Tải bản đầy đủ (.pdf) (24 trang)

Một số biện pháp giúp trẻ 5- 6 tuổi phát triển ngôn ngữ thông qua môn làm quen văn học tại trường mầm non Hoa Phượng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (547.04 KB, 24 trang )

MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP TRẺ 5­6 TUỔI PHÁT TRIỂN NGÔN NGỮ 
THÔNG QUA HOẠT ĐỘNG LÀM QUEN VĂN HỌC
TẠI TRƯỜNG MẦM NON HOA PHƯỢNG

I. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Phát triển ngôn ngữ cho trẻ là một trong những mục tiêu quan trọng nhất 
của giáo dục mầm non. Ngôn ngữ là công cụ để giao tiếp, học tập, vui chơi, 
ngôn ngữ giữ vai trò quyết định sự phát triển tâm lý trẻ em. Bên cạnh đó ngôn 
ngữ còn là phương tiện để giáo dục trẻ một cách toàn diện bao gồm sự phát 
triển về đạo đức, tư duy nhận thức và các chuẩn mực hành vi văn hóa...
Phát triển ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ là phát triển khả năng nghe, hiểu 
ngôn ngữ, khả năng trình bày có logic, trình tự, chính xác, đúng ngữ pháp và có 
hình ảnh một nội dung nhất định. Vì thế, sự phát triển ngôn ngữ mạch lạc của 
lời nói rất cần thiết, nó được phát triển ngay từ khi trẻ bắt đầu học nói.
Phát triển ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ thực chất là rèn luyện khả năng tư 
duy ngôn ngữ và sử dụng lời nói để giao tiếp bởi vì sự mạch lạc của ngôn ngữ 
chính là sự mạch lạc của tư duy.
Việc phát triển ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ trong giao tiếp sẽ giúp trẻ dễ 
dàng tiếp cận với các môn khoa học khác như : Môn làm quen với môi trường 
xung quanh, làm quen với toán, âm nhạc, tạo hình...mà điều tôi muốn nói ở đây 
đặc biệt là thông qua bộ môn làm quen với tác phẩm văn học trẻ đọc thơ, Kể 
chuyên, đóng kịch tạo điều kiện cho trẻ được hoạt động nhiều, giúp trẻ khả 
năng phát triển trí nhớ, tư duy và ngôn ngữ, khả năng cảm thụ cái hay, cái đẹp, 
cái tốt, cái xấu của mọi vật xung quanh trẻ. Qua làm quen tác phẩm văn học, 
vốn từ của trẻ được mở rộng, trẻ làm quen với cách dùng từ, cách đặt câu, cách 
diễn đạt, lời nói có vần, nhịp, nói có ngữ điệu…


Qua bộ môn văn học giúp trẻ phát triển năng lực tư duy, óc tưởng tượng 
sáng tạo, biết yêu quý cái đẹp, hướng tới cái đẹp. Khi trẻ kể chuyện, ngôn ngữ 


của trẻ phát triển, trẻ phát âm rõ ràng mạch lạc, vốn từ được mở rộng  và phong 
phú hơn. Trẻ biết trình bày ý kiến, suy nghĩ, kể về một sự vật hay sự kiện nào 
đó…bằng chính ngôn ngữ của trẻ
Việc Phat triên ngôn ng
́
̉
ữ mạch lạc cho trẻ  5 – 6 tuổi là việc làm hết sức 
quan trọng, để  tạo tiền đề  vững chắc cho trẻ  trong việc học đọc, học viết khi  
vào lớp một phổ thông. Đồng thời giúp trẻ biết diễn đạt rõ ràng những suy nghĩ 
mong muốn của mình với mọi người và thể hiện cảm xúc với Môi trương xung
̀
 
quanh. Từ những vấn đề  trên, tôi quyết chon đề  tài "Một số  biện pháp giúp trẻ 
5­ 6 tuổi phát triển ngôn ngữ  thông qua môn làm quen văn học tại trường mầm  
non Hoa Phượng".  
2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài 
Giáo dục mầm non là cấp học đầu tiên trong hệ thống giáo dục quốc dân, 
là bộ phận quan trọng trong sự nghiệp đào tạo thế hệ trẻ thành những con người 
có ích, thành những con người mới. Làm tốt việc chăm sóc giáo dục thế hệ  trẻ 
ngay từ thời thơ ấu nhằm tạo ra cơ sở quan trọng của con ng ười Vi ệt Nam m ới,  
người lao động làm chủ tập thể, phát triển toàn diện nhân cách. 
Hiện nay bậc học mầm non đã, đang tiến hành đổi mới chương trình giáo  
dục trẻ  mầm non trong đó đặc biệt coi trọng việc tổ  chức các hoạt động phù 
hợp sự  phát triển của từng cá nhân trẻ, khuyển khích trẻ  hoạt động một cách  
chủ  động tích cực, hồn nhiên, vui tươi, đồng thời tạo điều kiện cho giáo viên  
phát huy khả năng sáng tạo trong việc lựa chọn và tổ  chức các hoạt động chăm  
sóc, giáo dục trẻ  một cách linh hoạt, thực hiện phương châm "Học mà chơi ­ 
Chơi mà học" đáp ứng mục tiêu phát triển của trẻ một cách toàn diện.  
Trong quá trình phát triển toàn diện về  mọi mặt thì văn học là môn rất 
quan



