Tải bản đầy đủ (.pdf) (28 trang)

Một số kinh nghiệm giúp học sinh học tốt môn Tiếng Việt lớp 5 theo mô hình VNEN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (8.31 MB, 28 trang )

Một số kinh nghiệm giúp học sinh học tốt môn Tiếng Việt lớp 5 theo mô hình VNEN

MỤC LỤC
NỘI DUNG

TRANG

Mục lục

1

I. Mở đầu

3

1. Lý do chọn đề tài

3

2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài

4

3. Đối tượng nghiên cứu

4

4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu

4


5. Phương pháp nghiên cứu

5

II. Nội dung

5

1. Cơ sở lý luận 

5

2. Thực trạng

6

   2.1. Thuận lợi­ khó khăn

6

   2.2. Thành công­ hạn chế

7

   2.3. Mặt mạnh­ mặt yếu

7

   2.4. Các nguyên nhân, các yếu tố tác động


8

   2.5.  Phân tích, đánh giá các vấn đề về thực trạng mà đề  tài đã 
đặt ra

8

3. Giải pháp, biện pháp

9

   3.1. Mục tiêu của giải pháp, biện pháp

9

   3.2. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp

9

   3.3. Điều kiện để thực hiện giải pháp, biện pháp

22

   3.4. Mối quan hệ giữa các giải pháp, biện pháp

22

Giáo viên: Trần Thị Lan Chung – Trường TH Nguyễn Văn Trỗi                      1



Một số kinh nghiệm giúp học sinh học tốt môn Tiếng Việt lớp 5 theo mô hình VNEN

   3.5. Kết quả khảo nghiệm, giá trị  khoa học của vấn đề  nghiên 
cứu

23

4. Kết quả  thu được qua khảo nghiệm, giá trị  khoa học của vấn 
đề nghiên cứu

24

III. Kết luận, kiến nghị

25

1. Kết luận

25

2. Kiến nghị

25

Nhận xét của hội đồng chấm sáng kiến cấp trường – cấp huyện

26

Tài liệu tham khảo


28

Giáo viên: Trần Thị Lan Chung – Trường TH Nguyễn Văn Trỗi                      2


Một số kinh nghiệm giúp học sinh học tốt môn Tiếng Việt lớp 5 theo mô hình VNEN

I. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Giáo dục Tiểu học là một trong các hình thức giáo dục trong hệ thống 
giáo dục phổ thông. Xác định mục tiêu Giáo dục Tiểu học, trong điều 27, luật  
Giáo dục 2011 đã quy định rõ: “Giáo dục Tiểu học nhằm giúp học sinh hình 
thành những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, 
trí tuệ, thể  chất, thẩm mỹ  và các kỹ  năng cơ  bản để  học sinh tiếp tục học  
trung học cơ sở”.
Tiếng Việt là một trong các môn học có vai trò đặc biệt  ở  bậc Tiểu 
học, điều đó được thể hiện qua thời lượng giảng dạy qua từng khối lớp, nó 
là phương tiện chủ yếu để học sinh tiếp thu kiến thức của các môn học khác. 
Môn Tiếng Việt  ở  Tiểu học có nhiệm vụ  hình thành năng lực ngôn ngữ  cho  
học sinh, thể hiện ở bốn kỹ năng: nghe, nói, đọc, viết. Cung cấp cho học sinh  
những kiến thức sơ  giản về Tiếng Việt và các hiểu biết về  xã hội, tự  nhiên 
và con người. Môn Tiếng Việt còn là một công cụ hữu hiệu trong hoạt động 
và giao tiếp ở học sinh, giúp học sinh chủ động, tự tin, mạnh dạn thể hiện ý  
kiến của mình. Từ  đó giúp học sinh hình thành và phát triển các kỹ  năng cơ 
bản khác. Với mục tiêu cuối cùng là bồi dưỡng tình yêu Tiếng Việt và hình  
thành thói quen giữ  gìn sự  trong sáng và giàu đẹp của Tiếng Việt, góp phần 
hình thành nhân cách của con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Tuy nhiên, qua thực tế giảng dạy, tôi thấy việc dạy và học môn Tiếng 
Việt hiện nay đang gặp những khó khăn: Hạn chế  dễ  thấy nhất là việc dạy 
và học khuôn mẫu, máy móc, thiếu tính chân thực. Học sinh ngay cả  người 

lớn trong giao tiếp, trong các văn phong vẫn còn diễn đạt lủng củng, sử dụng 
câu chưa đúng kết cấu ngữ  pháp, chưa đảm bảo liên kết câu, liên kết đoạn;  
học sinh học theo câu mẫu, bài văn mẫu quá nhiều, học theo khuôn mẫu nhất  
định, cảm thụ  ít, không có sự  sáng tạo riêng của mỗi cá nhân. Học sinh học  
chữ  nhiều, phát triển con người ít do đó phát triển các kỹ  năng giao tiếp cho 
học sinh còn hạn chế (nói không rõ ý, viết không thành câu, diễn đạt rườm rà,  
khó hiểu,…). Rõ ràng các em vẫn chưa phát huy hết khả  năng và tính chủ 
động của mình trong học tập, khả  năng diễn đạt bằng ngôn ngữ  của các em  
còn nhiều hạn chế. 

