Tải bản đầy đủ (.pdf) (31 trang)

Một số kinh nghiệm tổ chức các tình huống vào bài gây hứng thú học tập cho học sinh trong môn Sinh học 8

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.18 MB, 31 trang )

Một số kinh nghiệm tổ chức các tình huống vào bài gây hứng thú học tập cho
 học sinh trong môn Sinh học 8

I. PHẦN MỞ ĐẦU 
1. Đặt vấn đề
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng đã đề ra phương hướng: Đầu tư 
phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu. Phát triển giáo dục và đào tạo nhằm nâng cao dân 
trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài. Chuyển mạnh giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến 
thức sang phát triển nhân lực và phẩm chất người học, phát triển giáo dục đào tạo phải gắn  
với nhu cầu phát triển kinh tế xã hội, xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Trong đó, phát triển giáo 
dục và đào tạo phải tuân theo nguyên lý: Học đi đôi với hành, giáo dục phải kết hợp với lao  
động sản xuất, lí luận phải gắn liền với thực tiễn, giáo dục nhà trường phải kết hợp với 
giáo dục xã hội.
Sinh học là một bộ môn khoa học tự nhiên có nhiệm vụ nghiên cứu các đặc điểm cấu  
tạo, hoạt động sống và các điều kiện sống của sinh vật cũng như các mối quan hệ giữa các 
sinh vật với nhau và với môi trường. Ở Sinh học 8 các em được tìm hiểu sâu về đặc điểm  
cấu tạo và sinh lí của con người, về những điều bí ẩn trong chính bản thân các em.
Trong thực tế giảng dạy bộ môn Sinh học cấp trung học cơ sở, tôi nhận thấy phần lớn 
học sinh đều không thích học bộ  môn Sinh học vì cho rằng môn học này thường khô khan, 
khó hiểu. Nên dẫn đến nhiều em còn có thái độ  chưa quan tâm, chưa chú ý vào bài học. 
Điều này đã gây ra  ảnh hưởng không nhỏ  đến việc nâng cao chất lượng dạy và học bộ 
môn. Mặt khác, ở lứa tuổi học sinh lớp 8 các em đang bước vào giai đoạn dậy thì nên cơ thể 
phát triển mạnh. Tuy nhiên, mức độ  phát triển của hệ  thần kinh chưa đạt đến độ  hoàn  
thiện, do đó các em chóng mệt mỏi, dễ hưng phấn song cũng dễ chuyển sang trạng thái ức  
chế khi phải tiếp thu bài một cách thụ động, kém hào hứng. Vấn đề đặt ra là bản thân mỗi  
giáo viên cần phải không ngừng học hỏi, tìm tòi các phương pháp cũng như cách thức giảng 
dạy để có thể khơi dậy sự hứng thú cũng như sự chủ động trong  học tập của học sinh, nếu  
không sẽ dẫn đến tiết học trở nên nhàm chán, khó thành công. 
Các tình huống có trong thực tiễn rất gần gũi và thân quen đối với chúng ta cũng như 
đối với các em học sinh. Việc vận dụng các tình huống thực tiễn vào trong giảng dạy bộ 
môn tạo cho các em cảm thấy môn Sinh học trở  nên gần gũi và thiết thực. Đặc biệt trong 


phần vào bài trước khi học bài mới giáo viên sử  dụng những tình huống thực tiễn, những 
câu chuyện ngắn có ý nghĩa giáo dục, các câu ca dao, tục ngữ ... sẽ tạo cho các em một tâm  
thế  học tập tốt, sự thích thú, muốn khám phá ra những kiến thức để  lí giải những vấn đề 
đó. Từ đó các em yêu thích môn học hơn, đồng thời chất lượng bộ môn được nâng cao hơn. 
Từ những lí do trên cùng với kinh nghiệm mà tôi đã đúc kết được qua nhiều năm giảng 
dạy tại trường trung học cơ sở Nguyễn Trãi, Tôi xin mạnh dạn đưa ra một số kinh nghiệm 
mà mình đã tích lũy được trong quá trình giảng dạy và tôi chọn đề  tài   “   Một số  kinh  
nghiệm tổ  chức các tình huống vào bài gây hứng thú học tập cho học sinh trong môn  

Giáo viên: Trịnh Thị Hiền                                                       Tr
ường THCS Nguyễn Trãi
1


Một số kinh nghiệm tổ chức các tình huống vào bài gây hứng thú học tập cho
 học sinh trong môn Sinh học 8

Sinh học 8”.  Rất mong nhận được sự  đóng góp ý kiến của các thầy cô và bạn bè đồng  
nghiệp.
2. Mục đích nghiên cứu 
Tìm ra những giải pháp hợp lí nhằm tạo hứng thú học tập đối với bộ  môn, giúp học 
sinh chủ  động, tích cực, tự  giác trong học tập, biết vận dụng kiến thức vào thực tiễn, góp  
phần nâng cao chất lượng học tập của học sinh.
Tìm hiểu các thông tin từ các nguồn tư liệu về những vấn đề  thực tiễn liên quan đến 
bộ môn, để  lựa chọn và đưa ra các tình huống vào bài phù hợp với nội dung bài học nhằm  
gây hứng thú học tập cho học sinh, từ đó vận dụng vào giảng dạy đạt hiệu quả cao nhất.
Đưa ra được các giải pháp, biện pháp cần thiết và hiệu quả  cho việc áp dụng nhằm 
nâng cao chất lượng học tập đối với bộ môn Sinh học 8.
II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1. Cơ sở lí luận

Tại Đại hội Đảng lần thứ  XII Đảng ta đã xác định đổi mới giáo dục và đào tạo theo 
hướng phải phù hợp, thiết thực với từng cấp học, từng đối tượng, đảm bảo tính khoa học, 
cơ bản, hiện đại; lựa chọn những kiến thức có tính ứng dụng cao. Chuyển từ nặng về trang  
bị  kiến thức lí thuyết trừu tượng sang nội dung gắn với thực tiễn đời sống, chú trọng vận 
dụng kiến thức vào giải quyết các tình huống trong học tập và cuộc sống….nội dung các  
môn học cần lựa chọn những gì cần thiết cho việc phát triển phẩm chất năng lực người 
học, những tri thức thiết thực, gần gũi, gắn với đời sống có thể vận dụng tốt trong thực tế.
Trong công văn hướng dẫn nhiệm vụ và các biện pháp thực hiện trong năm học 2018­
2019 của Phòng giáo dục và đào tạo huyện Krông Ana đã chỉ rỏ: “Tiếp tục đổi mới phương  
pháp dạy và học nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo, rèn luyện phương pháp tự 
học và vận dụng kiến thức, kỹ năng của học sinh. Đẩy mạnh việc vận dụng dạy học giải 
quyết vấn đề, các phương pháp thực hành, dạy học theo dự án trong các môn học; tích cực 
ứng dụng công nghệ thông tin phù hợp với nội dung bài học; khắc phục lối truyền thụ áp 
đặt một chiều, ghi nhớ  máy móc; tập trung dạy cách học, cách nghĩ, phương pháp tự  học; 
đảm bảo cân đối giữa trang bị kiến thức, rèn luyện kỹ năng và định hướng thái độ, hành vi  
cho học sinh…”.
Theo các chuyên gia tâm lí học thì cùng với sự tự giác thì hứng thú học tập tạo nên tính 
tích cực nhận thức, giúp học sinh học tập đạt kết quả cao, có khả  năng khơi dậy được sự 
sáng tạo, là động lực để người học có thể say mê, tự giác nghiên cứu và đạt được hiệu quả 
cao trong chương trình giáo dục.
Ở lứa tuổi trung học cơ sở, các em có sự phát triển mạnh mẽ về tâm sinh lí, các em rất 
tò mò, muốn tìm hiểu cũng như giải đáp được những vấn đề nảy sinh trong cuộc sống hằng 
ngày. Tuy nhiên, trong thực tế giảng dạy nhiều giáo viên còn quá coi trọng các kiến thức lí  
Giáo viên: Trịnh Thị Hiền                                                       Tr
ường THCS Nguyễn Trãi
2


Một số kinh nghiệm tổ chức các tình huống vào bài gây hứng thú học tập cho
 học sinh trong môn Sinh học 8


thuyết nên tổ chức các hoạt động học còn thiên về cung cấp kiến thức trong sách giáo khoa, 
ít chú trọng đến việc đưa các vấn đề thực tế vào giảng dạy. Điều này làm cho các em cảm  
thấy kiến thức của các  môn học trở nên xa lạ và khô khan, từ đó các em ít hứng thú đối với  
môn học hơn.
Qua thực tế  giảng dạy tại trường trung học cơ  sở  Nguyễn Trãi, tôi nhận thấy rằng  
trong mỗi tiết học mà giáo viên chỉ  đưa ra những câu hỏi, những kiến thức đơn thuần có 
trong sách giáo khoa thì tiết học sẽ  trở  nên khô khan, nhàm chán, không tạo được tâm thế 
học tập tốt cho các em, các em không hứng thú với học tập, tiếp thu bài một cách bị  động, 
nên  dẫn các em học mang tính chất học vẹt, không nắm được kiến thức trọng tâm, khả 
năng tổng hợp cũng như vận dụng kiến thức vào thực tiễn còn hạn chế đã dẫn đến kết quả 
học tập bộ  môn còn thấp. Điều này đã làm tôi suy nghĩ rất nhiều, làm thế  nào để  có tạo 
được hứng thú học tập cho các em? Làm thế nào để các em có thể chủ động trong học tập? 
Làm thế nào để có thể các em yêu thích môn Sinh học hơn? Làm thế nào để các em có thể 
vận dụng những kiến thức môn học vào xử  lí các tình huống có trong thực tiễn?.... Từ 
những suy nghĩ này, tôi đã tìm tòi, sưu tầm những tình huống thực tế, các câu chuyện ngắn,  
các câu ca dao, tục ngữ, thành ngữ.… liên quan đến kiến thức bộ môn để áp dụng tổ  chức  
các tình huống vào bài ở một số tiết dạy và tôi tự nhận thấy rằng nếu giáo viên biết cách tổ 
chức các tình huống vào bài đặc biệt là các tình huống có trong thực tế vào giảng dạy sẽ tạo  
cho học sinh một tâm thế  tốt, kích thích được hứng thú học tập của các em,  làm nảy sinh  
trong các em suy nghĩ muốn khám phá ra những kiến thức và có thể  áp dụng những kiến 
thức đã học vào giải quyết những vấn đề  trong thực tiễn, từ  đó các em yêu thích môn học  
hơn, chất lượng bộ môn cũng được nâng cao.
 2. Thực trạng
Hiện nay, để  đáp  ứng với sự phát triển của nền kinh tế  xã hội, ngành giáo dục đã và  
đang thực hiện đổi mới giáo dục căn bản, toàn diện với mục tiêu đào tạo nên những con 
người Việt Nam Xã hội chủ  nghĩa phát triển một cách toàn diện về  “ đạo đức­ trí tuệ  ­  
thẩm mỹ”. Để  làm được điều này cần phải đổi mới một cách mạnh mẽ  các phương pháp  
dạy và học nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh; tăng cường rèn 
luyện các kỹ năng thực hành, vận dụng kiến thức kỹ năng vào giải quyết các vấn đề  thực 

tiễn. Vậy vấn đề đặt ra là giáo viên phải có biện pháp gì để góp phần giáo dục nên những  
thế hệ trẻ vừa chủ động, vừa sáng tạo,vừa có kỹ năng thực hành tốt, biết vận dụng những 
kiến thức môn học vào giải quyết các tình huống thực tiễn.
 Trong thực tế, tôi thấy rằng đa số  giáo viên thường hay sử  dụng Phương pháp dạy  
học truyền thống trong giảng dạy.  Ở phương pháp này chủ yếu là hoạt động của giáo viên 
nhằm truyền đạt các kiến thức có trong sách giáo khoa cho học sinh. Phương pháp này có ưu  
điểm là học sinh nắm được nội dung kiến thức của bài ngay trong tiết học, các em có thể 
trả  lời được những câu hỏi liên quan có trong sách giáo khoa. Tuy nhiên, khi dạy học theo 
phương pháp này vẫn còn nhiều hạn chế như: Học sinh học bài còn mang tính chất học vẹt,  