trọng không thể  thiếu đối với trẻ  Mầm non, nó giúp trẻ  hình thành nhân 
cách con người và mang lại những hiểu biết về  cuộc sống xung quanh qua 
những câu chuyện thần thoại, chuyện cổ tích…Đặc biệt hấp dẫn trẻ, nhằm nuôi 
dương tâm hồn trẻ  như: tình yêu quê hương đất nước, yêu cuộc sống thiên 
nhiên, cảm nhận  được cái thiện, cái ác, cái hay, cái đẹp. Giúp trẻ phát triển năng  
lực tư duy, óc tưởng tượng, sáng tạo là phương tiện phát triển ngôn ngữ cho trẻ 
và giúp trẻ phát triển ngôn ngữ  mạch lạc, diễn đạt lưu  loát, biết sử  dụng từ 
đúng lúc đúng chỗ.
3. Đối tượng nghiên cứu
Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 5­6 tuổi thông qua môn làm 
quen văn học  tại trường Mầm non Hoa phượng
4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
Học sinh 5­ 6 tuổi trường Mầm non Hoa phượng
5. Phương pháp nghiên cứu:
+ Phương pháp điều tra
+ Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
+ Phương pháp trao đổi đàm thoại
+ Phương pháp dùng tình cảm động viên, khích lệ.
II. PHẦN NỘI DUNG
1. Cơ sở ly luân 
́ ̣
Bác Hồ của chúng ta đã dạy: “Tiếng nói là thứ của cải vô cùng lâu đời và 
vô cùng quý báu của dân tộc. Chúng ta phải giữ gìn nó, tôn trọng nó”. Do đó, 
việc dạy tiếng mẹ đẻ cho trẻ tuổi mầm non có một ý nghĩa đặc biệt quan trọng. 
Ngôn ngữ của trẻ phát triển tốt sẽ giúp cho trẻ nhận thức và giao tiếp tốt góp 
phần quan trọng vào việc hình thành và phát triển nhân cách cho trẻ.



Sự phát toàn diện của trẻ bao gồm cả phát triển về đạo đức, chuẩn mực  
hành vi văn hóa. Điều gì tốt, điều gì xấu, cần phải  ứng xử, giao tiếp cho phù 
hợp…không chỉ  là sự  bắt chước máy móc. Ngôn ngữ  phát triển sẽ  giúp trẻ  mở 
rộng giao tiếp. 
Ngôn ngữ phát triển  giúp trẻ sớm tiếp thu những lời hay, ý đẹp trong thơ 
ca, chuyện kể. Sự  tác động của những lời nói, ngữ  điệu giọng của cô giáo khi 
truyền cảm xúc của tác phẩm văn học là phương tiện tốt nhất để  phát triển 
ngôn ngữ  cho trẻ. Lứa tuổi Mầm non là giai đoạn phát triển ngôn ngữ  mạnh  
nhất. 
Phát triển ngôn ngữ cho trẻ được tích hợp trong tất cả các hoạt động giáo 
dục trẻ, và nhất là trong hoạt động Làm quen văn học. Vì vậy, dạy cho trẻ mầm  
non nói chung và cho trẻ 5­6 tuổi nói riêng biết cảm nhận văn học là cực kỳ quan 
trọng trong việc giáo dục ngôn ngữ cho trẻ. Vì thế giáo viên cần có những kiến 
thức, kỹ năng, phương pháp , biện pháp ,  linh hoạt trong khi tổ chức hoạt động 
làm quen Văn học để  vận dụng vào việc phát triển ngôn ngữ  cho trẻ  một cách  
tốt nhất.
Văn hoc la môt lo
̣ ̀ ̣ ại hình nghệ thuật đến với trẻ rất sớm và cũng được trẻ 
yêu thích. Nó không chỉ giúp trẻ cảm nhận được nghệ thuật mà qua đó giúp trẻ 
phat triên ngôn ng
́
̉
ư, nhân th
̃
̣
ưc, năng l
́
ực cam xuc, t
̉
́ ưởng tượng, tinh sang tao, s

́
́
̣ ự 
tâp trung chu y, kha năng diên ta đ
̣
́ ́
̉
̃ ̉ ạt... Khac v
́ ới cac môn hoc khac văn hoc hoan
́
̣
́
̣
̀ 
toan xac đinh ro nh
̀ ́ ̣
̃ ững hinh anh va ngôn ng
̀ ̉
̀
ữ cu thê, cung v
̣ ̉ ̀ ơi th
́ ơi gian đa thu hut,
̀
̃
́ 
lam thoa man nhu câu, mong mu
̀
̉
̃
̀

ốn, tinh cam cua tre .
̀
̉
̉
̉
Văn hoc la ph
̣
̀ ương tiên giup tre nhân th
̣
́
̉
̣
ưc thê gi
́
́ ới xung quanh, phat triên
́
̉  
lơi nói, quan h
̀
ệ  giao tiếp, trao đổi tình cảm ....đối với tre. Văn h
̉
ọc là một thế 
giới kỳ  diệu đầy màu sắc, đầy cảm xúc. Trẻ  mâm non dê xuc cam, v
̀
̃ ́ ̉
ốn ngây  
thơ, trong sang nên tiêp xuc v
́
́
́ ơi văn h