Giáo viên: Trần Thị Lan Chung – Trường TH Nguyễn Văn Trỗi                      3


Một số kinh nghiệm giúp học sinh học tốt môn Tiếng Việt lớp 5 theo mô hình VNEN

Đặc biệt khi học sinh học tập theo mô hình trường học mới­ VNEN, 
một  mô  hình tổ  chức dạy học theo nhóm, mô hình đặt học sinh vào môi  
trường học tập tích cực giúp các em rèn được các kỹ  năng. Từ  đó giúp học  
sinh học hỏi lẫn nhau, phát huy tinh thần trách nhiệm, tính tích cực trên cơ sở 
hợp tác. Do vậy với mô hình học tập mới này đã thay đổi cả  cách học của  
học sinh, cách dạy và đánh giá của giáo viên đặc biệt thay đổi cả cách tổ chức 
lớp học thì những ngoài yêu cầu về kiến thức, sự phát triển các kỹ  năng cho 
học sinh trong đó có kỹ  năng giao tiếp, kỹ  năng diễn đạt là điều rất quan  
trọng. 
Hiện nay, chúng ta đang dạy học theo xu hướng nâng cao dần kết quả 
của học sinh trong khi việc dạy học của các thầy giáo, cô giáo chưa đạt yêu  
cầu về  sự  hướng dẫn, dìu dắt người học từng bước. Chấm bài thì dễ  dàng 
tìm ra sai sót nhưng làm sao để  học sinh khỏi sai sót, chỉ  ra được cụ  thể, rõ 
ràng sai sót của các em để đưa ra biện pháp hỗ trợ phù hợp thì phần lớn chúng 
ta chưa chỉ ra cách làm đầy đủ và đúng hướng cho học sinh.

Xuất phát từ  những thực trạng và băn khoăn đó, tôi chọn đề  tài: “Một  
số  kinh nghiệm giúp học sinh học tốt môn Tiếng Việt lớp 5 theo mô hình  
VNEN”. Mong rằng đề  tài này sẽ  mang lại những điều bổ  ích cho học sinh,  
giáo viên và phụ  huynh trong việc dạy và học môn Tiếng Việt theo mô hình  
VNEN hiện nay.
2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài
Mục tiêu của đề  tài: Áp dụng một số  kinh nghiệm để  dạy học môn 
Tiếng Việt theo mô hình trường học mới VNEN. 
Nhiệm vụ của đề tài: Nâng cao chất lượng dạy và học môn Tiếng Việt 
lớp 5 theo mô hình VNEN. Định hướng cho GV trong việc thực hiện tổ chức  
hoạt động dạy học nhằm khắc phục một số hạn chế, khó khăn của học sinh  
trong học Tiếng Việt. Học sinh chủ  động, tích cực hơn trong các hoạt động 
học tập, góp phần phát triển được phẩm chất, năng lực toàn diện cho học  
sinh, bồi dưỡng tình yêu Tiếng Việt và giữ gìn sự trong sáng của Tiếng Việt, 
hình thành nhân cách con người xã hội chủ nghĩa.
3. Đối tượng nghiên cứu

Giáo viên: Trần Thị Lan Chung – Trường TH Nguyễn Văn Trỗi                      4


Một số kinh nghiệm giúp học sinh học tốt môn Tiếng Việt lớp 5 theo mô hình VNEN

Đối tượng nghiên cứu của đề tài này là một số kinh nghiệm để học tốt 
môn Tiếng Việt  lớp 5, trường Tiểu học Nguyễn Văn Trỗi, theo mô hình 
VNEN.
4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
Khuôn khổ nghiên cứu: Một số kinh nghiệm giúp học sinh học tốt môn 
Tiếng Việt lớp 5.
Đối tượng khảo sát: Học sinh lớp 5, trường Tiểu học Nguyễn Văn 
Trỗi.

Thời gian: Năm học 2013­2014 và 2014­2015
5. Phương pháp nghiên cứu
­ Phương pháp nghiên cứu 
­ Phương pháp quan sát
­ Phương pháp điều tra phỏng vấn
­ Phương pháp thống kê toán học
­ Phương pháp thực hành giao tiếp
­ Phương pháp tổng hợp 
II. NỘI DUNG
1. Cơ sở lý luận
Môn Tiếng Việt có một vị  trí quan trọng trong giáo dục  ở  Tiểu học, 
điều đó được thể hiện ở thời lượng giảng dạy trong từng khối lớp và nó làm 
công cụ để học các môn khác. Mục tiêu của môn Tiếng Việt ở Tiểu học là:
­ Hình thành và phát triển  ở  học sinh các kỹ  năng sử  dụng Tiếng Việt  
(nghe, nói, đọc, viết) để học tập và giao tiếp trong các môi trường hoạt động  
của lứa tuổi. Thông qua việc dạy và học Tiếng Việt góp phần rèn luyện các  
thao tác tư duy.
Giáo viên: Trần Thị Lan Chung – Trường TH Nguyễn Văn Trỗi                      5


Một số kinh nghiệm giúp học sinh học tốt môn Tiếng Việt lớp 5 theo mô hình VNEN

­ Cung cấp cho học sinh những kiến thức sơ  giản về Tiếng Việt   và 
những hiểu biết sơ  giản về  xã hội, tự  nhiên và con người, về  văn hóa, văn 
học của Việt Nam và nước ngoài.
­ Bồi dưỡng tình yêu quê hương, đất nước và hình thành thói quen giữ 
gìn sự  trong sáng của Tiếng Việt, góp phần hình thành nhân cách của con  
người Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
2. Thực trạng
2.1. Thuận lợi, khó khăn