Giáo viên: Trịnh Thị Hiền                                                       Tr
ường THCS Nguyễn Trãi
3


Một số kinh nghiệm tổ chức các tình huống vào bài gây hứng thú học tập cho
 học sinh trong môn Sinh học 8

tiếp thu bài một cách thụ  động, không nắm được kiến thức trọng tâm nên dẫn đến rất 
nhanh quên, khả  năng tư  duy còn hạn chế, khả  năng vận dụng kiến thức bộ môn vào giải  
quyết các vấn đề thực tiễn còn kém…điều này thể hiện qua kết quả ở các bài kiểm tra của  
các em còn thấp, khi gặp các vấn đề  thực tiễn có liên quan đến kiến thức bộ  môn các em  
còn lúng túng hoặc không giải đáp được. 
Ở lứa tuổi trung học cơ sở đặc biệt là học sinh lớp 8, các em đang bước vào giai đoạn  
dậy thì nên cơ thể có sự phát triển mạnh về kích thước và thể lực. Đồng thời các em có sự 
phát triển mạnh mẽ  về  tâm sinh lí, các em rất tò mò, ham hiểu biết, muốn tìm hiểu cũng  
như giải đáp được những vấn đề nảy sinh trong cuộc sống hàng ngày. Những câu hỏi: “Tại  
sao?” Hay “Do đâu?” thường xuất hiện trong đầu các em. Các em tự cho mình là người lớn 
và cũng muốn được coi là người lớn, muốn được tham gia học tập một cách độc lập, muốn 
thử sức mình…Tuy nhiên, trong thực tế giảng dạy nhiều giáo viên chưa lựa chọn được các  

phương pháp dạy học phù hợp nên chưa tích cực hóa được hoạt động học tập của học sinh, 
ít chú trọng đến việc đưa các vấn đề thực tế vào trong giảng dạy. Điều này đã làm cho các  
em cảm thấy các kiến thức của môn học trở nên khô khan, xa lạ …từ đó các em ít hứng thú  
hơn đối với môn học. Mặt khác, cùng với sự bùng nổ của công nghệ thông tin các em có rất 
nhiều sân chơi khác như: Facebook, Zing me, Game online, Zalo…điều này đã làm phân tán  
sự tập trung của các em, hứng thú học tập của các em ngày càng giảm sút, các em tiếp thu  
bài một cách thụ động nên không nắm được kiến thức trọng tâm. Do đó, chất lượng học tập  
bộ môn chưa cao.
 Bên cạnh đó, nhiều phụ huynh còn có tư tưởng phó mặc việc giáo dục con em họ cho  
nhà trường, nên bỏ bê việc quan tâm đến học tập của con cái. Ngoài ra, kinh tế của một số 
gia đình học sinh còn nhiều khó khăn, bố mẹ mãi lo làm ăn kinh tế nên ít quan tâm đến việc  
học tập, không giám sát việc học  ở  nhà của con em mình, đến lớp các em lại không chú ý 
nghe giảng, không nắm được kiến thức trọng tâm của bài nên dần dần sinh ra tâm lí chán 
nản, không thích học, không tập trung trong học tập…dẫn đến chất lượng học tập không  
cao.
         Kết quả bài kiểm tra định kì lần 1 học kì I môn  Sinh học lớp 8 trường THCS Nguyễn 
Trãi khi chưa thực hiện đề tài trong 2 năm học 2017 – 2018 và năm học 2018­ 2019 như sau: 
Năm học

2017 – 2018

Lớp

Tổng số

Giỏi

Khá

Trung 

bình

8A3

28

0

6

14

7

1

8a4

30

2

6

15

6

1


8a5

28

3

5

12

7

1

8a6

32

4

7

13

8

0

Yếu


Kém

Giáo viên: Trịnh Thị Hiền                                                       Tr
ường THCS Nguyễn Trãi
4


Một số kinh nghiệm tổ chức các tình huống vào bài gây hứng thú học tập cho
 học sinh trong môn Sinh học 8

Tổng 
cộng

118

Tỉ lệ

2018 – 2019

9

24

54

28

3

7,6%


20,3%

45,8%

23,7%

2,6%

8A1

30

0

7

15

8

0

8a2

34

3

8


14

8

1

8a3

27

2

5

12

7

1

8a5

28

3

6

11


7

1

Tổng 
cộng

119

8

26

52

30

3

6,7%

21,8%

43,8%

25,2%

2,5%


Tỉ lệ

Qua kết quả kiểm tra trên, tôi thấy rằng kết quả học tập môn Sinh học 8 của các em 
còn thấp, tỉ lệ bài kiểm tra bị điểm yếu và kém vẫn còn cao, tỉ lệ các bài đạt loại khá và giỏi  
còn ít. 
Trong thực tế giảng dạy tôi nhận thấy rằng nếu trong quá trình dạy hocjgiaos viên tổ 
chức các tình huống vào bài trước khi học bài mới, đặc biệt là sử  dụng các tình huống có 
liên quan đến các vấn đề  có trong thực tế  hoặc một tình huống giả  định, các câu chuyện 
ngắn hay các câu ca dao, tục ngữ mang tính chất giáo dục… và yêu cầu học sinh cùng tìm  
hiểu và giải thích qua bài học, sẽ  tạo cho các em một tâm thế  học tập tốt, các em sẽ  chủ 
động trong việc lĩnh hội kiến thức. Từ đó, kích thích được hứng thú học tập của học sinh,  
chất lượng bộ môn cũng được nâng cao. Ngoài ra, thông qua các tình huống vào bài giáo viên  
còn có thể  lồng ghép các nội dung khác nhau chẳng hạn như: giáo dục ý thức bảo vệ  cơ 
thể, biết chăm sóc, giữ gìn sức khỏe và giáo dục đạo đức lối sống cho các em.
3. Nội dung và hình thức của giải pháp
Trước những thực trạng trên, bản thân tôi mạnh dạn đưa ra một số  giải pháp, biện  
pháp mà tôi đã đúc rút được qua nhiều năm giảng dạy tại trường trung học cơ sở Nguyễn  
Trãi. Nhằm mục đích trao đổi với các đồng nghiệp trong và ngoài nhà trường để  cùng nhau  
tháo gỡ  những khó khăn, hạn chế  của công tác giảng dạy bộ  môn Sinh học nói chung và  
môn Sinh học 8 nói riêng trong nhà trường. Từng bước nâng cao chất lượng bộ môn.
 Trong quá trình giảng dạy môn Sinh học 8  ở trường trung học cơ sở Nguyễn Trãi tôi  
đã tìm tòi, sưu tầm và đúc kết được một số kinh nghiệm tổ chức các tình huống vào bài và 

Giáo viên: Trịnh Thị Hiền                                                       Tr
ường THCS Nguyễn Trãi
5


Một số kinh nghiệm tổ chức các tình huống vào bài gây hứng thú học tập cho
 học sinh trong môn Sinh học 8


đã sử dụng, trải nghiệm trong quá trình giảng dạy môn Sinh học 8 và bước đầu đã mang lại  
hiệu quả. Tôi xin mạnh dạn đưa ra đây để cùng trao đổi với thầy cô và bạn bè đồng nghiệp.
  ­ Giải pháp 1: Sử dụng các câu chuyện ngắn có trong thực tế vào giảng dạy
Các câu chuyện ngắn có nội dung liên quan đến thực tế  là những câu chuyện kể  về 
những sự việc diễn ra trong cuộc sống hằng ngày, mang tính chất thời sự, làm cho các em 
cảm thấy môn Sinh học trở nên gần gũi và thiết thực.
Cách thức thực hiện: Đối với giải pháp sử  dụng các câu chuyện ngắn vào giảng dạy  
giáo viên có thể sử dụng ở các bài như: Bài 8: Cấu tạo và tính chất của xương; bài 13: Máu 
và môi trường trong cơ thể; bài 18: Vận chuyển máu qua hệ  mạch. Vệ sinh hệ tuần hoàn; 
bài 22: Vệ sinh hô hấp; bài 27: Tiêu hóa ở dạ dày; bài 34: Vitamin và muối khoáng; bài 52: 
Phản xạ không điều kiện và phản xạ có điều kiện….
Một số ví dụ cụ thể:
Khi dạy bài 8: Cấu tạo và tính chất của xương 
Trước khi vào học bài mới giáo viên kể cho lớp nghe một câu truyện ngắn về tập tục  
chữa bệnh lạc hậu ở một số vùng nông thôn. 
“Thầy mo” chữa bệnh….
Ở  một bản làng nọ, có một thầy lang nổi tiếng là chữa bệnh giỏi, bất cứ  ai bị  
bệnh gì đến gặp, thầy đều chữa khỏi. Một hôm bà Na có người con trai 10 tuổi chẳng  
may bị ngã nên gãy chân. Bà liền mang con trai đến gặp thầy, ông liền lấy hai thanh gỗ  
nẹp chân cậu con trai lại rồi đưa cho bà mẹ ba mươi tờ tiền vàng mà thầy đã làm phép.  
Thầy căn dặn mỗi ngày bà hãy đốt một tờ tiền vàng và hòa với nước cho con trai uống,  
ắt sẽ  khỏi bệnh. Quả  thật sau ba mươi ngày, chân cậu con trai này đã lành. Em nghĩ  
sao về  cách chữa bệnh của ‘thầy mo” này? Có phải thuốc của thầy quá hay nên chân  
cậu con trai đã lành?  Sau khi học xong phần II­ Sự  to ra và dài ra của xương, giáo viên  
nhắc lại câu chuyện ở đầu bài và yêu cầu học sinh nói ra quan điểm của mình. Sau khi học 
sinh phát biểu giáo viên chốt kiến thức: Ở xương có lớp màng xương gồm những tế bào có  
khả năng phân chia tạo ra những tế bào mới, đẩy vào trong và hóa xương. Do đó khi bị gãy  
xương chỉ cần cố định xương sau một thời gian lớp màng xương sẽ sinh ra lớp xương mới  
hàn gắn lại chỗ xương bị gãy nên xương sẽ lành lại. Qua đây giáo viên chỉ ra cho học sinh  

thấy việc “thầy mo” sử dụng tiền vàng làm thuốc chữa bệnh là sai khoa học, qua đó giáo 
dục ý thức bảo vệ cơ thể cho các em tránh các tập tục chữa bệnh lạc hậu.
 Khi dạy bài 18: Vận chuyển máu qua hệ mạch. Vệ sinh hệ tuần hoàn.