́
ọc la môt nhu câu không thê thiêu đôi v
̀ ̣
̀
̉
́ ́ ới  
tre.̉


Mục tiêu của công tác chăm sóc giáo dục mầm non phát triển và hình thành 
nhân cách cho trẻ, việc day tre tiêp cân v
̣
̉ ́ ̣ ơi tac phâm văn hoc là cho tr
́ ́
̉
̣
ẻ  cơ  hội  
được thể hiện mình, tự tin, mạnh dạn và trẻ phát triển vốn từ, trẻ nói đúng ngữ 
pháp.
2. Thực trạng
2.1. Thuận lợi – khó khăn
* Thuận lợi 
Trường Mầm non Hoa Phượng đóng trên địa bàn thị trấn, điều kiện cơ sở 
vật chất tương đối đầy đủ  giáo viên có trình độ  chuyên môn trên chuẩn, nhiệt 
tình, yêu nghề, mến trẻ; có khả năng học hỏi để nâng cao trình độ  chuyên môn; 
hiểu được đặc điểm tâm sinh lý của trẻ.  
Được  sự   quan tâm   giúp  đỡ  của  ban  giám hiệu,  nhà trường  đã  thường 
xuyên tổ chức bồi dưỡng chuyên môn và các đợt chuyên đề  văn học, hội thi đồ 
dùng, đồ chơi cho giáo viên học tập và rút kinh nghiệm.
 Lớp có tương đối đầy đủ cơ sở vật chất, trang thiết bị, đồ  dùng đồ  chơi  

phục vụ cho các môn học.
 Được sự tín nhiệm, tin tưởng của phụ huynh học sinh.
* Khó khăn
Một số trẻ phát âm còn ngọng chưa rõ tiếng Việt. Khả năng chú ý của trẻ 
còn hạn chế, không đồng đều;
Một số  trẻ chưa mạnh dạn còn nhút nhát, thiếu tự  tin, 50% là trẻ  em dân 
tộc thiếu số(Ê đê)
Kinh nghiệm sống còn nghèo nàn, nên gặp rất nhiều khó khăn trong việc 
tổ chức các hoạt động làm quen văn học.
 Khi tổ  chức hoạt động nhiều lúc cô chưa phát huy hết tính sáng tạo của  
trẻ. 


Trong lúc dạy trẻ đọc thơ hay kể chuyện sáng tạo giáo viên còn lúng túng 
trong việc sử  dụng đồ  dùng, chưa biết vận dụng tích hợp các môn học khác và 
khả năng thể hiện diễn cảm còn hạn chế.
2.2. Thành công ­ hạn chế
* Thành công
Trẻ rất hứng thú với các hoạt động đặc biệt là hoạt động làm với văn học, 
trẻ tập trung chú ý khi nghe cô giáo đọc thơ, kể chuyện, trẻ hứng thú, thích thế 
hiện diễn cảm và kể chuyện sáng tạo...   
Giáo viên nắm được phương pháp của môn làm quen với văn học, hiểu 
đặc điểm tâm sinh lý của trẻ. 
* Hạn chế
Tuy nhiên bên cạnh những thành công vẫn còn có những hạn chế  nhất 
định như; một số  trẻ  còn thụ  động, chưa thật sự  mạnh dạn phát âm chưa rõ,  
trong quá trình kể  chuyện thế  hiện diễn cảm và ngũ điệu giọng chưa phù hợp  
hay còn nói ngọng, nói tiếng địa phương 
  Một số  trẻ  chưa mạnh dạn còn nhút nhát, thiếu tự  tin, nhận thức hạn 
chế… dẫn đến khả năng tiêp thu văn hoc ch

́
̣
ưa cao.
Giáo vên đôi lúc chưa thật sự linh hoạt, chất giọng kể còn hạn chế.
2.3. Mặt mạnh, mặt yếu
* Mặt mạnh
 Đồ dùng và trang thiết bị phục vụ cho hoạt động làm quen văn học tương 
đối  đầy đủ.
Giáo viên nhiệt tình, yêu thương trẻ,  chịu khó học hỏi để  nâng cao chất 
lượng hoạt động làm quen văn học.    
Học sinh hứng thú với hoạt động làm quen văn học đặc biệt là giờ  kể 
chuyện;  


Trẻ có cơ hội để thể hiện mình trước mọi người, được kể chuyện, được  
thảo luận với bạn. 
Rèn cho trẻ kỹ năng kể chuyện mạch lạc và diễn cảm để phát triển ngôn 
ngữ
* Mặt yếu
 Khả năng chú ý tiếp thu của trẻ còn hạn chế, một số trẻ chưa mạnh dạn,  
thiếu tự tin, kinh nghiệm sống của trẻ còn nghèo nàn.
 Giáo viên chưa thật sự linh hoạt, sáng tạo trong khi tổ chức hoạt động 
 2.4. Các nguyên nhân, các yếu tố tác động
Phương pháp cho trẻ  làm quen văn học còn rập khuôn, cứng nhắc, chưa  
đồng loạt trong quá trình tổ  chức cho trẻ  làm quen với văn hoc nói chung xoay
̣
 
quanh chủ đề . 
Giáo viên thường tổ chức cho trẻ chơi để  nhằm đạt một số  kỹ  năng theo 
yêu cầu bài học.