* Thuận lợi 
­ Học sinh lớp 5 đa phần có nhận thức tốt hơn các lớp dưới, có trí 
tưởng tượng và khả năng nhìn nhận và thâu tóm hình ảnh, học sinh biết dùng 
từ đặt câu, nắm được kiến thức Tiếng Việt cơ bản.
­ Học sinh được học 2 buổi trên ngày nên các em được tham gia học  
tập, rèn luyện nhiều ở trường.
­ Phòng học khang trang, sạch sẽ, lớp học trang trí đầy đủ với các công 
cụ hỗ trợ học tập theo đặc trưng mô hình học tập VNEN.
­ GV nhiệt tình, có ý thức trách nhiệm với học sinh. 
­ Phụ  huynh học sinh đa phần đã có sự  quan tâm chăm lo hơn về  việc 
học hành của con em mình, mua sắm tương đối đầy đủ  vở  và đồ  dùng học  
tập, tạo điều kiện thuận lợi cho các em tới trường, tạo được mối liên hệ với  
giáo viên chủ nhiệm lớp và nhà trường.
* Khó khăn
Từ phía giáo viên: 
­ Môn Tiếng Việt là môn học mang tính tổng hợp và sáng tạo, giáo viên  
chưa có biện pháp sư  phạm phù hợp để  phát huy tối đa năng lực học tập và 
cảm thụ  văn học, chưa khơi gợi  ở  các em lòng yêu thích Tiếng Việt, ham 
thích học Tiếng Việt.

Giáo viên: Trần Thị Lan Chung – Trường TH Nguyễn Văn Trỗi                      6


Một số kinh nghiệm giúp học sinh học tốt môn Tiếng Việt lớp 5 theo mô hình VNEN

­ Giáo viên còn hạn chế  về  chuyên môn, nghiệp vụ  cũng như  kinh  
nghiệm công tác.
Từ phía học sinh:
­ Một số em chưa thực sự quan tâm và chú ý môn Tiếng Việt.
­ Ý thức môn số em chưa cao, chưa có sự tích cực và hợp tác trong giờ học.

Từ phía phụ huynh:
­ Một nét tâm lí chung của các phụ  huynh muốn con học thêm về  toán 
và các môn tự nhiên. Một vài phụ huynh điều kiện kinh tế còn khó khăn chưa 
có sự đầu tư cho con em mình. 
 ­ Phụ  huynh  ở  vùng nông thôn hạn chế  trong việc mua sách cho việc  
đọc của các con. Hiếm thấy gia đình đầu tư được cho con em mình tủ sách để 
phục vụ cho việc học tốt môn Tiếng Việt ở Tiểu học.
2.2. Thành công, hạn chế 
* Thành công
­ Nâng cao được hiệu quả  trong hoạt động học tập của học sinh. Học 
sinh nắm được những sai sót của mình và khắc phục theo sự  hướng dẫn, hỗ 
trợ của giáo viên.
­ Những kỹ  năng của học sinh, trong đó có kỹ  năng giao tiếp, hợp tác 
được cải thiện thông qua mỗi giờ dạy.
­ Phát triển được ngôn ngữ nói và viết được cho học sinh.
* Hạn chế
­ Giáo viên hạn chế  về  thời gian trong tiết học nên không quan tâm,  
hướng dẫn cho tất cả các học sinh.
­ Trình độ  của học sinh không đồng đều nên chưa mang lại hiệu quả 
tối đa cho mỗi giải pháp.

Giáo viên: Trần Thị Lan Chung – Trường TH Nguyễn Văn Trỗi                      7


Một số kinh nghiệm giúp học sinh học tốt môn Tiếng Việt lớp 5 theo mô hình VNEN

  ­ Một số  em chưa có ý thức cao trong học tập nên chưa hợp tác tốt 
trong tiết học.
2.3. Mặt mạnh, mặt yếu
* Mặt mạnh 

Sau thời gian thực hiện, tôi thấy có được những mặt tích cực như sau:
­ Hiệu quả  học tập môn Tiếng Việt của học sinh tăng lên: Khả  năng  
diễn đạt câu văn của học sinh có nhiều tiến bộ, lỗi chính tả  được cải thiện, 
học sinh dùng từ ngữ chính xác, có hiệu quả.
­ Học sinh tích cực, tự giác trong các hoạt động học tập.
­ Rèn được các kỹ năng cho học sinh trong đó có kỹ năng giao tiếp, hợp  
tác.
­ Phát triển được năng lực học tập cho học sinh thông qua các hoạt 
động học tập.
* Mặt yếu 
­ Đòi hỏi GV phải có sự đầu tư, chuẩn bị nhiều cho mỗi tiết dạy. Quan  
tâm, hỗ trợ nhiều đến các em còn nhiều hạn chế. 
­ Chưa có tác động tích cực đến các em còn nhiều hạn chế  trong học 
tập.
2.4. Các nguyên nhân, các yếu tố tác động 
Có được những thành công trên là do học sinh tích cực, chủ  động với 
các giải pháp theo hướng tự  chủ  của bản thân dưới sự  hướng dẫn của giáo 
viên, do đó mang lại hiểu quả  rõ rệt cho mỗi giải pháp. Đồng thời do đặc  
trưng của mô hình học tập VNEN: Học sinh học tập và giải quyết các nhiệm  
vụ  học tập theo nhóm, các em được hợp tác chia sẻ  với nhau, nhận xét cho  
nhau và giúp nhau khắc phục những sai sót thông qua từng ngày, từng giờ lên  
lớp. Do vậy thấy rõ được hiệu quả cho từng giải pháp. 
Tuy nhiên, vẫn còn nhiều hạn chế:
Giáo viên: Trần Thị Lan Chung – Trường TH Nguyễn Văn Trỗi                      8