Giáo viên: Trịnh Thị Hiền                                                       Tr
ường THCS Nguyễn Trãi
6


Một số kinh nghiệm tổ chức các tình huống vào bài gây hứng thú học tập cho
 học sinh trong môn Sinh học 8

Cuộc thi chạy Maratông
Để tạo hứng thú trước khi vào bài giáo viên kể cho các em một câu chuyện:
“Nguồn gốc cuộc thi chạy Maratông”
Năm 490 trước công nguyên, tại làng Maratông trong vùng Attic, quân đội Hi Lạp 
đã đánh tan quân xâm lược Ba Tư, một người lính nhận lệnh chạy từ làng Maratông về  
thủ đô Aten để báo tin chiến thắng. Anh đã chạy một mạch 42,195 km và chết ngay sau 
khi báo tin chiến thắng. Để kỉ niệm sự kiện đáng nhớ đó, từ 1896 người ta đã tổ chức 
cuộc thi chạy hằng năm từ Maratông đến Aten và vô số vận động viên đã vượt qua 
quảng đường này an toàn với  thời gian ngày càng rút ngắn. Tại sao các vận động viên 
có thể chạy một quảng đường dài như vậy nhưng vẫn an toàn?
Qua câu chuyện này sẽ  tạo cho các em sự tò mò, muốn tìm hiểu kiến thức để có thể 
giải thích được sự phi thường mà các vận động viên đã làm được khi phải chạy qua một 
quảng đường rất dài như vậy. Qua đó giáo dục cho các em ý thức tự giác rèn luyện để có 
một cơ thể khỏe mạnh. 
 Khi dạy bài 22: Vệ sinh hô hấp
Trước khi học bài mới, giáo viên có thể mở bài bằng một câu chuyện
“Đốt than để sưởi ấm…”
Ngày 27 tháng 11 năm 2018 do thời tiết quá lạnh nên một gia đình ở thành phố 

Vinh thuộc tỉnh Nghệ An đã đốt than trong nhà để sưởi ấm. Cả gia đình đã phải nhập 
viên cấp cứu trong tình trạng khó thở, tức ngực và 1 người đã bị tử vong. Vậy tại sao lại  
có hiện tượng này? Để giải đáp câu hỏi này chúng ta cùng tìm hiểu qua bài 22: Vệ sinh hô 
hấp. Khi học phần I­ Cần bảo vệ hệ hô hấp khỏi các tác nhân có hại, giáo viên nhắc lại câu 
chuyện và yêu cầu học sinh lí giải hiện tượng đó. Qua việc chủ động tìm hiểu kiến thức 
Giáo viên: Trịnh Thị Hiền                                                       Tr
ường THCS Nguyễn Trãi
7


Một số kinh nghiệm tổ chức các tình huống vào bài gây hứng thú học tập cho
 học sinh trong môn Sinh học 8

học sinh chỉ ra được: Đốt than sưởi ấm trong nhà đã thải ra khí cacbon ôxit, khí cacbon ôxit 
này sẽ chiếm chỗ của ôxi trong máu, làm giảm hiệu quả hô hấp, có thể dẫn đến tử vong.
Khi dạy bài 27: Tiêu hóa ở dạ dày
Để tạo hứng thú học tập cho học sinh, trước khi học bài mới giáo viên kể cho các em 
một câu chuyện 
“Dạ dày biết nói…”
Một vụ án mạng xảy ra tại một khu trung cư, nạn nhân là một cô gái khoảng 25 
tuổi. Sau khi tiếp nhận vụ án, bác sĩ pháp y tiến hành lấy dịch của dạ dày rồi phân tích 
chúng và đã xác định được giờ chết của nạn nhân. Từ đặc điểm này các chiến sĩ công 
an đã lần ra các đầu mối và tìm ra được thủ phạm. Vậy tại sao khi kiểm tra dịch ở dạ 
dày bác sĩ pháp y có thể xác định được giờ chết của nạn nhân? Liệu có phải chính dạ 
dày đã nói lên điều gì với bác sĩ pháp y?  Để giải đáp được câu hỏi này chúng ta cùng tìm 
hiểu qua bài 27: Tiêu hóa ở dạ dày. Khi học phần II­ Tiêu hóa ở dạ dày, giáo viên yêu cầu 
học sinh giải thích câu hỏi trong tình huống ở đầu bài. Sau khi các em trình bày suy nghĩ của 
mình, giáo viên chốt kiến thức và cung cấp thêm một số thông tin cho học sinh: Dạ dày giữ 
thức ăn một thời gian, dài hay ngắn tùy thuộc vào bản chất và trạng thái thức ăn. Đối với 
thức ăn lỏng như cháo hoặc sữa qua dạ dày và được đẩy xuống ruột ngay. Thức ăn gluxit 

như cơm tẻ lưu lại khoảng 2 giờ, cơm nếp khoảng 4 giờ. Thức ăn chứa nhiều mỡ như thịt 
chiên, cá chiên…lưu lại trong dạ dày rất lâu khoảng 9 giờ hoặc  hơn một chút… Bác sĩ pháp 
y dựa vào đặc điểm này để xác địnhgiờ chết của nạn nhân. Chẳng hạn, tử thi được phát 
hiện lúc 5 giờ sáng. Bác sĩ mổ khám nghiệm và phát hiện cơm đang rời dạ dày qua ruột thì 
ngừng lại. Như vậy nạn nhân chết khoảng 2 giờ sau khi ăn. Lúc này chỉ cần điều tra xem 
nạn nhân ăn tối lúc mấy giờ thì sẽ xác định được giờ chết của nạn nhân.
* Khi dạy bài 34: Vitamin và muối khoáng

 
Giáo viên có thể mở bài bằng một câu chuyện ngắn:
Giáo viên: Trịnh Thị Hiền                                                       Tr
ường THCS Nguyễn Trãi
8


Một số kinh nghiệm tổ chức các tình huống vào bài gây hứng thú học tập cho
 học sinh trong môn Sinh học 8

“Chuyến thám hiểm của tàu Cartier”
Năm 1536, các thủy thủ  và đoàn viên tàu Cartier tiến hành chuyến thám hiểm đi  
Canađa, chuyến đi kéo dài mấy tháng trời, lượng thức ăn rau, củ, quả tươi mang từ đất  
liền đã hết, mọi người trong đoàn chủ  yếu ăn thịt cá suốt một thời gian dài. Nhiều  
thủy thủ và đoàn viên trên tàu đã mắc một căn bệnh nghiêm trọng, đó là bệnh Xcorbut,  
người bệnh bị  chảy máu lợi, chảy máu dưới da, viêm khớp, đau cơ….và nhiều người  
đã bị  chết. Vậy tại sao họ  lại bị  mắc căn bệnh này?  Để  giải đáp câu hỏi này chúng ta 
cùng tìm hiểu trong bài 34: Vitamin và muối khoáng. Điều này sẽ tạo cho học sinh sự tò mò,  
muốn tìm hiểu kiến thức để lí giải được nguyên nhân gây bệnh trên. Sau khi tìm hiểu phần 
I­ Vitamin, giáo viên nhắc lại tình huống vào bài và yêu cầu học sinh trình bày quan điểm  
của mình. Học sinh sẽ  chỉ  ra được nguyên nhân chính của căn bệnh này là do trong khẩu 
phần ăn thiếu rau, củ, quả  tươi nên cơ  thể  bị  thiếu vitamin C làm cho mạch máu giòn, dễ 

vỡ, gây chảy máu. Đồng thời qua đây giáo dục các em kỹ năng thiết lập khẩu phần ăn chứa  
đầy đủ các chất, đặc biệt phải đủ các loại vitamin và muối khoáng.
 Khi dạy bài 52: Phản xạ không điều kiện và phản xạ có điều kiện
Để tạo hứng thú học tập cho học sinh giáo viên mở bài bằng câu chuyện
“ Tào tháo với rừng mơ”
Trong một lần hành quân qua một chặng đường dài, trời vừa nắng và nóng, quân 
sĩ của Tào Tháo vừa đói lại vừa khát, mọi người đều mệt lã tưởng chừng không thể đi 
nổi nữa. Tình hình khá là nguy cấp vì còn phải hành quân qua một đoạn đường rất dài 
nữa mới đến nơi đóng quân. Thấy vậy, Tào Tháo liền thông báo cho quân sĩ rằng: Các 
quân sĩ hãy cố gắng lên một chút nữa, ở phía trước có một khu rừng mơ chín mọng, 
mọi người tha hồ mà ăn. Cuối cùng quân sĩ của Tào Tháo cũng đến được nơi đóng 
quân. Vậy tại sao quân sĩ lại hết khát ? Để giải đáp câu hỏi này chúng ta cùng tìm hiểu 
trong bài 52: Phản xạ không điều kiện và phản xạ có điều kiện. Khi học phần II­ Sự hình 
thành phản xạ có điều kiện, giáo viên nhắc lại câu hỏi ở đầu bài và yêu cầu học sinh đưa ra 
quan điểm của mình, sau khi học sinh đưa ra các ý kiến, giáo viên chốt kiến thức, từ đó giúp 
các em khắc sâu kiến thức về sự hình thành phản xạ có điều kiện.
Cũng trong bài này giáo viên có thể sử dụng một câu chuyện khác vào phần mở bài 
như câu chuyện
 “ Mèo của Trạng Quỳnh ”
Một vị chúa nọ có một con mèo rất đẹp, chúa rất yêu quý con mèo. Suốt ngày chúa 
chăm bẵm, chơi đùa với mèo mà không quan tâm gì đến việc triều chính. Thấy vậy, 
Trạng Quỳnh liền bắt trộm mèo của chúa và mang về nhà nuôi. Chúa cho quân lính tìm 
kiếm khắp nơi, mãi một thời gian sau chúa thấy nhà Trạng Quỳnh có một con mèo 
giống của mình liền đến đòi mèo lại. Trạng quỳnh liền nói: Đây là mèo của thần và để 
Giáo viên: Trịnh Thị Hiền                                                       Tr
ường THCS Nguyễn Trãi
9