Trong khi dạy trẻ  giáo viên thường hay chú ý đến kết quả  dạy tre, đ
̉ ể 
nhận xét, đánh giá mà chưa chú ý đến quá trình hoạt động của trẻ. 
* Khảo sát đầu năm về khả năng thể hiện ngôn ngữ của trẻ
+   Khi chưa thực hiện
Khả năng

Phát   âm   rõ   ràng, 

Sĩ số

Số trẻ 

Tỉ lệ 

Số trẻ 

đạt yêu  %

chưa đạt

cầu

yêu cầu

Tỉ lệ %

32

17


53 %

15

47 %

32

16

50 %

16

50 %

đúng ngữ pháp
Hứng   thú   kể 
chuyện, đọc thơ  


Biết   thể   hiện   ngữ 

32

10

31 %


22

69 %

điệu, hoàn cảnh khả 
năng   diễn   đạt   ngôn 
ngữ mạch lạc...
2.5. Phân tích, đánh giá các vấn đề về thực trạng mà đề tài đã đặt ra.
Qua quá trình cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học tôi nhận thấy rằng;  
trẻ  mầm non chưa biết cầm sách và tự  đọc chuyện. Để  cảm nhận được câu  
chuyện, bài thơ trẻ phải nhờ vào người lớn. Vì vậy cô giáo là người trung gian là 
chiếc cầu nối để  giúp trẻ. Do đó lời đọc thơ, kể  câu chuyện là phương pháp 
quan trọng nhất khi cho trẻ đọc thơ hoặc kể chuyện. Lời đọc,  kể càng hay càng  
hấp dẫn bao nhiêu thì giúp trẻ phát triển ngôn ngữ bấy nhiêu. Đó là thước đo để 
đánh giá mức độ  phát triển ngôn ngữ  của trẻ. Nhưng trong quá trình dạy trẻ 
chúng ta chưa chú ý đến sở  thích, nhu cầu hay khả  năng cảm nhận của trẻ  mà  
mới chú ý đến việc thực hiện đúng chương trình, áp đặt trẻ  phải thế hiện máy  
móc theo sự  suy nghĩ của giáo viên, trẻ  thụ  động ngồi nghe ít có cơ  hội hoạt  
động.
         Trong chương trình giáo dục mầm non hiện nay giáo viên phải lựa chọn  
các phương pháp, hình thức phù hợp với yêu cầu của từng tiết dạy để thu hút sự 
chú ý tập trung của trẻ, tạo hứng thú cho trẻ trong tiết học, giúp cho giờ học đạt 
hiệu quả  cao. Muốn vậy cô giáo phải; lấy trẻ  làm trung tâm phát huy tính tích 
cực của trẻ, dạy trẻ theo hướng lồng ghép tích hợp.
Một yêu cầu đối với giáo viên khi dạy trẻ  làm quen với văn học là kiến  
thức truyền đạt đến trẻ phải ngắn gọn, dễ hiểu, luôn sáng tạo, đổi mới, ngoài ra 
để tạo hứng thú và sự tập trung chú ý của trẻ thì cô giáo phải có nghệ thuật lên  
lớp, ngôn ngữ diễn đạt phải diễn cảm, logic...
3. Giải pháp, biện pháp
3.1. Mục tiêu của giải pháp, biện pháp 



Khi dạy trẻ một bài thơ hoặc câu chuyện , cô giáo phải nghiên cứu kỹ bài  
thơ, câu chuyện đó trước khi đọc, kể  cho trẻ nghe để  thể  hiện giọng, ngữ điệu  
phù hợp với diễn biến tâm trạng, hành động của mỗi nhân vật để truyền đạt cho  
trẻ một cách hấp dẫn, sinh động, tạo sự  hứng thú cho trẻ , để trẻ  lắng nghe và  
lĩnh hội  trọn vẹn câu chuyện, bài thơ một cách tốt nhất.
3.2. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp
Để giải quyết được những vấn đề trên, trước mỗi tiết dạy cô phải chuẩn 
bị  chu đáo giáo án, đồ  dùng trực quan phong phú để  gây hứng thú cho trẻ  như 
tranh  ảnh, con rối, mô hình, sưu tầm các bài vè, bài thơ dân gian, bài hát dân ca, 
câu đố, giáo dục môi trường phù hợp để lồng ghép vào từng tiết dạy.
Tự học, tự rèn luyện để có kỹ năng đọc, kể tự tin, diễn cảm… dành nhiều 
thời gian để nghiên cứu tác phẩm, xem nội dung tác phẩm đó giáo dục trẻ những 
gì, đó có thể  là con người cũng có thể  là các loài vật với những tính cách đạo 
đức khác nhau như: hiền hay ác, nhanh hay chậm, nhút nhát hay dũng cảm, khiêm 
tốn hay kiêu ngạo, … để  lồng ghép giáo dục một cách nhẹ  nhàng mà có hiệu 
quả.
Ví dụ: Bài thơ  "Hoa kết trái" giáo dục trẻ  vẻ  đẹp của các loại hoa và 
không được hái hoa, bẻ cành để hoa làm đẹp cho cuộc sống, hoa cho quả ngot... 
Ví dụ: Truyện "Rùa và Thỏ" giáo dục trẻ không nên chủ quan, coi thường  
người khác. Nhờ  sự  thông minh, kiên trì của "Chú Rùa" chậm chạp đã về  đích 
trước. Còn “Chú Thỏ” kiêu ngạo bị thua cuộc.
Ví dụ: Truyện “Quả  bầu tiên” , qua câu chuyện giúp trẻ  biết được “lão 
nhà giàu” tham lam, ác độc bị rắn rết cắn chết. “Cậu bé” hiền lành, chăm chỉ, tốt 
bụng hay giúp đỡ mọi người nên được sống một cuộc sống vui vẻ, đầy đủ… 
Qua những câu chuyện, bài thơ  này đã giúp tôi xác định được một hệ 
thống câu hỏi cho phần đàm thoại. Xác định được giọng kể  phù hợp với từng 
nhân vật và diễn biến  câu chuyện.