Một số kinh nghiệm giúp học sinh học tốt môn Tiếng Việt lớp 5 theo mô hình VNEN

­ Đối tượng học sinh chưa thực sự đồng đều.
­ Thời gian thực hiện các giải pháp không liền mạch, có sự  gián đoạn 

về  thời gian của tiết học và sau đó được tiếp tục vào các tiết ôn do đó học  
sinh nắm bắt các giải pháp chưa có tính hệ thống.
2.5. Phân tích, đánh giá các vấn đề về thực trạng mà đề tài đã đặt ra
Học tập theo mô hình trường học mới VNEN, học sinh phát huy được 
tinh thần học tập tích cực, tự giác, chia sẻ, hợp tác, sáng tạo. Giáo viên chỉ là 
người hỗ trợ, hướng dẫn, gợi mở cho các em. Học sinh được khuyến khích tự 
nhận xét bản thân và nhận xét bạn. Khi các em tự mình tìm ra điểm sai và tìm 
cách giải quyết thì kiến thức đó sẽ  rất bền vững. Do đó mô hình VNEN góp 
phần nâng cao hiệu quả, chất lượng giảng dạy các môn học và hoạt động 
giáo dục trong đó có môn Tiếng Việt.
Những khó khăn, vướng mắc trong dạy học môn Tiếng Việt là điều  
không  phải   mới.  Nó  xuất   hiện  đồng  hành  trong  quá  trình  thực  hiện.  Tuy  
nhiên, yếu tố  quyết định vẫn là cách làm đúng hướng và phù hợp của giáo 
viên, khơi gợi ở các em ý thức tự học. Luôn luôn động viên sự tiến bộ của các 
em, hướng dẫn dần dần cùng sự  hợp tác, hỗ  trợ  của không gian lớp học, 
không gian sống của các em sẽ  mang hiệu quả  trong việc phát triển con 
người toàn diện, bồi dưỡng nhân cách và kỹ năng cho học sinh.
3. Giải pháp, biện pháp
3.1. Mục tiêu của giải pháp, biện pháp
Giải pháp này hướng đến các mục tiêu:
­ Tăng cường hiệu quả học tập môn Tiếng Việt cho học sinh lớp 5.
­ Phát triển tốt các kỹ năng cho học sinh trong đó có kỹ năng giao tiếp,  
hợp tác.
­ Phát huy được tính chủ  động tích cực của học sinh, đáp  ứng mục  
tiêu xây dựng “Trường học thân thiện, học sinh tích cực”.
3.2.  Nội dung và cách thức thực hiên giải pháp, biện pháp
Giáo viên: Trần Thị Lan Chung – Trường TH Nguyễn Văn Trỗi                      9


Một số kinh nghiệm giúp học sinh học tốt môn Tiếng Việt lớp 5 theo mô hình VNEN


­ Học sinh chủ  động chiếm lĩnh được kiến thức, ghi nhớ  và khắc sâu 
được kiến thức. Từ  đó vận dụng có hiệu quả  vào trong các hoạt động giao 
tiếp và các hoạt động sử dung ngôn ngữ. Giáo viên là người định hướng, khơi 
gợi cho học sinh; hỗ trợ học sinh khi gặp khó khăn.
­ Tăng cường thêm các bài tập để khai thác đối tượng học sinh.
­ Chú ý phát triển các kỹ  năng cơ  bản cho học sinh, đặc biệt kỹ  năng 
viết, kỹ năng nói.
3.2.1. Tăng cường sử dụng từ đúng, từ hay thông qua các bài Luyện từ  
và câu
 Để  học sinh dùng từ  hay trước hết tôi đặc biệt chú ý hướng dẫn học  
sinh hiểu đúng nghĩa của  từ thông qua các tiết Luyện từ và câu, mở rộng vốn 
từ. Muốn học sinh hiểu đúng từ cần chú ý đến cách phát âm chuẩn, viết đúng  
và cách diễn đạt của học sinh. Khi học sinh nói, viết cho các em khác nhận  
xét, bổ sung, sửa chữa cho nhau theo cặp, theo nhóm rồi báo cáo lại. Giáo viên 
theo dõi, hỗ  trợ  khi cần thiết, nhận xét, chỉnh sửa cho các em. Sau mỗi lần  
như  thế, học sinh nắm được những thiếu sót của bản thân để  lần sau không  
mắc phải. Đặc biệt với những em hiểu sai nghĩa từ, giáo viên có thể  hướng  
dẫn các em sử dụng Từ điển Tiếng Việt, cho các em đặt câu với nghĩa các em  
hiểu được, sau đó giải thích cho học sinh trong tình huống cụ thể. Làm được 
điều này học sinh sẽ  ghi nhớ  được lỗi sai của mình và có được cách hiểu  
đúng về nghĩa từ một cách tự nhiên và lâu quên.
Ví dụ: Khi dạy bài 19A: Người công dân số  Một, học sinh thường hay 
mắc lỗi đọc nhầm “Người  công dân  số  Một” thành “Người  công nhân  số 
Một”. Lí do của do các em chưa hiểu nghĩa được hai từ “công dân” và “công 
nhân”, do đó sử  dụng nhầm lẫn mà không hề  biết. Lúc này tôi thường cho 
học sinh đặt hai câu để học sinh phân biệt nghĩa: Anh Thành là một  công dân 
gương mẫu của đất nước và Bố em là công nhân của nhà máy sợi. 
Khi học sinh đã biết dùng từ đúng, có nhiều cách giúp học sinh dùng từ 
hay. Để dùng được từ hay trước hết học sinh phải hiểu nghĩa của từ, dùng từ 

chính xác. Quan trọng để học sinh tự tư duy, tự tìm tòi, phát huy sự  sáng tạo  
của các em.