Một số kinh nghiệm tổ chức các tình huống vào bài gây hứng thú học tập cho

 học sinh trong môn Sinh học 8

chứng minh là mèo của mình, Trạng Quỳnh liền mang ra hai bát cơm, một bát bỏ đầy 
thịt, cá còn một bát chỉ có cơm chan nước canh. Con mèo liền tiến lại gần bát cơm chan  
nước canh và ăn một cách ngon lành. Lúc này, Trạng Quỳnh liền nói: Chúa thấy đấy, 
nhà thần nghèo, không có tiền mua cá, thịt nên chỉ toàn ăn cơm chan với canh nên mèo 
nhà thần chỉ quen ăn món này mà thôi. Mèo nhà chúa sống sung sướng , chỉ quen ăn 
cơm với cá và thịt, nên đây chính là mèo của thần. Lúc này chúa đành mất mèo và ấm ức  
đi về. Vậy tại sao chúa chịu mất mèo? Để giải đáp câu hỏi này chúng ta cùng tìm hiểu 
trong bài 52: Phản xạ không điều kiện và phản xạ có điều kiện. Qua tìm hiểu kiến thức để 
giải đáp câu hỏi này học sinh chỉ ra được: Chính Trạng Quỳnh đã tập cho mèo một thói quen 
mới, đó là chỉ được ăn cơm chan với nước canh mà thôi. Từ đó, học sinh sẽ khắc sâu được 
kiến thức về sự hình thành phản xạ có điều kiện. Đồng thời qua đây giáo viên lồng ghép 
giáo dục học sinh rèn luyện các thói quen học tập tốt, các nếp sống văn minh….
­ Giải pháp 2: Sử dụng các tình huống có trong thực tế vào giảng dạy.
Trong cuộc sống hằng ngày, có rất nhiều những tình huống nảy sinh làm xuất hiện  
trong đầu các em rất nhiều thắc mắc, các em rất muốn tìm ra lời giải đáp cho những thắc  
mắc đó. Trong giảng dạy, giáo viên sử dụng những tình huống có thể  là những tình huống  
có sẵn trong thực tế hoặc là những tình huống giả định mà giáo viên tạo ra có nội dung liên  
quan đến bài học, nhằm mục đích yêu cầu học sinh hãy suy nghĩ và tìm ra cách xử  lí tình  
huống đó, điều này đã đặt ra cho các em một câu hỏi lớn buộc các em phải huy động trí não,  
sự  tập trung trí tuệ  để  giải quyết vấn đề, từ  đó tạo cho các em tâm thế  học tập tốt, chủ 
động trong việc tìm tòi và  lĩnh hội kiến thức, nâng cao chất lượng bộ môn.
+ Biện pháp 1: Sử dụng các tình huống có sẵn
Các tình huống có sẵn là những tình huống nảy sinh trong cuộc sống hằng ngày, rất  
quen thuộc với học sinh. Việc sử dụng các tình huống này trong giảng dạy, tạo cho học sinh  
sự hứng thú, muốn tìm hiểu kiến thức để có thể giải quyết các tình huống đó.
Cách thức thực hiện: Đối với giải pháp sử  dụng các tình huống có trong thực tế  vào  
giảng dạy giáo viên có thể  sử  dụng  ở  các bài như: Bài 6: Phản xạ; bài 13: Máu và môi  
trường trong cơ  thể; bài 14: Bạch cầu­ miễn dịch; bài 15: Đông máu và nguyên tắc truyền 

máu; bài 16: Tuần hoàn máu và lưu thông bạch huyết; bài 20: Hô hấp và các cơ quan hô hấp;  
bài 21: Hoạt động hô hấp….
Một số ví dụ cụ thể:
Khi dạy bài 6: Phản xạ
Giáo viên có thể  mở  bài bằng một tình huống: Khi tay ta chạm phải vật nóng, liền 
rụt tay lại. Tại sao lại có hiện tượng này? Để  giải đáp câu hỏi nàychúng ta cùng tìm hiểu  
trong bài 6: Phản xạ. Từ tình huống này, sẽ tạo cho các em sự tò mò, muốn tìm ra kiến thức  
để  lí giải hiện tượng trên. Qua tìm hiểu kiến thức các em sẽ  chỉ  ra được đây chính là một 
Giáo viên: Trịnh Thị Hiền                                                       Tr
ường THCS Nguyễn Trãi
10


Một số kinh nghiệm tổ chức các tình huống vào bài gây hứng thú học tập cho
 học sinh trong môn Sinh học 8

phản xạ  của cơ thể để  trả  lời kích thích từ  môi trường. Đồng thời các em cũng giải thích 
được cơ chế của phản xạ trên. Từ  đó các em có thể giải thích được các hiện tương tự mà 
các em gặp trong cuộc sống hằng ngày.
Khi dạy bài 13: Máu và môi trường trong cơ thể 
Khi vào phần mở  bài giáo viên đưa ra một tình huống có trong thực tế  :  Gia đình bác  
Nam ở thôn Tân Lập có cô con gái đang bị bệnh tiêu chảy, sau khi lấy thuốc về cho con  
uống, bác còn bắt con gái phải uống nhiều nước, bác bảo: phải uống nhiều nước để  
bổ sung lượng nước bị thiếu. Theo em việc bắt con gái uống nhiều nước khi bị  bệnh  
tiêu chảy của bác Nam như  vậy có đúng không? Tại sao? Từ  câu chuyện này sẽ tạo cho 
các em hứng thú muốn tìm hiểu những kiến thức để lí giải cho các dự đoán của mình …sau  
khi học phần I­ Máu. Giáo viên yêu cầu học sinh nói ra quan điểm của mình. Sau đó giáo 
viên chốt kiến thức: 90% huyết tương là nước nên khi bị  tiêu chảy hay bị  sốt cơ  thể  mất  
nước nhiều, máu trở nên đặc và khó lưu thông trong hệ mạch. Vì vậy người bệnh cần phải  
uống nhiều nước để bổ sung lượng nước bị hao hụt. Từ đó giáo viên giáo dục kỹ năng sống  

cho các em, để các em có thể xử lí được khi gặp các tình huống tương tự trong cuộc sống.
 Khi dạy bài 14: Bạch cầu­ miễn dịch 
Giáo viên mở bài bằng cách đưa ra một tình huống: Khi em dẫm phải gai, tại vết trầy  
xước mới đầu bị  tấy đỏ, sưng đau thậm chí có thể  bị  cống mủ, sau vài hôm thì khỏi.  
Vậy chân khỏi là do đâu? Cơ  thể  đã tự  bảo vệ  mình như  thế  nào?  Để  giải đáp những 
câu hỏi này các em cùng tìm hiểu qua bài 14: Bạch cầu – miễn dịch. Sau khi học xong phần  
I­ Các hoạt động chủ yếu của bạch cầu. Giáo viên nhắc lại câu hỏi trong tình huống ở đầu 
bài và yêu cầu học sinh nói lên suy nghĩ của mình. Sau đó giáo viên chốt lại kiến thức: Tại  
vết trầy xước bị  tấy đỏ, sưng đau là do các vi khuẩn tập trung tấn công tạo thành ổ  sưng  
viêm. Sau vài hôm chân khỏi là do hoạt động của các bạch cầu đã tiêu diệt được vi khuẩn,  
bảo vệ cơ thể.
Cũng trong bài này giáo viên có thể  sử  dụng một tình huống vào bài khác như:  Có  
người nói rằng: “Tiêm vacxin là tiêm vi khuẩn đã được làm yếu vào cơ thể, giúp cơ thể  
không bị  mắc bệnh” Theo em điều này có đúng hay không? Tại sao ? Sau khi học xong 
phần II. Miễn dịch. Giáo viên nhắc lại câu hỏi trong tình huống  ở  đầu bài và yêu cầu học 
sinh trả lời, sau đó chốt kiến thức: Thực tế tiêm vacxin chính là tiêm các vi khuẩn đã được 
làm yếu, không còn khả năng gây bệnh vào cơ thể, để cơ thể tiết ra kháng thể chống lại căn 
bệnh. Do đó sau khi tiêm vacxin một bệnh nào đó, cơ thể sẽ cơ thể sẽ không mắc bệnh đó 
nữa.
 Khi dạy bài 15: Đông máu và nguyên tắc truyền máu

Giáo viên: Trịnh Thị Hiền                                                       Tr
ường THCS Nguyễn Trãi
11


Một số kinh nghiệm tổ chức các tình huống vào bài gây hứng thú học tập cho
 học sinh trong môn Sinh học 8

Trước khi vào bài mới giáo viên có đưa ra tình huống:  Ở người bình thường, khi làm  

việc chẳng may bị đứt tay, mới đầu tại vết đứt máu chảy nhiều, sau đó ít lại và không  
chảy nữa. Nhưng  ở  một số  người khác chỉ  cần một vết thương nhỏ, máu cứ  chảy  
miết, chảy miết…nếu không cấp cứu kịp thời có thể  gây nguy hiểm đến tính mạng.  
Tại sao lại có những hiện tượng trên? Để giải đáp những câu hỏi này chúng ta cùng tìm  
hiểu bài 15: Đông máu và nguyên tắc truyền máu. Từ  tình huống này sẽ  tạo động lực cho 
các em tìm hiểu kiến thức để giải đáp thắc mắc của mình. Sau khi học xong phần I­ Đông 
máu, giáo viên nhắc lại tình huống vào bài và yêu cầu học sinh giải thích các hiện tượng 
trên. Sau khi học sinh trình bày suy nghĩ của mình giáo viên chốt kiến thức và mở rộng thêm 
kiến thức liên quan cho các em. Ở người bình thường, khi bị đứt tay các tế bào tiểu cầu va 
chạm với vết rách của thành mạch máu ở vết thương nên bị vỡ và giải phóng enzim. Enzim  
này kết hợp với chất sinh tơ máu có trong huyết tương tạo thành các tơ máu, các tơ máu này  
ôm giữ  các tế  bào máu làm thành khối máu đông bịt kín vết thương nên máu không chảy  
nữa. Đối với những người bị bệnh máu khó đông do số lượng tế bào tiểu cầu trong máu quá 
ít nên chỉ cần một vết thương nhỏ, máu cứ thế chảy miết, chảy miết… thậm chí người bị 
bệnh nặng, mặc dù không bị  trầy xước cũng có thể  bị  chảy máu trong các khớp chân, tay. 
Nếu không cấp cứu kịp thời có thể  dẫn đến phải tháo các khớp ở  chân hoặc tay, gây nguy  
hiểm đến tính mạng.
 Khi dạy bài 16: Tuần hoàn máu và lưu thông bạch huyết