* Biện pháp 1: Sử dụng dụng cụ trực quan.
Trong quá trình giảng dạy tôi đã sử  dụng các phương tiện trực quan sinh 
động gần gũi  để  thu hút sự  tập trung chú ý của trẻ  như: con vật, nhà cửa, cây 
cối... Khi kể chuyện, đọc thơ  có tranh ảnh minh họa. Đọc, kể  đến đâu sử  dụng 
hình  ảnh tương  ứng với đoạn chuyện hoặc đoạn thơ  đó. Dùng thước chỉ  chính 
xác vào nhân vật, hoặc hình  ảnh đang đọc, kể. Các hình  ảnh phải phù hợp  sát  
với nội dung của bài thơ, câu chuyện đó   
Kể chuyện, đọc thơ cho trẻ nghe bằng màn hình Power Point, những hình  
ảnh sinh động ngộ nghĩnh phù hợp với nội dung và các tình tiết trong chuyện, bài 
thơ. Giọng kể , đọc phải diễn cảm, mỗi nhân vật có giọng nói khác nhau để gây 
hứng thú và lôi cuốn trẻ vào hoạt động làm quen văn học.
* Biện pháp 2: Đọc và kể chuyện cho trẻ nghe.
Ở lứa tuổi mẫu giáo trẻ chưa thể tự đọc được bài thơ, câu chuyện. Muốn 
đưa được các tác phẩm văn học đến với trẻ thì phải qua yếu tố trung gian đó là 
lời kể, giọng đọc của cô giáo hoặc của ông bà, cha mẹ, anh chị. Phải phân biệt 
được giữa đọc và kể khác nhau.
Ví dụ: Truyện "Chú Dê Đen" giọng nói của nhân vật "Dê Đen" to, hung 
dữ, ồm ồm còn nhân vật "Dê Trắng" giọng kể nhỏ hơn run sợ.
Khi đọc chuyện cho trẻ  nghe là đọc trọn vẹn nguyên văn tác phẩm. Còn  
kể chuyện là kể lại nội dung chính của câu chuyện. Trong khi kể tôi có thể thêm 
hoặc bớt đi các chi tiết mà không làm ảnh hưởng đến nội dung chuyện. còn đọc 
thơ là phải đọc đầy đủ từng câu, từng từ.
Khi kể  tôi phải xác định câu chuyện  đó thuộc loại nào, cổ  tích hay ngụ 
ngôn... để tìm hiểu ý của từng đoạn mà thể hiện giọng đọc, kể cho phù hợp với  
tính cách của mỗi nhân vật. Cùng một nhân vật nhưng trong các bối cảnh khác  
nhau, sắc thái ngôn ngữ  cũng khác nhau. Bằng những biện pháp nhân hoá gắn 
với kỹ  thuật cường độ, nhịp điệu, ngắt giọng, cử  chỉ, ánh mắt để  thể  hiện rõ 
nét.



VD: câu chuyện "Cáo, Thỏ, Gà trống" thì giọng của " Cáo" khi đuổi "Bầy  
Chó và bác Gấu" giọng nói to, nhấn mạnh giọng và nhanh, còn lúc gặp "chú Gà  
Trống" lúc này "Cáo" sợ hãi nên thế hiện giọng nhỏ hơn và chậm lại, run sợ.  
Khi kể chuyện, đọc thơ cô cần sử dụng cử chỉ điệu bộ ánh mắt để hỗ trợ 
thêm cho giọng kể, đọc của mình.  
*Biện pháp 3: Đàm thoại theo nội dung bài thơ câu chuyện chuyện.
 Đây là phương pháp đàm thoại giữa cô và trẻ trong đó cô giữ  vai trò chủ 
động. Để đặt ra những câu hỏi cho trẻ trả lời và đồng thời cô gợi ý nếu trẻ gặp  
khó khăn và khuyến khích trẻ trả lời những câu hỏi cao hơn so với trình độ  của 
trẻ, để  nhằm phát huy tính tích cực, tư  duy của trẻ. Câu hỏi của cô đặt phải  
ngắn gọn, rõ ràng, rõ ý. Cô đặt câu hỏi chung cho cả lớp yêu cầu trẻ suy nghĩ và 
trả lời. Sau đó yêu cầu trẻ giơ tay, gọi một trẻ trong số các trẻ giơ tay trả lời, cô 
nhắc cho cả  lớp nghe câu trả  lời của bạn và kiểm tra lại ý kiến của mình. Có  
thể  gọi thêm một vài trẻ  khác trả  lời hoặc nhận xét câu trả  lời của bạn nhằm  
khuyến khích sự mạnh dạn tự tin ở trẻ. Sửa những câu trả lời không đúng, thiếu  
chính xác bằng các câu nói nhẹ nhàng (Bạn đã có tinh thần xung phong, bạn trả  
lời gần đúng rồi đấy...Vậy bạn nào có nhận xét khác không nào?; ...)
Ví dụ:  trong chuyện “Quả  bầu tiên” cô đặt câu hỏi: Trong chuyện có 
những nhân vật nào? Các con có nhận xét gì về các nhân vật? Các con yêu nhân  
vật nào? Vì sao?  
Đàm thoại có tác dụng lớn đối với giáo dục trẻ. Vì trẻ  thích tìm tòi, thắc 
mắc, ngược lại trong khi đàm thoại giúp cho tôi đánh giá được trình độ  nhận 
thức của trẻ  và biết được khả  năng lĩnh hội kiến thức của từng trẻ  cũng như 
khả năng diễn đạt bằng ngôn ngữ của từng trẻ.
Đàm thoại giúp cho trẻ biết so sánh, nhân cách hoá lên từng câu chuyện để 
phát triển tư duy và ngôn ngữ cho trẻ.
*Biện pháp 4: Dạy trẻ kể lại chuyện.