Giáo viên: Trần Thị Lan Chung – Trường TH Nguyễn Văn Trỗi                      10


Một số kinh nghiệm giúp học sinh học tốt môn Tiếng Việt lớp 5 theo mô hình VNEN

Phần lớn học sinh là tự học, nhưng giáo viên phải có sự định hướng, hỗ 
trợ  kiến thức cho học sinh. Ví dụ  như  kiến thức về từ đồng nghĩa, từ  nhiều  
nghĩa, từ  đồng âm. Thực tế  học sinh hay nhầm lẫn giữa từ  đồng nghĩa, từ 
nhiều nghĩa và từ  đồng âm. Không nắm được nghĩa của chúng bởi vì định 
nghĩa về  từ đồng nghĩa, từ  nhiều nghĩa, từ  đồng âm chưa chính xác dẫn đến 
sự khó khăn cho học sinh trong việc nhận diện. Phân biệt các từ trên nếu chỉ 
dựa vào định nghĩa là chưa đủ. Đứng trước thực tế  đó nên tôi đã hỗ  trợ  cho  
học sinh bằng cách mở rộng và hệ thống kiến thức.
­ Đầu tiên cho học sinh tự  nhắc lại định nghĩa của từ  đồng nghĩa, từ 
nhiều nghĩa, từ đồng âm.
­ Nêu một số ví dụ để học sinh dễ hiểu kiến thức hơn.
Khi phân tích từ đồng nghĩa có hai thao tác, đó là chỉ ra sự giống nhau và 
khác nhau. Nhưng quan trọng là phải chỉ ra được sự khác nhau về sắc thái.
Ví dụ: Giữ gìn, bảo vệ có nghĩa chung là giữ nguyên vẹn, trọn vẹn một 
cái gì đó (Giữ gìn quần áo, bảo vệ quần áo)
Tuy nhiên hai từ này có điểm khác nhau:
+ Bảo vệ phù hợp với đối tượng lớn trừu tượng, giữ  gìn phù hợp với  
đối tượng nhỏ, quý (Giữ gìn đoàn kết của Đảng như  giữ  gìn con ngươi của  
mắt mình, Bảo vệ đất nước)
Ví dụ  :  Giữ  gìn, bảo vệ   có nghĩa chung là giữ  nguyên vẹn, trọn vẹn 
một cái gì  đó (Giữ gìn quần áo; bảo vệ quần áo)
+ Bảo vệ có nét nghĩa ngăn ngừa, phòng chống, ngăn chặn sự tác động 

của bên ngoài; giữ gìn có tính chất thụ động giữ  cái đã có, không có sắc thái  
chống lại thế lực bên ngoài (giữ gìn luận văn khác bảo vệ luận văn)
Hoặc các từ đồng nghĩa khác nhau về sắc thái. Giáo viên nên hỗ trợ để 
học sinh thấy rõ được nét nghĩa riêng dùng đúng cho từng trường hợp.
Ví dụ: Cho, biếu, tặng: cho có sắc thái trung hòa, biếu có sắc thái kính 
trọng, tặng có sắc thái thân mật.

Giáo viên: Trần Thị Lan Chung – Trường TH Nguyễn Văn Trỗi                      11


Một số kinh nghiệm giúp học sinh học tốt môn Tiếng Việt lớp 5 theo mô hình VNEN

Do có sự  khác nhau về  sắc thái nghĩa và sắc thái biểu cảm nên cách 
dùng các từ   đồng nghĩa khác nhau. Hay nói cách khác, các từ  đồng nghĩa  
không phải bao giờ cũng thay thế được cho nhau, chúng đồng nghĩa với nhau  
vì chúng vừa giống nhau vừa khác nhau.
Từ  nhiều nghĩa và từ  đồng âm đều có hình thức âm thanh giống nhau 
nên dễ nhầm lẫn:
Ví dụ: Ba (1) bố: Ba tôi rất thích đọc báo.
     (2) số từ: Số ba là con số không may mắn của tôi.
Học sinh có thể nhầm lần từ ba là từ nhiều nghĩa vì hình thức âm thanh 
giống nhau. Khi gặp trường hợp này, tôi đã phân biệt để  học sinh thấy được 
các nét nghĩa của từ nhiều nghĩa có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, còn ở đây  
các nét nghĩa không có quan hệ với nhau vì thế không phải là từ nhiều nghĩa.  
Trường hợp ở ví dụ trên là từ đồng âm.
Để giúp học sinh có thể phân biệt được đâu là từ nhiều nghĩa đâu là từ 
đồng âm cần giúp học sinh xác định quan hệ  về  các nét nghĩa chính xác (đối 
với từ nhiều nghĩa), nếu loại trừ được có quan hệ về các nét nghĩa thì đó là từ 
đồng âm còn nếu chúng có quan hệ  về  nét nghĩa với nhau thì đó là từ  nhiều  
nghĩa.