Giáo viên: Trịnh Thị Hiền                                                       Tr
ường THCS Nguyễn Trãi
12


Một số kinh nghiệm tổ chức các tình huống vào bài gây hứng thú học tập cho
 học sinh trong môn Sinh học 8

Để  tạo hứng thú cho học sinh trước khi vào học bài mới giáo viên đưa ra tình huống: 
Có người nói rằng “Trong khẩu phần ăn mà thức ăn chứa nhiều chất côlesterôn (có  
trong thịt, cá, trứng, sữa…) có nguy cơ bị mắc bệnh sơ vữa động mạch” Em có suy nghĩ  

gì về câu nói này? Bệnh sơ vữa động mạch gây ra tác hại gì? Sau khi học phần I­ Tuần 
hoàn máu, giáo viên yêu cầu học sinh nói lên quan điểm của mình về tình huống ở đầu bài. 
Qua tìm hiểu kiến thức bài học kết hợp với hiểu biết về thực tế học sinh có thể đưa ra câu  
suy nghĩ của mình, giáo viên nhận xét và chốt kiến thức: Trong khẩu phần ăn mà chứa 
nhiều chất côlesterôn sẽ  có nguy cơ  bị  bệnh xơ  vữa động mạch.  Ở  bệnh này, côlesterôn 
ngấm vào thành mạch kèm theo sự ngấm các ion canxi làm cho mạch bị hẹp lại, không còn 
nhẵn như  trước, gây xơ  vữa. Động mạch xơ  vữa làm cho sự  vận chuyển máu trong mạch  
gặp khó khăn, tiểu cầu dễ bị vỡ và hình thành cục máu đông gây tắc mạch. Đặc biệt nguy 
hiểm  ở động mạch vành nuôi tim gây các cơn đau tim,  ở động mạch não gây đột quỵ. Bên  
cạnh đó động mạch xơ  vữa gây ra các tai biến trầm trọng như  xuất huyết dạ  dày, xuất  
huyết não, thậm chí gây tử vong. Qua tình huống này, giáo viên định hướng cho các em biết 
cách xây dựng một khẩu phần ăn hợp lí, tốt cho sức khỏe.
 Khi dạy bài 20: Hô hấp và các cơ quan hô hấp
Giáo viên có thể mở bài bằng một tin tức có trên thời sự: Một em bé ở Gia Lai đã tử  
vong do bị nghẹt thở sau khi ăn thạch rau câu. Vậy tại sao lại có hiện tượng này?  Để 
giải đáp câu hỏi này, chúng ta cùng tìm hiểu trong bài 20: Hô hấp và các cơ quan hô hấp . Khi 
học phần II­ Các cơ  quan trong hệ  hô hấp của người và chức năng của chúng, giáo viên 
nhắc lại tình huống  ở  đầu bài và yêu cầu học sinh giải thích. Sau đó giáo viên chốt kiến 

Giáo viên: Trịnh Thị Hiền                                                       Tr
ường THCS Nguyễn Trãi
13


Một số kinh nghiệm tổ chức các tình huống vào bài gây hứng thú học tập cho
 học sinh trong môn Sinh học 8

thức: Ở thanh quản có nắp thanh quản có thể cử động để đậy kín đường hô hấp khi chúng 
ta nuốt thức ăn. Trong trường hợp trên khi em bé khi ăn thạch rau câu đã mút mạnh để  lấy  
thạch vào miệng. Khi mút mạnh thì nắp thanh quản sẽ mở to, cùng với độ  trơn của miếng  

thạch đã chạy tọt vào cổ và lọt vào đường thở, chắn ngang gây nghẹt thở  và tử  vong. Qua  
tình huống giáo viên có thể  lồng ghép cách sơ  cứu khi trẻ  bị hóc dị  vật hoặc khi ăn không  
nên cười đùa có thể dẫn đến bị sặc…
 Khi dạy bài 21: Hoạt động hô hấp
Để  kích thích sự  tò mò, hứng thú học tập của học sinh, giáo viên có đưa ra một tình 
huống: Khi phát hiện một em bé mới sinh bị  chết, làm thế  nào để  biết được chính xác  
em bé đó chết trước hay sau khi lọt lòng? Để giải đáp câu hỏi này chúng ta cùng tìm hiểu  
bài 21: Hoạt động hô hấp. Khi học phần I­ Thông khí ở phổi, giáo viên nhắc lại tình huống 
vào bài và yêu cầu học sinh đưa ra suy nghĩ của mình, sau đó giáo viên chốt lại kiến thức:  
Trẻ  mới sinh đã cắt rốn mà vẫn còn sống sẽ  có động tác hít vào thở  ra lần đầu làm bật  
tiếng khóc chào đời. Trước khi có tiếng khóc chào đời phổi trẻ  chưa hề có không khí. Nên 
nếu trẻ chết từ trong bụng mẹ thì mô phổi còn đặc do đó nặng hơn nước, còn nếu trẻ  lọt 
lòng mà còn sống dù chỉ  cất tiếng khóc một lần thôi, khi  không khí tràn vào phổi có một 
phần sẽ ở lại mãi trong đó nên mô phổi trở nên xốp và nhẹ hơn nước. Vì vậy trong pháp y, 
khi cần xác định một trẻ sơ sinh chết từ khi còn nằm trong bụng mẹ hay sau khi lọt lòng, chỉ 
cần cắt một miếng phổi, bỏ vào một cốc nước rồi theo dõi xem nó chìm hay nổi. Nếu phổi 
chìm thì em bé đó bị  chết trong bụng mẹ, còn nếu phổi nổi thì em bé đó chết sau khi lọt  
lòng. Cũng trong bài này giáo có thể đặt ra câu hỏi “  Vì sao có tiếng khóc chào đời” trước 
khi vào bài mới.
+ Biện pháp 2: Tạo ra các tình huống giả định
Bên cạnh các tình huống có sẵn trong thực tế, giáo viên có thể sáng tạo ra các tình 
huống  giả định để kích thích hứng thú học tập cho học sinh. Từ các tình huống đó buộc học 
sinh phải  tự tìm hiểu kiến thức nền và đưa ra cách giải quyết tình huống đó, giúp các em 
khắc sâu kiến thức.
Cách thức thực hiện: Giáo viên có thể áp dụng biện pháp này vào các bài cụ thể như: 
bài 8: Cấu tạo và tính chất của xương; bài 13: Máu và môi trường trong cơ thể; bài 15: Đông 
máu và nguyên tắc truyền máu; bài 38: Bài tiết và cấu tạo hệ bài tiết nước tiểu; bài 40: Vệ 
sinh hệ bài tiết nước tiểu
Một số ví dụ cụ thể:
Khi dạy bài 8: Cấu tạo và tính chất của xương

Khi vào phần mở  bài giáo viên đưa ra tình huống:  Bạn Nam và bạn Hải đang tranh  
luận với nhau về một vấn đề như sau:

Giáo viên: Trịnh Thị Hiền                                                       Tr
ường THCS Nguyễn Trãi
14


Một số kinh nghiệm tổ chức các tình huống vào bài gây hứng thú học tập cho
 học sinh trong môn Sinh học 8

Bạn Nam: Theo tớ thì xương của người già sẽ cứng và chắc nên sẽ ít bị  gãy hơn  
so với trẻ em.
Bạn Hải: Tớ lại nghĩ xương của trẻ em sẽ ít bị gãy hơn so với xương của người  
già vì xương trẻ em có sự dẻo dai hơn.
Theo em ý kiến của bạn nào đúng? Tại sao? Để giải đáp câu hỏi này chúng ta cùng 
tìm hiểu trong bài 8: Cấu tạo và tính chất của xương. Từ tình huống này sẽ tạo cho các em 
hứng thú muốn tìm hiểu những kiến thức để lí giải cho các dự đoán của mình …Sau khi học  
xong phần III­ Thành phần hóa học và tính chất của xương. Giáo viên nhắc lại tình huống ở 
đầu bài và yêu cầu học sinh trình bày và giải thích quan điểm của mình. Sau khi học sinh 
phát biểu giáo viên chốt kiến thức: Tỉ lệ cốt giao và muối khoáng trong xương thay đổi theo  
lứa tuổi, ở trẻ em thành phần cốt giao chiếm tỉ lệ cao hơn, nên xương trẻ em sẽ dẻo dai và  
ít bị gãy hơn. Còn ở người già tỉ lệ cốt giao giảm vì vậy xương xốp, giòn và dễ gãy, khi bị 
gãy lại lâu hồi phục hơn so với xương trẻ em.
Khi dạy bài 13: Máu và môi trường trong cơ thể 
Trước khi vào học bài mới giáo viên có thể  đưa ra một tình huống : Bạn Hà và bạn  
Hải đang tranh luận với nhau về bệnh thiếu máu.
Bạn Hà: Theo tớ nghĩ người bị bệnh thiếu máu là do thiếu số lượng máu trong cơ  
thể nên mới hay bị mệt mỏi, hoa mắt, chóng mặt.
Bạn Hải: Tớ lại nghĩ khác, người bị thiếu máu có thể do thiếu ôxi trong máu.

