lý
của trẻ. Người giáo viên phải có trình độ chuyên môn vững vàng, không
ngừng học hỏi nâng cao trình độ chuyên môn hoàn thành tốt nhiệm vụ của
mình.
2. Kiến nghị:
Nhà trường cần tạo điều kiện cho giáo viên được tham quan học tập
ở các đơn vị khác để trau dồi, học hỏi kinh nghiệm, học hỏi dự giờ những
tiết dạy mẫu, dạy giỏi để nâng cao trình độ chuyên môn.
Bổ sung hỗ trợ tài liệu đổi để giáo viên được học hỏi, tiếp cận
những cái mới.
Chuyên môn tạo nhiều điều kiện cho giáo viên chúng tôi được tham
dự các lớp tập huấn cũng như tổ chức các buổi chuyên đề về chương trình
mầm non mới, giúp cho giáo viên chúng tôi trao dồi thêm kiến thức về
chuyên môn nghiệp vụ để chúng tôi hoàn thành nhiệm vụ tôt hơn .
Để phát triển ngôn ngữ cho trẻ được tốt hơn thông qua hoạt động
làm quen văn học, tôi mong nhà trường tạo mọi điều kiện để đồ dùng dạy
học và đồ chơi của trẻ được phong phú, đa dạng hơn.
Trên đây là một số kinh nghiệm của tôi đưa ra còn nhiều hạn
chế mong được các cấp lãnh đạo, chi em đồng nghiệp góp ý kiến bổ xung và
nhận xét để bài viết của tôi được phong phú, sáng tạo và hiệu quả hơn nữa.
Tôi xin chân thành cảm ơn
EaBông, ngày 20 tháng 02 năm 2016
Người viết
H’ Ngoăc Hmok
16
NHẬN XÉT CỦA HỘI ĐỒNG CHẤM SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………...........................................................................
.....................
CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Tài liệu bồi dưỡng thường xuyên
2. Tài liệu về biện pháp nâng cao chất lượng trẻ làm quen với tác
phẩm văn học.
3. Tài liệu tập huấn chuyên đề giáo dục mầm non mới
4. Chuyên đề đặc san giáo dục mầm non
5. Tài liệu về một số bài sáng kiến kinh nghiệm của Bộ giáo dục
mầm non.
17
18