Học sinh tham gia thảo luận tìm ra kiến thức bài học

3.2.2. Phát triển kỹ năng đọc cho học sinh qua các bài Tập đọc
Giáo viên: Trần Thị Lan Chung – Trường TH Nguyễn Văn Trỗi                      12


Một số kinh nghiệm giúp học sinh học tốt môn Tiếng Việt lớp 5 theo mô hình VNEN

Có bốn kỹ  năng đọc là đọc đúng, đọc lưu loát, đọc hiểu và mục tiêu  
cuối cùng là đọc diễn cảm. Để đạt được đọc diễn cảm thì trước tiên học sinh 
phải luyện được đọc đúng, đọc lưu loát và đọc hiểu.
Luyện đọc phải chú ý đến từng đối tượng học sinh. Khi học sinh học  
theo mô hình VNEN, học sinh ngồi học theo nhóm, việc luyện đọc cũng được 
thực hiện trong nhóm. Do đó khi lựa chọn nhóm trưởng trong giờ  luyện đọc 
thì kỹ năng đọc của nhóm trưởng phải tốt. Hơn nữa nhóm trước phải thực sự 
nhanh nhẹn khi tổ chức luyện đọc cho các bạn. Những bạn đọc chậm có thể 
cho đọc một đoạn, những bạn đọc tốt hơn cho đọc hai đoạn hoặc cả bài. Chú 
ý phải theo dõi, nhận xét và chỉnh sửa cho các khi bạn phát âm sai rồi báo cáo 
cho giáo viên. Giáo viên tổ chức luyện đọc thêm  cho học sinh đọc còn chậm.
Rèn kỹ năg đọc cho học sinh là cả một quá trình mà yếu tố quyết định 
là  ở  ý thức tự  rèn của các em. Do vậy, giáo viên cần luôn nhắc nhở  các em 
phải thường xuyên luyện đọc thêm ở nhà. Có đọc thêm ở nhà thì học sinh mới 
biết từ  nào mình đọc sai để  lên lớp sửa chữa. Ngoài ra phải bồi dưỡng cho 
các em ham thích đọc sách, ý thức tự  đọc. Sưu tầm thêm sách báo để  đọc. 
Tham gia thêm các Câu lạc bộ  Tiếng Việt của trường, lớp để  nâng cao khả 
năng đọc của mình.

Giờ luyện đọc của các em học sinh trong một tiết Tiếng Việt


Giáo viên: Trần Thị Lan Chung – Trường TH Nguyễn Văn Trỗi                      13


Một số kinh nghiệm giúp học sinh học tốt môn Tiếng Việt lớp 5 theo mô hình VNEN

Ví dụ: Khi dạy bài kì diệu rừng xanh (Nguyễn Phan Hách, Tiếng Việt 
5­ tập 1B), học sinh dễ  mắc các lỗi sai sau, giáo viên chú ý luyện đọc thêm 
cho học sinh những từ ngữ:
­ Lúp xúp (luyện đọc đúng vần)
­ Giang sơn vàng rợi, màu sắc sặc sỡ rực lên, nấm dại, chồn sóc, rừng 
rào rào chuyển động (luyện âm đầu và cụm từ)
Đọc diễn cảm là kỹ  năng cao nhất trong luyện đọc. Thông qua nhiều 
hình thức: Luyện đọc diễn cảm đoạn văn (khổ thơ) em thích nhất, luyện đọc  
diễn cảm cả bài hoặc đọc phân vai, đóng kịch (đối với những văn bản nhiều  
lời thoại). Giáo viên chú ý cho học sinh về  sắc thái giọng đọc, ngắt giọng, 
nhấn giọng, nét mặt, của chỉ khi đọc.
Ví dụ: Khi dạy bài “Chuỗi ngọc lam” 
Luyện đọc theo kiểu phân vai như sau: 4 học sinh trong nhóm phân vai: 
người dẫn chuyện, chú Pi­e, cô bé Gioan và chị cô bé rồi luyện đọc. Học sinh  
nhận xét giọng đọc của từng nhân vật như sau:
+ Lời cô bé Gioan: ngây thơ, hồn nhiên khi khen chuỗi ngọc lam đẹp, 
khi khoe nắm xu lấy từ con lợn đất tiết kiệm.
+ Lời chú Pi­e: điềm đạm, nhẹ nhàng, tế nhị
+ Lời chị cô bé: lịch sự, thật thà
+ Người dẫn chuyện: đọc giọng kể  chuyện chậm rãi, nhẹ  nhàng. Câu 
kết chuyện đọc chậm, đầy cảm xúc.
Về  thời gian luyện đọc, cần dành nhiều thời gian để  luyện đọc, tuỳ 
vào trình độ  của học sinh, giáo viên cho luyện kỹ  năng đọc đoạn trọng tâm 
đoạn khó, cho các em đọc tốt đọc trước lớp. Đến những tiết ôn tập, giáo viên 
coi đây như một dịp để  học sinh thi đọc với nhau, kết hợp với hai cách chọn 

bài thích nhất, đoạn thích nhất hoặc bắt thăm thi đọc thuộc lòng. Giáo viên  
nên tuyên dương những em có giọng đọc tốt, diễn cảm và cũng cần những 
hình thức động viên, khuyến khích những em đọc chưa tốt.