Em nghĩ như  thế  nào về  quan điểm của hai bạn trên? Vì sao? Từ  tình huống này sẽ 
kích thích sự tò mò, của các em muốn tìm hiểu những kiến thức để lí giải cho các dự đoán 
của mình. Sau khi học phần I­ Máu. Giáo viên yêu cầu học sinh nói ra quan điểm của mình. 
Sau đó giáo viên chốt kiến thức: Ở người, trung bình có khoảng 7,5ml máu/kg cơ thể. Như 
vậy  ở  người trưởng thành có trung bình khoảng từ  4,5 ­5,5 lít máu. Những người bị  bệnh  
thiếu máu thường không phải do thiếu số lượng máu mà do thiếu số  lượng hồng cầu trên 
đơn vị thể tích máu, làm cho khả  năng trao đổi khí của máu kém đi, cơ  thể  không nhận đủ 
máu giàu ôxi nên hay bị mệt mỏi, hoa mắt và chóng mặt…
Khi dạy bài 15: Đông máu và nguyên tắc truyền máu
Để kích thích hứng thú học tập của học sinh, giáo viên đưa ra một tình huống:  Nam và  
Tuấn đi chơi, chẳng may bị  tai nạn giao thông, cả  hai được đưa vào bệnh viện cấp  
cứu. Tuấn chỉ bị trầy xước sơ sơ, còn Nam bị mất máu rất nhiều. Qua xét nghiệm Nam  
thuộc nhóm máu O. Bác sĩ chỉ  định phải truyền máu gấp cho Nam. Nhưng không may  
lượng máu dự trữ của bệnh viện về nhóm máu O đã hết. Bác sĩ đang lo lắng tìm người  
có nhóm máu phù hợp để  truyền cho Nam. Thấy vậy Tuấn liền nói: Bác sĩ  ơi! Cháu  
nhóm máu có B, hãy lấy máu của cháu để truyền cho Nam. Theo em bác sĩ sẽ trả lời thế  

Giáo viên: Trịnh Thị Hiền                                                       Tr
ường THCS Nguyễn Trãi
15


Một số kinh nghiệm tổ chức các tình huống vào bài gây hứng thú học tập cho
 học sinh trong môn Sinh học 8

nào? Vì sao? Để  giải đáp câu hỏi này chúng ta cùng tìm hiểu bài 15: Đông máu và nguyên 
tắc truyền máu. Sau khi học xong phần II­ Các nguyên tắc truyền máu, giáo viên yêu cầu  
học sinh giải đáp tình huống này. Qua tìm hiểu các em sẽ  chỉ  ra được: Tuấn nhóm máu B 
không thể  truyền máu cho bạn Nam được vì: Người có nhóm máu B trong hồng cầu có  
kháng nguyên B sẽ gây kết dính với kháng thể   có trong huyết tương của người nhóm máu 

O, gây hiện tượng đông máu dẫn đến tử  vong. Chỉ  máu của người có nhóm máu O mới  
truyền cho người có nhóm máu O được mà thôi. Qua tình huống này các em sẽ  khắc sâu 
được kiến thức để có thể vận dụng được trong thực tiễn.
Khi dạy bài 38: Bài tiết và cấu tạo hệ bài tiết nước tiểu

Ghép thận
  Giáo viên mở  bài bằng một tình huống:  Nam và Hà đang tranh luận với nhau về  
một vấn đề.
Nam: Theo tớ  nghĩ, mỗi người chúng ta đều có hai quả  thận nên nếu tặng một  
quả thận cho người bị suy thận để cứu sống họ, thì cơ thể chúng ta vẫn bình thường.
Hà: Tớ lại nghĩ khác, hai quả thận trong cơ thể mỗi người đều phải phối hợp với  
nhau trong việc lọc và thải các chất thừa, các chất độc hại. Nên nếu cho đi một quả thì  
cơ thể sẽ bị yếu đi rất nhiều, thậm chí có thể bị chết.
Em đồng ý với quan điểm của bạn nào? Tại sao? Để  giải đáp câu hỏi này chúng ta  
cùng tìm hiểu trong bài 38: Bài tiết và cấu tạo hệ bài tiết nước tiểu. Khi học phấn II­ Cấu  
tạo của hệ bài tiết nước tiểu, giáo viên nhắc lại tình huống ở  đầu bài và yêu cầu học sinh  

Giáo viên: Trịnh Thị Hiền                                                       Tr
ường THCS Nguyễn Trãi
16


Một số kinh nghiệm tổ chức các tình huống vào bài gây hứng thú học tập cho
 học sinh trong môn Sinh học 8

trình bày quan điểm của mình. Sau đó, giáo viên chốt kiến thức: Ở người, mỗi quả thận có  
khoảng hơn một triệu đơn vị chức năng. Nên khi cơ thể chỉ còn một quả thận, nó sẽ tự điều  
chỉnh công suất để đảm bảo hoàn thành nhiệm vụ lọc như khi còn hai quả thận. Khi đó, để 
bù đắp quá trình xử lí chất thải thừa của quả thận đã mất, các đơn vị  thận trong quả  thận  
còn lại sẽ tăng kích thước lên. Vì thế sức khỏe của người hiến thận vẫn bình thường. Đây  

là một nghĩa cử cao đẹp của con người đang được xã hội quan tâm và ủng hộ.
Khi dạy bài 40: Vệ sinh hệ bài tiết nước tiểu
Trước khi học bài mới, giáo viên đưa ra một tình huống: Ban đêm Lan thường hay đi  
tiểu nhiều lần mà trời lại rất lạnh. Lan băn khoăn không dám nói với bố  mẹ, may có  
Linh là bạn thân hay chơi với nhau, Lan liền tâm sự  và được Linh mách cho một mẹo  
nhỏ  đó là ít uống nước và nhịn đi tiểu. Vậy theo em, Linh nói như  vậy là đúng hay sai? 
Để giải đáp câu hỏi này chúng ta cùng tìm hiểu trong bài 39: Bài tiết nước tiểu. Sau khi học  
phần II­ Cần xây dựng các thói quen sống khoa học để  bảo vệ  hệ  bài tiết nước tiểu tránh  
các tác nhân có hại, giáo viên nhắc lại tình huống ở đầu bài và yêu cầu học sinh đưa ra suy  
nghĩ của mình. Qua việc chủ động tìm hiểu kiến thức các em sẽ dễ dàng chỉ ra được, cách 
mà Linh chỉ cho bạn Lan là sai khoa học vì nếu uống ít nước sẽ dẫn đến gây khó khăn cho 
cho quá trình bài tiết nước tiểu, bên cạnh đó nếu nhịn đi tiểu lâu làm tăng nguy cơ  bị  sỏi 
thận gây tắc nghẽn đường dẫn nước tiểu. Từ đó giúp các em hình thành được các thói quen  
sống khoa học để bảo vệ hệ bài tiết nước tiểu.
­ Giải pháp 3: Sử dụng các câu hỏi liên quan đến thực tế vào trong giảng dạy
Các câu hỏi nảy sinh trong thực tế rất gần gũi với các em học sinh. Việc sử dụng các  
câu hỏi liên quan đến thực tế trong giảng dạy sẽ tạo cho các em hứng thú muốn tìm hiểu  
kiến thức bộ  môn để  có thể  lí giải những vấn đề  mà các em thường gặp, qua đó các em  
thấy môn học trở nên gần gũi và thiết thực và yêu thích môn học hơn.
Cách thức thực hiện: Đối với giải pháp sử dụng các câu câu hỏi liên quan đến thực tế 
vào giảng dạy, giáo viên có thể sử dụng ở các bài như: Bài 7: Bộ xương; bài 9: Cấu tạo và  
tính chất của cơ; bài 10: Hoạt động của cơ; bài 14: Bạch cầu­ miễn dịch; bài 17: Tim và 
mạch máu; bài 20: Hô hấp và các cơ quan hô hấp; bài 24: Tiêu hóa và các cơ quan tiêu hóa;  
bài 27: Tiêu hóa ở dạ dày; bài 28: Tiêu hóa ở ruột non….
Một số ví dụ cụ thể:
Khi dạy bài 7: Bộ xương
Trước khi học bài mới, giáo viên đưa ra câu hỏi:  Tại sao khi bị  chết đuối,  xác của  
người phụ  nữ  khi nổi trên mặt nước thường nằm ngửa, còn xác của người đàn ông  
thường nằm sấp?


Giáo viên: Trịnh Thị Hiền                                                       Tr
ường THCS Nguyễn Trãi
17


Một số kinh nghiệm tổ chức các tình huống vào bài gây hứng thú học tập cho
 học sinh trong môn Sinh học 8

 

 

Xác người phụ nữ thường nằm ngửa         Xác người đàn ông thường nầm sấp
Để giải đáp câu hỏi này chúng ta cùng tìm hiểu trong bài 7: Bộ xương, khi học phần I­ 
Các thành phần chính của xương, giáo viên nhắc lại câu hỏi ở phần mở bài và yêu cầu học 
sinh trình bày quan điểm của mình. Sau khi học sinh đưa ra các ý kiến, giáo viên chốt kiến  
thức: Ở phụ nữ, trọng tâm cơ thể thấp hơn so với đàn ông là do cấu tạo của khung xương 
chậu phát triển mạnh nên trọng lượng dồn về  phía hông, mông và đùi. Vì vậy, phần thân  
dưới phía sau sẽ  nặng hơn, do đó xác của phụ  nữ  bị  chết đuối khi nổi trên mặt nước  
thường hay nằm ngửa. Còn  ở  đàn ông, có bộ  ngực nở  hơn, vai rộng hơn nên trọng tâm cơ 
thể dồn nhiều về phía trước của phần trên cơ thể. Vì thế, xác của người đàn ông chết đuối  
khi nổi trên mặt nước thường hay nằm sấp. Cũng từ  đặc điểm này học sinh có thể  giải 
thích được thắc mắc có trong thực tế  như:  Tại sao phụ  nữ  có thể  đi giày cao gót được  
trong khi nam giới thì lại không?...
Cũng trong bài này giáo viên có thể mở bài bằng câu hỏi khác: Tại sao một số người  
có thể thực hiện được các động tác uốn dẻo?

Giáo viên: Trịnh Thị Hiền                                                       Tr
ường THCS Nguyễn Trãi
18



Một số kinh nghiệm tổ chức các tình huống vào bài gây hứng thú học tập cho
 học sinh trong môn Sinh học 8

Từ câu hỏi này sẽ tạo cho các em hứng thú muốn tìm ra kiến thức để trả lời thắc mắc 
của mình. Khi học phần III­ Các khớp xương, giáo viên yêu cầu học sinh trình bày quan 
điểm của mình. Sau khi học sinh đưa ra các ý kiến, giáo viên chốt kiến thức: Ở người bình 
thường, các dây chằng có khả năng nối các khớp xương lại với nhau, những sợi dây chằng 
co giãn nhẹ giúp khớp xương vận động. Nhưng ở một số ít người chẳng hạn như các nghệ 
sĩ uốn dẻo, dây chằng của họ qua luyện tập có khả năng co giãn tốt, cơ thể họ trở nên mềm 
dẻo, có thể thực hiện được các động tác uốn dẻo mà người bình thường không làm được.
Khi dạy bài 9: Cấu tạo và tính chất của cơ
Trước khi học bài mới, giáo viên đưa ra câu hỏi: Tại sao khi cơ co, bắp cơ ngắn lại  
và phình to ra? Để giải đáp câu hỏi này chúng ta cùng tìm hiểu trong bài 9: Cấu tạo và tính  
chất của cơ. Từ câu hỏi này sẽ khơi dậy hứng thú học tập cho các em, kích thích các em tìm  
hiểu kiến thức để tìm ra câu trả lời, các em sẽ chỉ ra được: Khi cơ co, các tơ cơ mảnh xuyên  
sâu vào vùng phân bố của tơ cơ dày làm cho bắp cơ ngắn lại và phình to ra.
Khi dạy bài 10: Hoạt động của cơ