Là phương pháp thực hành tốt nhất để  kiểm tra khả  năng phát triển ngôn 
ngữ  của trẻ. Phương pháp này không thể tách rời phương pháp kể  chuyện diễn 
cảm, đàm thoại và trực quan, có tiến hành tốt các phương pháp trên thì mới tiến  
hành tốt phương pháp kể lại chuyện.
Phần quan trọng của tiết học chính là việc trẻ  tự  kể  lại chuyện. Để  gây  
hứng thú cho trẻ, giáo viên cần có nhiều hình cho trẻ  kể  lại chuyện. ( trẻ  kể 
chuyện diễn cảm, kể  chuyện theo tranh, tập  đóng kịch...) Trẻ  được học kể 
chuyện, xây dựng các câu đúng ngữ  pháp, truyền đạt lại một cách chặt chẽ  và  
tuần tự nội dung, sử dụng từ, cách thể hiện của tác giả cũng như  lời của chính  
mình để truyền đạt lại nội dung câu chuyện. Điều rất quan trọng  là làm sao cho  
khi trẻ kể chuyện lời nói hình ảnh nghệ thuật của nhân vật trong chuyện thành  
lời của riêng trẻ, trẻ kể diễn cảm biết kết hợp cử chỉ điệu bộ. Nếu câu chuyện  
không dài, trẻ có thể kể lại một cách đầy đủ. Câu chuyện dài hơn cần chia thành 
các phần và cho trẻ kể theo các phần đó. Chỉ  dùng câu hỏi để gởi ý, nhắc nhở .  
Câu hỏi phải cụ  thể, không làm cho trẻ  lãng quên nội dung câu chuyện. Thỉnh 
thoảng cô nhắc trẻ một vài hành động nhân vật, một vài từ ngữ trẻ bỏ qua hoặc  
quên (từ ngữ đó liên quan đến nội dung chính của câu chuyện).
Cô lựa chọn cháu nào lên kể trước (cháu có lời nói phát  triển hay ngược  
lại, có thể chọn cháu nhút nhát để rèn sự tự tin và ngôn ngữ cho trẻ) Sự lựa chọn 
phù thuộc vào mức độ khó khăn của câu chuyện, vào nhiệm vụ cụ thể đặt ra cho  
tiết học và vào đặc điểm cá nhân của trẻ.
Nếu câu chuyện có khối lượng không lớn, nội dung đơn giản, cô có thể 
yêu cầu các cháu yếu hơn. Câu chuyện dài có thể cho những trẻ nhanh nhẹn kể 
nối tiếp. Điều quan trọng là làm sao có thể gọi từng cháu. Đối với những trẻ  ít 
tập trung chú ý cần động viên khuyến khích trẻ  . Có thể  dạy trẻ  tập nhập vai  
đóng kịch   cùng cô và các bạn khác ( cho trẻ  vào vai nhân vật đơn giản nhất  
trong câu chuyện). Có như vậy mới phát triển  ngôn ngữ cho trẻ mạch lạc hơn. 


Trong khi trẻ  kể  cô theo sửa những chỗ  cháu chưa thể  hiện đúng giọng 

điệu, tính cách nhân vật hay khi ngắt giọng...  
* Biện pháp 5: Lồng ghép đọc thơ, kể chuyện vào các môn học khác
Cô giáo là người xác định chủ đề lên kế hoạch tổ chức lồng ghép các môn 
học một cách hợp lý để  trẻ  phát huy hứng thú, khuyển khích trẻ  tích cực chủ 
động trong tiết học. 
Với lời kể  diễn cảm, hấp dẫn nhưng biết tích hợp các môn học khác thì  
sẻ hay hơn vì nó làm thay đổi không khí, làm thay đổi trạng thái khi kể chuyện. 
Bằng những lời ca, lời đối thoại, những câu đố, những bài đồng dao, ca dao hay  
một số trò chơi xen lẫn.
Ví dụ: Bài thơ  “Thỏ  Bông bị   ốm”, “Ong và Bướm”….hoặc cho trẻ  đọc 
thuộc các   một số bài đồng dao, ca dao “Vè chim”, “Đi cầu đi quán”…. 
Việc tích hợp các môn học khác giáo viên phải linh hoạt, lựa chọn nội  
dung, kết hợp nhuần nhuyễn sao cho phù hợp với nội dung câu chuyện, giúp trẻ 
tham gia vào hoạt động một cách tích cực và ngôn ngữ  của trẻ  được phát triển  
mạnh nhất.
3.3. Điều kiện thực hiện giải pháp, biện pháp
Giáo viên phải nỗ lực hết mình và dành nhiều thời gian nghiên cứu và đầu 
tư vào việc giảng dạy, xây dựng kế hoạch cụ thể, đi sâu nội dung bài dạy.
Tự  bản thân của mỗi giáo viên phải không ngừng học tập để  cập nhật  
thông tin, kiến thức.
Giáo viên cần được sự  hỗ  trợ  về thiết bị dạy học thiết thực và hiệu quả 
cùng với  việc linh hoạt, chủ động làm đồ dùng dạy học.
Điều quan trọng hơn hết, mỗi giáo viên phải có tâm huyết với nghề.
3.4. Mối quan hệ giữa các giải pháp, biện pháp