Giáo viên: Trần Thị Lan Chung – Trường TH Nguyễn Văn Trỗi                      14


Một số kinh nghiệm giúp học sinh học tốt môn Tiếng Việt lớp 5 theo mô hình VNEN

Bản thân giáo viên cần rèn kỹ năng đọc, giáo viên cần có giọng đọc tốt 
để  đọc mẫu hoặc hướng dẫn học sinh đọc. Giọng đọc giáo viên là công cụ 
trực quan cho học sinh luyện đọc.
Xây dựng không khí hào hứng, say mê học tập cho học sinh bằng cách 
tổ chức các trò chơi học tập. Để  kích thích hứng thú luyện đọc bằng cách tổ 
chức các trò chơi, thông qua trò chơi kích thích các em hứng thú học tập và 
tinh thần thi đua.
Ví dụ: Thi học thuộc lòng “Truyền điện” theo nhóm, bài “Sắc màu em 
yêu”. Các nhóm bốc xăm để giành quyền đọc trước Nhóm đầu tiên đọc đoạn 
1, sau đó chỉ bất kì truyền điện thật nhanh một bạn khác nhóm 2,…tương tự 
như  vậy đến hết bài. Nếu nhóm nào không thuộc thì bị  đứng “điện giật”. 
Nhóm nào có ít bạn bị “điện giật” thì nhóm đó thắng cuộc.
 Như vậy ta thấy trò chơi học tập luôn luôn làm cho học sinh hào hứng, 
say mê tích cực trong học tập, làm cho học sinh tự đọc, luyện đọc nhiều hơn.
3.2.3. Rèn kỹ năng làm văn cho học sinh
 Muốn học sinh rèn được kỹ  năng viết được một bài văn hay thì giáo  
viên không nên vội vàng. Đầu tiên phải hướng dẫn học sinh viết được đoạn 
văn hay, câu văn hay. Ở các lớp dưới, học sinh đã được rèn luyện viết câu rất 
kĩ do đó ở lớp 5, giáo viên nên chú ý chỉnh sửa lại cho học sinh và phát triển 
cho học sinh kỹ năng viết đoạn văn.
­  Ở học sinh thường mắc lỗi viết lan man, viết dài dòng dẫn đến viết 

dài mà không có được ý. Do đó khi viết tôi chú ý rèn cho học sinh viết câu mở 
đoạn, từ  câu mở  đoạn sẽ  triển khai các câu trong đoạn văn. Trong đoạn văn  
chú ý cho học sinh tả theo trình tự nhất định, lôgic. Mỗi khi học sinh viết giáo  
viên nên gợi ý cho học sinh thấy đâu là câu mở đoạn.
Ví dụ: Khi dạy viết đoạn văn tả hình dáng người bạn em yêu quý nhất.  
Tôi định hướng cho học sinh nắm được ý chính của đoạn văn là tả  hình dáng 
với câu mở  đoạn như: Bạn Hoa là một người rất xinh xắn, dễ thương. Vậy  
xinh xắn, dễ thương như thế nào sẽ triển khai để viết các câu tiếp theo trong 
đoạn văn với các chi tiết về  dáng người, khuôn mặt, mái tóc, đôi mắt, chiếc  
mũi, cái miệng, làn da,…Thực hiện tốt khâu định hướng học sinh sẽ không bị 
lạc đề hay viết lan man.
Giáo viên: Trần Thị Lan Chung – Trường TH Nguyễn Văn Trỗi                      15


Một số kinh nghiệm giúp học sinh học tốt môn Tiếng Việt lớp 5 theo mô hình VNEN

­ Khi viết đoạn văn, cần chú ý nhắc học sinh tránh lỗi lặp từ, lặp ý.  
Cần nhắc học sinh khi miêu tả, cần tả cụ thể từng chi tiết chứ không phải kể 
hay liệt kê chi tiết dẫn đến tình trạng học sinh chỉ mới viết được 5 đến 7 câu 
thì không biết viết gì nữa.
Khi học sinh hoàn thiện được đoạn văn cần phải tổ  chức nhận xét, 
chỉnh sửa đoạn văn. Tổ chức học sinh nhận xét cho học sinh, nhóm nhận xét 
cho học sinh. Sau đó giáo viên nhận xét chung và chỉnh sửa lại.
Dựa vào quá trình viết đoạn văn, học sinh sẽ tiến hành viết cả bài văn, 
giáo viên nhắc nhở học sinh một bài văn hoàn chỉnh cần có đủ ba phần:
Phần mở bài:
Mở  bài có hai kiểu là mở  bài trực tiếp và mở  bài gián tiếp. Giáo viên 
nên khuyến khích để học sinh viết theo mở bài gián tiếp và cho học sinh tập 
viết trước đoạn mở  bài, sau đó cho học sinh đọc để  các bạn khác nhận xét.  
Nếu học sinh viết chưa được, giáo viên cho học sinh viết lại. Lúc này những  

bạn viết tốt rồi sẽ tư vấn, hỗ trợ cho những bạn chưa hoàn thành. Giáo viên 
sẽ nhận xét lại.
Phần thân bài:
Ở  phần thân bài, định hướng cho học sinh viết từng đoạn. Giáo viên 
cho học sinh viết phần thân bài rồi đọc các bạn nghe và nhận xét. Những bài  
viết tốt là bài viết diễn đạt trôi chảy, rõ ý. Học sinh biết sử dụng những biện  
pháp nghệ  thuật so sánh, nhân hóa, liên tưởng phù hợp. Vận dụng được các 
giác quan trong quá trình quan sát một cách linh hoạt. Khi học sinh viết tốt 
giáo viên cần có có hành động tuyên dương, khen thưởng kịp thời để  tạo sự 
khích lệ đối với các em.
Nếu bài văn viết chưa đạt, giáo viên động viên học sinh viết lại, có thể 
tham khảo những bài văn thành công. Ngoài ra giáo viên sử  dụng thêm hình 
ảnh, tranh  ảnh hay video để  tăng khả  năng cảm thụ, giúp học sinh dễ  dàng 
hình dung trong quá trình quan sát.
Phần kết bài: 