Giáo viên: Trịnh Thị Hiền                                                       Tr
ường THCS Nguyễn Trãi
19


Một số kinh nghiệm tổ chức các tình huống vào bài gây hứng thú học tập cho
 học sinh trong môn Sinh học 8

Bị “chuột rút” khi vận động nhiều
Trước khi học bài mới, giáo viên đưa ra câu hỏi: Tại sao có hiện tượng “chuột rút”  

khi vận động nhiều? Khi học phần II­ Sự  mỏi cơ, giáo viên nhắc lại câu hỏi và yêu cầu 
học sinh giải thích, sau dó giáo viên chốt kiến thức: “Chuột rút” là hiện tượng bắp cơ bị co  
cứng, không hoạt động được. Nguyên nhân là do khi vận động quá nhiều, cơ  thể ra nhiều 
mồ  hôi, bị mất nước, thiếu ôxi, các tế  bào cơ  hoạt động trong điều kiện thiếu ôxi sẽ  giải 
phóng nhiều axit lactic tích tụ trong cơ gây đầu độc cơ, làm ảnh hưởng đến hiện tượng co  
duỗi của cơ. Để hạn chế hiện tượng “chuột rút” chúng ta cần khởi động kỹ  trước khi vận 
động.
Khi dạy bài 14: Bạch cầu­ miễn dịch

Giáo viên: Trịnh Thị Hiền                                                       Tr
ường THCS Nguyễn Trãi
20


Một số kinh nghiệm tổ chức các tình huống vào bài gây hứng thú học tập cho
 học sinh trong môn Sinh học 8

Trước khi học bài mới, giáo viên đưa ra câu hỏi:  Bệnh máu trắng có phải là bệnh  
máu có màu trắng không?  Để  giải đáp câu hỏi này chúng ta cùng tìm hiểu trong bài 14: 
Bạch cầu – miễn dịch. Khi học phần I­ Các hoạt động chủ  yếu của bạch cầu, giáo viên  
nhắc lại câu hỏi và yêu cầu học sinh đưa ra phương án trả  lời, sau đó giáo viên chốt kiến 
thức: Bệnh máu trắng không phải là bệnh máu có màu trắng. Bệnh này liên quan đến bạch  
cầu là chủ yếu. Vì một lí do nào đó ( do di truyền, nhiễm độc..) tủy xương chỉ sản xuất ra  
các bạch cầu non không lớn lên được nên không thực hiện được chức năng của bạch cầu là 
chiến đấu bảo vệ  cơ  thể  tránh khỏi các tác nhân có hại. Mặt khác các bạch cầu non này 
không chết đi, các bạch cầu non cứ thế sinh ra mãi, cứ  ở  tủy xương làm mất hết chổ  của  
các tế bào bình thường nên người bệnh thường hay xanh xao, thiếu máu và chảy máu khó  
cầm, dễ nhiễm trùng. Khi các tế bào này đi vào máu gây ra nhiều tác hại khác, gây ung thư 
máu.
Khi dạy bài 17: Tim và mạch máu

Để tạo hứng thú học tập cho học sinh, giáo viên mở bài bằng câu hỏi:  Vì sao tim đập  
suốt đời sao không mỏi? Để  giáp câu hỏi này chúng ta cùng tìm hiểu trong bài 17: Tim và 
mạch máu. Khi tìm hiểu phần III­ Chu kì co dãn của tim, giáo viên nhắc lại câu hỏi và yêu  
cầu học sinh giải thích, sau đó giáo viên chốt kiến thức: Tim đập nhịp nhàng suốt đời kể từ 
tháng thứ 3, lúc thai trong bụng mẹ cho đến lúc ta nhắm mắt xuôi tay. Một chu kì tim kéo dài 
0,8 giây, Pha tâm nhĩ co kéo dài chừng 0,1 giây, pha tâm thất co kéo dài chừng 0,3 giây. Như 
vậy cả  giai đoạn co tim kéo dài 0,4 giây, sau đó cả  tâm thất và tâm nhĩ đều nghỉ  0,4 giây. 
Tim đập suốt đời không mỏi vì thực ra,  trong mỗi chu kì co tim, tâm nhĩ chỉ  làm việc 0,1  
giây nghỉ ngơi 0,7 giây ( làm việc 1 ngày, nghỉ ngơi 7 ngày), còn tâm thất làm việc 0,3 giây,  
nghỉ ngơi 0,5 giây ( làm việc 3 ngày, nghỉ ngơi 5 ngày). Do đó, cả tâm thất và tâm nhĩ đã hồi  
sức dễ dàng, nên có thể đập suốt đời không mỏi.
Giáo viên: Trịnh Thị Hiền                                                       Tr
ường THCS Nguyễn Trãi
21


Một số kinh nghiệm tổ chức các tình huống vào bài gây hứng thú học tập cho
 học sinh trong môn Sinh học 8

Khi dạy bài 20: Hô hấp và các cơ quan hô hấp
Giáo viên có thể mở bài bằng câu hỏi: Chắc hẳn các em đã có lần hắt hơi, vậy hắt  
hơi là hoạt động gì của cơ thể? Để giải đáp câu hỏi này chúng ta cùng tìm hiểu trong bài 
20: Hô hấp và các cơ quan hô hấp. Khi tìm hiều phần II­ Các cơ quan trong hệ hô hấp của 
người và chức năng của chúng, giáo viên nhắc lại câu hỏi  ở  đầu bài và yêu cầu học sinh  
giải thích, qua tìm hiểu kiến thức học sinh sẽ chỉ ra được hắt hơi là một phản xạ  hô hấp 
của cơ thể nhằm loại bỏ vật lạ hay khí lạ lọt vào đường hô hấp.
Khi dạy bài 24: Tiêu hóa và các cơ quan tiêu hóa
Để tạo hứng thú học tập cho học sinh, giáo viên mở bài bằng câu hỏi:  Tại sao khi ăn  
vừa nói, vừa cười lại hay bị sặc? Sau khi tìm hiểu kiến thức phần II­ Các cơ quan tiêu hóa, 
học sinh sẽ chỉ ra được khi nuốt vừa nói, vừa cười làm cho nắp thanh quản không đậy kín  

được khí quản, thức ăn có thể lọt vào đường dẫn khí làm ta bị sặc.
Khi dạy bài 27: Tiêu hóa ở dạ dày
Giáo viên có thể mở  bài bằng câu hỏi: Tại sao prôtêin trong thức ăn bị dịch vị phân  
hủy nhưng prôtêin của lớp niêm mạc dạ  dày lại được bảo vệ, không bị  phân hủy? Sau 
khi tìm hiểu kiến thức học sinh sẽ chỉ ra được: Trong dạ  dày có enzim pepsin có khả  năng 
phân hủy prôtêin rất mạnh, nhưng lớp niêm mạc của dạ dày vẫn được bảo vệ, không bị ăn  
mòn là vì mặt trong của dạ dày được lót một lớp niêm mạc. Lớp niêm mạc tiết chất nhầy  
bảo vệ phủ kín cả bề mặt niêm mạc ngăn chặn tác dụng tiêu hóa của pepsin.
Khi dạy bài 28: Tiêu hóa ở ruột non
Để tạo hứng thú học tập cho học sinh, giáo viên mở bài bằng câu hỏi:  Vì sao người ta  
nói, người bị  mắc các bệnh về  gan thì khả  năng tiêu hóa kém? Để  giải đáp câu hỏi này 
chúng ta cùng tìm hiểu bài 28: Tiêu hóa ở ruột non, sau khi tìm hiểu kiến thức học sinh chỉ ra  
được: Dịch mật do gan tiết ra, tạo môi trường kiềm giúp đóng mở  cơ  vòng môn vị, điều  
khiển thức ăn từ dạ dày xuống ruột, góp phần tiêu hóa và hấp thụ mỡ. Nên nếu gan bị mắc  
bệnh sẽ làm giảm khả năng tiết mật, từ đó làm giảm khả năng tiêu hóa thức ăn.
­ Giải pháp 4: Sử dụng các câu ca dao, tục ngữ, thành ngữ vào trong giảng dạy
Các câu ca dao, tục ngữ, thành ngữ…được cha ông ta đúc kết lại qua nhiều thế hệ trên 
cơ sở khoa học. Hơn thế nữa đó lại là những vấn đề hết sức gần gũi với cuộc sống hằng 
ngày của học sinh. Việc sử dụng các câu ca dao, tục ngữ, thành ngữ…trong giảng dạy làm 
cho các em cảm thấy môn Sinh học rất gần gũi, thân quen, từ đó tạo được hứng thú học tập, 
nâng cao chất lượng bộ môn cho học sinh.
Cách thức thực hiện: Đối với giải pháp sử dụng các câu ca dao, tục ngữ, thành ngữ…
vào giảng dạy, giáo viên có thể sử dụng ở các bài như: Bài 25: Tiêu hóa ở ruột non; bài 30:  

Giáo viên: Trịnh Thị Hiền                                                       Tr
ường THCS Nguyễn Trãi
22