Để  thực hiện thành công của một tiết dạy, chúng ta cần vận dụng phối  
hợp các giải pháp, biện pháp một cách hài hòa, phù hợp với mục tiêu bài, điều 
kiện, trình độ, khả năng...của học sinh, nhằm đạt được hiệu quả cao nhất. 
Nếu tất cả biện pháp đều có sự  kết hợp đồng bộ, nhịp nhàng thì việc làm 

cho các cháu yêu thích môn làm quen văn học sẽ tự tìm đến các câu chuyện, bài 
thơ phù hợp của lứa tuổi mình.
3.5. Kết quả khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu  
Với việc áp dụng một số  biện pháp trên vào giờ  kể  chuyện, đọc thơ  cho  
tre tai l
̉ ̣ ơp tôi  th
́
ấy được kết quả như sau:
Các cháu tỏ ra nhanh nhẹn và mạnh dạn, tự tin phát âm rõ ràng, mạch lạc,  
thể  hiện đúng ngữ  điệu, khả  năng ngôn ngữ  của trẻ  phát triển mạnh, trẻ  biết  
diễn đạt ngôn ngữ mạch lạc phù hợp với hoàn cảnh của bài thơ, câu chuyện. 
Trẻ  đã hứng thú vào giờ  làm quen văn học hơn trước, khả  năng tiếp thu  
các câu chuyện, bài thơ của trẻ cũng tăng lên rõ rệt, số trẻ đọc, kể lại được các  
bài thơ, câu chuyện nhiều hơn và khả  ngăng diễn đạt bằng ngôn ngữ  rõ ràng, 
mạch lạc hơn rõ rệt.
* Kết quả sau khi thực hiện:
Khả năng

Sĩ 

Số trẻ

Tỉ lệ 

Số trẻ 

số

đạt yêu  %


chưa đạt 

cầu

đạt yêu 

Tỉ lệ %

cầu
Phát âm rõ ràng, đúng ngữ  32

27

84 %

5

16 %

24

75 %

8

25 %

25

78 %


7

22 %

pháp
Hứng   thú   kể   chuyện,   đọc  32
thơ  
Biết   thể   hiện   ngữ   điệu,  32
hoàn   cảnh   khả   năng   diễn 


đạt ngôn ngữ mạch lạc...
   4. Kêt qua thu đ
́
̉
ược qua khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề 
nghiên cứu
Qua kết quả trên, tôi nhận thấy những biện pháp nghiên cứu của mình về 
việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ 5­6 tuổi thông qua môn làm quen văn học là rất 
khả thi. Với những biện pháp  này có thể tạo nên sự   năng động, nhiệt tình của 
cả người dạy và người học. Trong đó, người dạy có ý thức trách nhiệm với tiết  
dạy, tạo nên một hình  ảnh người cô giáo mẫu mực, tận tụy trong con mắt của  
học sinh.
Còn đối với học sinh, với những biện pháp giảng dạy theo đề  tài nghiên 
cứu của tôi trẻ  hứng thú, tích cực vào hoạt động, tự  tin mạnh dạn phát triển  
ngôn ngữ  mạch lạc biết thế  hiện cường độ, ngữ  điệu giọng phù hợp với đối 
tượng, hoàn cảnh cụ thể trong văn học để áp dụng vào cuộc sống hàng ngày của  
trẻ. Có kỹ  năng tham gia vào các hoạt động, bổ  sung kiến thức khá phong phú,  
vững vàng, tự  tin. Với những nội dung trên, chứng tỏ  các biện pháp mà tôi đã 

nghiên cứu trong đề tài này có tính thực tế, mang tính khoa học và đem lại hiệu  
quả cao hơn trước.
III. PHẦN KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
Qua một học kì, tôi đã nghiên cứu và khảo nghiệm đề tài của mình. Trong  
đó, tôi đã sử dụng nhiều biện pháp. Nhưng tôi nhận thấy để  giúp trẻ  phát triển  
ngôn ngữ không có cách nào tốt hơn là người giáo viên phải kích thích được sự 
ham thích môn học của trẻ. Muốn làm được điều đó, tùy theo từng lớp học, từng  
bài giảng mà người giáo viên sử dụng một cách linh hoạt các phương pháp giảng  
dạy. Nhưng vấn đề trọng tâm là phải nâng cao vai trò của học sinh, đưa các em 
lên làm nhân vật trung tâm của mỗi tiết dạy. Người giáo viên  phải thực hiện 


được “lấy học sinh làm trung tâm”. Có như vậy mới phát huy được tính tích cực  
sáng tạo của trẻ  từng tiết học.
Muốn cho chất lượng và hiệu quả giảng dạy tốt nhất thì người giáo viên, 
trước hết phải có tấm lòng yêu nghề, mến trẻ  thực sự, biết chia sẻ  niềm vui, 
nỗi buồn cùng trẻ, coi trẻ như con của mình. Như vậy thì mới khắc phục được 
những khó khăn và hoàn thành tốt nhiệm vụ.
Mặt khác, giáo viên phải không ngừng tự  học, tự  rèn luyện, tìm tòi, sáng  
tạo nâng cao trình độ chuyên môn; sưu tầm các trò chơi dân gian, bài hát dân ca, 
ca dao, đồng dao, câu đố,…để đưa vào tiết dạy; nghiên cứu kỹ các tác phẩm văn  
học, luyện kỹ  năng đọc, kể    diễn cảm...; tăng cường giao tiếp tiếng Việt cho  
trẻ vào mọi lúc, mọi nơi; tham dự các chuyên đề, các tiết dạy mẫu để  rút kinh  
nghiệm; đầu tư làm đồ dùng, đồ chơi và thay đổi nhiều phương pháp mới trong 
khi tổ chức hoạt động làm quen văn học để thu hút trẻ.
 Ngoài ra giáo viên cần sử dụng dụng cụ trực quan đa dạng và sinh động; 
tìm các thủ thuật đàm thoại để phát huy hết khả năng hiểu biết của trẻ; thường 
xuyên cho trẻ ôn luyện, tập đọc, kể mọi lúc, mọi nơi và đặc biệt cô phải kiên trì  
dạy trẻ  theo quy trình từ  dễ  đến khó, từ  đơn giản đến phức tạp giúp trẻ  nắm  