Một số kinh nghiệm tổ chức các tình huống vào bài gây hứng thú học tập cho

 học sinh trong môn Sinh học 8

Vệ  sinh tiêu hóa; bài 33: Thân nhiệt; bài 47: Đại não; bài 52: Phản xạ  không điều kiện và 
phản xạ có điều kiện; bài 54: Vệ sinh hệ thần kinh…
 Một số ví dụ cụ thể:
Khi dạy bài 25: Tiêu hóa ở khoang miệng
Giáo viên có thể mở bài bằng câu tục ngữ: Cha ông ta thường nói “ Nhai kỹ no lâu,  
cày sâu tốt lúa” Về mặt sinh học, em nghĩ như thế nào về câu tục ngữ này? Học sinh có 
thể đưa suy nghĩ của mình, giáo viên ghi nhanh câu trả lời của các em lên góc bảng. Sau khi  
học xong phần I­ Tiêu hóa  ở khoang miệng, giáo viên nhắc lại câu tục ngữ  và yêu cầu các  
em kiểm chứng lại lập luận ban đầu của mình, từ  đó giúp các em khắc sâu kiến thức: Khi 
ăn, nhai càng kỹ, thức ăn được nghiền nhỏ, thấm đẫm dịch tiêu hóa thì hiệu suất tiêu hóa 
càng cao, cơ thể hấp thụ được nhiều chất dinh dưỡng hơn nên no lâu hơn.
Khi dạy bài 29: Hấp thụ dinh dưỡng và thải phân
Giáo viên có thể  mở  bài:  Cha ông ta thường nói “ Lỗ  miệng khoan thai, lỗ  chôn  
thong thả” Câu tục ngữ  này muốn nói lên điều gì?  Điều này tạo cho các em hứng thú 
muốn tìm hiểu kiến thức để có thể lí giải được ý nghĩa của câu tục ngữ, đồng thời giúp các 
em khắc sâu được kiến thức về những vấn đề tiêu hóa thức ăn, hấp thụ chất dinh dưỡng và 
thải phân. Sau khi tìm hiểu kiến thức của bài học sinh có thể  giải thích được: Ăn chậm, 
nhai kỹ khi ăn thì quá trình tiêu hóa thức ăn sẽ tốt hơn, thức ăn được nghiền nhỏ, trộn đều, 
thấm đều nước bọt, một phần thức ăn được biến đổi hóa học, thức ăn được đưa đến các cơ 
quan tiêu hóa tiếp theo sẽ được hấp thụ tối đa chất dinh dưỡng, do đó các cơ quan tiêu hóa  
trong khoang bụng sẽ làm việc nhẹ nhàng, hiệu quả, lượng phân thải ra ít. 
Khi dạy bài 30: Vệ sinh hệ tiêu hóa
Giáo viên có thể mở bài bằng câu tục ngữ, cha ông ta thường nói: “ Ăn có chừng, 
dùng có mực” Em nghĩ như thế nào về điều này? Qua tìm hiểu kiến thức các em sẽ chỉ ra 
được việc tiêu hóa thức ăn và hấp thụ chất dinh dưỡng của con người là có giới hạn. Nên 
nếu ăn quá nhiều sẽ làm cho hệ tiêu hóa bị quá tải gây ảnh hưởng xấu đến hoạt động tiêu 
hóa, mặt khác chất dinh dưỡng quá nhiều, cơ thể không hấp thụ hết sẽ thải ra ngoài gây 
lãng phí. Vì vậy mỗi người phải có chế độ ăn uống điều độ. Bên cạnh đó câu tục ngữ  còn 

giáo dục đạo đức con người đó là phải chi tiêu một cách hợp lí, không được lãng phí.
Cũng trong bài này giáo viên có thể mở bài bằng một câu tục ngữ khác: “ Nhà sạch thì  
mát, bát sạch ngon cơm” Câu tục ngữ này khuyên chúng ta điều gì? Bằng kiến thức đã học 
kết hợp với những kiến thức trong thực tế các em sẽ chỉ ra được: Nhà sạch sẽ tạo cảm giác 
mát mẻ, bát đũa sạch sẽ tạo cảm giác làm cho người ăn cảm thấy ngon miệng. Từ đó giáo 
viên lồng ghép giáo dục ý thức giữ gìn vệ sinh nơi ăn, chốn ở cho học sinh.
Ngoài ra, giáo viên có thể sử dụng một số câu tục ngữ khác như: “ Trời đánh tránh 
bữa ăn” hoặc “ Có thực mới vực được đạo”…
Giáo viên: Trịnh Thị Hiền                                                       Tr
ường THCS Nguyễn Trãi
23


Một số kinh nghiệm tổ chức các tình huống vào bài gây hứng thú học tập cho
 học sinh trong môn Sinh học 8

Khi dạy bài 33: Thân nhiệt
Để tạo hứng thú học tập cho học sinh giáo viên có thể mở bài bằng câu ca dao:
“ Cày đồng đang buổi ban trưa
Mồ hôi thánh thót như mưa ruộng cày”
 Câu ca dao này nói lên điều gì? Để giải đáp câu hỏi này chúng ta cùng tìm hiểu trong 
bài 33: Thân nhiệt. Khi học phần II­ Sự điều hòa thân nhiệt, giáo viên nhắc lại câu ca dao và 
yêu cầu học sinh giải thích ý nghĩa về mặt sinh học của câu ca dao này.Từ những kiến thức 
về sự điều hòa thân nhiệt các em sẽ chỉ ra được: Thời tiết buổi trưa nắng nóng cơ  thể tiết  
mồ  hôi để  điều hòa thân nhiệt, thêm vào đó ruộng cày có nước nên có độ  ẩm cao, mồ  hôi  
thoát ra từ cơ thể không bay hơi được nên chảy thành dòng xuống ruộng giống như là mưa 
trên ruộng cày. Mặt khác, câu ca dao còn nói lên nỗi vất vã của người nông dân nhưng vẫn 
luôn lạc quan, yêu đời. Qua đó giáo viên lồng ghép giáo dục học sinh phải luôn lạc quan 
trong cuộc sống, biết yêu lao động…
 Ngoài ra trong bài này giáo viên còn có thể sử dụng một số câu tục ngữ khác như:

 “ Rét run cầm cập” Đây là một phản xạ của cơ thể, khi trời lạnh để  điều hòa thân nhiệt 
cơ thể run lên cầm cập sinh ra nhiệt làm nóng cơ thể. Hay câu tục ngữ   “ Trời nóng chóng  
khát, trời mát chóng đói” Câu tục ngữ này có nghĩa là trời nóng cơ thể tiết mồ hôi để điều 
hòa thân nhiệt nên cơ thể mất nhiều nước dẫn đến mau khát; còn trời mát quá trình chuyển 
hóa trong cơ thể tăng lên nên chúng ta cảm thấy nhanh đói hơn.
Khi dạy bài 52: Phản xạ không điều kiện và phản xạ có điều kiện
Để tạo hứng thú học tập cho học sinh giáo viên có thể mở bài bằng câu tục ngữ: 
“ Dạy con từ thủa còn thơ”
Câu tục ngữ này muốn nói lên điều gì? Để giải đáp câu hỏi này chúng ta cùng tìm hiểu  
trong bài 52: Phản xạ không điều kiện và phản xạ  có điều kiện. Khi tìm hiểu phần II­ Sự 
hình thành phản xạ  có điều kiện, giáo viên nhắc lại câu tục ngữ  và yêu cầu học sinh giải 
thích ý nghĩa của câu tục ngữ. Sau đó giáo viên chốt kiến thức: Các thói quen, nếp sống là 
các phản xạ  có điều kiện được hình thành trong đời sống cá thể. Vì vậy, muốn con cái có 
được những thói quen tốt, đức tính tốt cần phải rèn luyện một cách lâu dài, phải uốn nắn từ 
khi còn nhỏ.
Khi dạy bài 54: Vệ sinh hệ thần kinh
Giáo viên mở bài bằng bằng câu tục ngữ:
“ Ăn được, ngủ được là tiên
Không ăn, không ngủ mất tiền thêm lo”

Giáo viên: Trịnh Thị Hiền                                                       Tr
ường THCS Nguyễn Trãi
24


Một số kinh nghiệm tổ chức các tình huống vào bài gây hứng thú học tập cho
 học sinh trong môn Sinh học 8

Theo em câu tục ngữ này muốn nói lên điều gì? Qua những kiến thức về hệ tiêu hóa, 
hệ thần kinh các em sẽ chỉ ra được: Ăn được có nghĩa là quá trình tiêu hóa tốt, cơ thể sẽ 

hấp thụ được nhiều chất dinh dưỡng; ngủ là nhu cầu sinh lí của cơ thể, có tác dụng bảo 
vệ, phục hồi khả năng làm việc của hệ thần kinh. Do đó, ngủ được thì hệ thần kinh sẽ 
được nghĩ ngơi và phục hồi khả năng làm việc tốt. Như vậy, ăn được, ngủ được sẽ có sức 
khỏe tốt, con người sẽ cảm thấy sung sướng, thoải mái được ví giống như là tiên; còn 
không ăn, không ngủ thì cơ thể sẽ bị mệt mỏi, không có sức khỏe để làm việc. Qua đó, giáo 
viên lồng ghép giáo dục thói quen “ ngủ đúng giờ, ngủ đủ giấc” cho học sinh.
4. Tính mới của giải pháp
Trong thực tế  giảng dạy, việc vận dụng các tình huống liên quan đến thực tiễn vào  
trong giảng dạy bộ môn Sinh học nhằm tạo hứng thú học tập cho học sinh đã được nhiều  
giáo viên nghiên cứu và áp dụng, Tuy nhiên, mức độ áp dụng vẫn còn chưa nhiều, chưa đạt  
hiệu quả  cao. Trong đề  tài  “Một số  kinh nghiệm tổ  chức các tình huống vào bài gây  
hứng thứ học tập cho học sinh trong môn Sinh học 8” tôi muốn đưa ra các giải pháp để 
có thể áp dụng vào trong  giảng dạy, góp phần nâng cao chất lượng bộ môn.
Trong giảng dạy, để  có một giờ  học thành công thì trước tiên giờ  học phải phát huy 
được tính chủ động, tích cực, tự  giác, sáng tạo của học sinh. Để  làm được điều này trước  
khi bắt đầu vào bài mới giáo viên phải tạo được tâm thế học tập tốt cho học sinh, thông qua  
việc mở  bài bằng cách kể  cho học sinh nghe một câu chuyện ngắn hay một tình huống có 
trong thực tế hoặc đưa ra một câu ca dao hay tục ngữ……liên quan đến chủ đề bài học sắp 
giảng dạy và yêu cầu học sinh nghiên cứu kiến thức để  trả  lời những vấn đề  có trong tình  
huống vào bài đó, điều này sẽ tạo ra động lực thôi thúc các em tập trung tìm hiểu kiến thức  
để giải quyết vấn đề, từ đó khắc sâu được kiến thức môn học.
 Trong cuộc sống hằng ngày, xung quanh cuộc sống của các em luôn phát sinh những 
tình huống thực tế, làm xuất hiện trong đầu các em rất nhiều các câu hỏi: “Tại sao?”  hay  
“Do đâu?” …các em rất tò mò, muốn tìm hiểu, muốn giải đáp những thắc mắc đó. Tuy  
nhiên trong thực tế giảng dạy nhiều giáo viên chưa chú trọng đến điều này, làm cho tiết học  
trở nên nhàm chán, các môn học trở nên xa lạ, khó hiểu. Từ việc nghiên cứu đặc điểm tâm  
sinh lí lứa tuổi, các vấn đề  nảy sinh trong thực tiễn kết hợp với những kiến thức bộ môn, 
tôi mạnh dạn đưa ra một số  giải pháp, biện pháp như: Sử  dụng các câu chuyện ngắn, các 
câu hỏi, tình huống có trong thực tiễn hay các câu ca dao, tục ngữ  vào giảng dạy nhằm tạo  
hứng thú học tập cho học sinh, giúp các em chủ động trong việc lĩnh hội kiến thức, biết vận 

dụng được những kiến thức bộ môn vào giải quyết các vấn đề  thực tiễn liên quan. Từ  đó 
các em yêu thích môn học hơn, đồng thời chất lượng bộ môn được nâng cao.
         5. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
Kết quả khảo nghiệm:

Giáo viên: Trịnh Thị Hiền                                                       Tr
ường THCS Nguyễn Trãi
25


×