bắt. Cô khen ngợi, động viên trẻ  kịp thời để  trẻ  cảm thấy tự  tin và vui sướng  
tham gia vào tiết học. 
Giáo viên làm tốt công tác tuyên truyền kiến thức văn học đến với các bậc  
phụ huynh để cùng phối hợp chăm sóc giáo dục trẻ; đánh giá hàng ngày và rút ra  
những ưu khuyết điểm sau mỗi tiết học để bổ sung thêm vào các tiết học sau.
2. Kiến nghị
* Với nhà trường
Nhà trường tham mưu với các cấp lãnh đạo để xây dựng nâng cấp  tu sửa  
trường lớp  


Xây dựng kế  hoạch mua sắm, bổ sung thêm trang thiết bị, đồ  dùng phục  
vụ hoạt động dạy và học.   
* Với giáo viên 
Giáo viên phải nỗ lực hết mình và dành nhiều thời gian nghiên cứu và đầu 
tư vào việc giảng dạy, xây dựng kế hoạch cụ thể, đi sâu nội dung bài dạy.
Tự  bản thân của mỗi giáo viên phải không ngừng học tập để  nâng cao 
kiến thức và cập nhật thông tin.   
Chủ  động, linh hoạt, sáng tạo trong việc làm đồ  dùng phục vụ  công tác 
dạy học.
Trên đây là một số  kinh nghiệm mà trong thời gian qua tôi đã thực hiện. 
Tuy chưa phải hoàn thiện vẫn còn nhiều thiếu sót cần bổ  sung nhưng đây cũng 
là kết quả mà bản thân tôi đã tìm tòi học hỏi và vận dụng để giúp trẻ phát triển  
ngôn ngữ, từ  đó góp phần phát triển toàn diện về  mọi mặt cho trẻ. Rất mong 
được sự đóng góp ý kiến đồng nghiệp và hội đồng chấm sáng kiến kinh nghiệm  
để  tôi rút kinh nghiệm cho bản thân, góp phần đưa chất lượng chăm sóc, giáo 
dục trẻ ngày càng tốt hơn. 
Xin trân trọng cảm ơn!
                                                           
                                                          Krông Ana, ngày 20 tháng 02 năm 2016  

                                                                             Người viết

                                                                           Trần Thị Vinh

NHẬN XÉT CỦA HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN
......................................................................................................................................
......................................................................................................................................


......................................................................................................................................
...................................................................................................................................... 
                                                CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN

TÀI LIỆU THAM KHẢO

STT

1

TÊN TÀI LIỆU

TÁC GIẢ

Phương pháp cho trẻ làm quen  Cục đào tạo và bồi dưỡng Giáo 
với tác phẩm văn học­ tập 1

viên   ­   Nhà   xuất   bản   Hà   Nội 
năm 2001. 

2


Tuyên tâp trò ch
̉ ̣
ơi, bai hat, th
̀ ́ ơ  Nha xuât ban giao duc năm 
̀ ́ ̉
́ ̣
truyện mâu giao 5­ 6 tuôi
̃
́
̉

3

2001.

Tài liệu: BDTX chu kỳ hai cho  Nhà xuất bản Hà Nội
Giáo viên Mầm non năm 2004­ 
2007 

4

Tài liệu: BDTX Giáo viên 

Nguyễn Thị Minh Thảo


Mầm non ­ Module MN 3 
5


Hương dân tô ch
́
̃ ̉ ức thực hiên
̣   Nha xuât ban giao duc năm 
̀ ́ ̉
́ ̣
cać   hoat
̣   đông
̣   giaó   duc̣   trong 
trương
̀   mâm
̀   non   theo   chủ   đề 
( tre t
̉ ư 5­6 tuôi).
̀
̉

6

Tâm   lý   học   trẻ   em   lứa   tuổi  Nguyễn Ánh Tuyết NXB ĐHSP
mầm non 

 

MỤC LỤC


MỤC
I


         NỘI DUNG 
Phần mở đầu

TRANG
1
1

1

Lý do chọn đề tài

2

Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài

3

Đối tượng nghiên cứu

2

4

Giới hạn phạm vi nghiên cứu

3

5

Phương pháp nghiên cứu


3

II

 Phần nội dung

1

Cơ sở lý luận

3

2

Thực trạng

4

3

Giải pháp, biện pháp

6

4

Kết   quả   thu   đươc   từ   khảo 
nghiệm,   giá   trị   khoa   học 
của vấn đề nghiên cứu


III

Kết luận và kiến nghị 

1

Kết luận

2

Kiến nghị

2

3



PHÒNG GD&ĐT KRÔNG ANA


TRƯỜNG MẦM NON HOA PHƯỢNG

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
ĐỀ TÀI
MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP TRẺ 5­6 TUỔI PHÁT TRIỂN NGÔN 
NGỮ THÔNG QUA HOẠT ĐỘNG LÀM QUEN VĂN HỌC
TẠI TRƯỜNG MẦM NON HOA PHƯỢNG





×