Giáo viên: Trần Thị Lan Chung – Trường TH Nguyễn Văn Trỗi                      16


Một số kinh nghiệm giúp học sinh học tốt môn Tiếng Việt lớp 5 theo mô hình VNEN

Đây là phần quan trọng, giáo viên nên hướng cho học sinh kết bài mở 
rộng. Cũng như  các phần trên giáo viên cần thường xuyên hỗ  trợ, chỉnh sửa 
cho học sinh. Khi học sinh viết tốt nên tuyên dương, động viên kịp thời.
Trong suốt quá trình dạy học các bài Tập làm văn, ngoài việc chỉnh sửa,  
nhận xét cho học sinh, để cho câu văn của học sinh tránh khô khan, thiếu hình 
ảnh. Tôi còn chú ý tạo ra môi trường học tập vui tươi, tích cực, kích thích 
hứng thú học tập của các em thông qua các hoạt động như  trò chơi, thi đua. 
Việc dạy học Tập làm văn có hiệu quả  không phải một sớm một chiều mà 
phải thực hiện cả một quá trình xuyên suốt tích lũy và rèn luyện. Vì thế, tôi  

thường xuyên cho các em trao đổi, nhận xét bài làm với bạn, ghi chép lại  
những câu văn hay vào Sổ  tay Văn học của mình hoặc chia sẻ   ở  Góc Tiếng  
Việt.
Trong quá trình dạy học, tôi tạo điều kiện để  các em được tự  do phát  
triển năng lực học tập cá nhân, trí thông minh và óc sáng tạo của mỗi em. Đây 
chính là dịp các em được thể hiện năng lực và vốn văn chương của mình. 
Cụ  thể  như  sau: Tôi đưa ra những câu đơn giản, đủ  thành phần chủ 
ngữ và vị ngữ. Sau đó cho các em tự suy nghĩ, thi đua đưa ra những hình ảnh  
so sánh để  câu văn hấp dẫn, sinh động hơn.  Ở  hình thức thi đua này, sẽ  tạo 
cho các em một môi trường học tập tích cực, em nào cũng muốn được thể 
hiện tài năng của mình trước lớp. Do đó, các em sẽ đem hết khả năng và vốn  
từ ngữ của mình ra thi thố cùng các bạn. Đây chính là những cơ hôi để các em  
được dử dụng vốn từ của mình, chỉnh sửa được cách dùng từ đặt câu.
Ví dụ: Bé Nga đang tập đi
Học sinh có thể thêm:
­ Ngoài hiên nhà, bé Nga đang chập chững tập đi.
­ Ô kìa, bé Nga đang tập đi mới dễ thương làm sao!
­ Đôi chân xinh xắn của bé Nga đang chập chững bước đi từng bước  
một ngoài hiên nhà.
3.2.4. Khắc phục lỗi chính tả 

Giáo viên: Trần Thị Lan Chung – Trường TH Nguyễn Văn Trỗi                      17


Một số kinh nghiệm giúp học sinh học tốt môn Tiếng Việt lớp 5 theo mô hình VNEN

Nhìn chung tình hình phạm lỗi chính tả  của học sinh trong nhà trường  
Tiểu học rất đa dạng. Có nhiều loại lỗi và cách khắc phục:
­ Lỗi do chưa hình thành được biểu tượng âm thanh chi nên khi dạy 
giáo viên phải đọc chuẩn xác, đọc tròn vành, rõ chữ  giúp học sinh viết một 

cách dễ dàng hơn, cần đọc đúng tốc độ để học sinh viết kịp.
­ Lỗi viết hoa tùy tiện, lẫn lộn giữa chữ viết hoa và chữ viết thường. 
Không nắm được quy tắc viết hoa, kiến thức ngữ pháp còn hạn chế. Vì vậy 
giáo viên cho học sinh nắm vững quy tắc viết hoa, thường xuyên cho học sinh 
ôn luyện các quy tắc chính tả.
 Ví dụ: Một số lỗi như: Pháp/ pháp, Ê­mi­li/ Ê­Mi­Li, Sông Đà/ Sông đà, 
Nô­ en/ Nô En
­ Lỗi do học sinh trong quá trình học môn Tiếng Việt không chịu khó, 
thiếu tính cẩn thận dẫn đến viết thừa nét, thiếu nét, chữ viết không đúng quy  
định,…Giáo viên cần chú ý đến những em này, cho các em tự  sửa lỗi của  
mình để tìm ra chỗ các em viết sai, sau đó cho các em so sánh với bài viết của 
bạn để so sánh, khắc phục lỗi của mình.
Ví dụ: Các nét khuyết trên và nét khuyết dưới học sinh viết không đầy  
đủ, nét móc xuôi và nét móc ngược thường bị thiếu,…
Cách tiến hành trong các tiết luyện viết theo trình tự viết bài viết trước, 
thực hiện các hoạt động về  kiến thức chính tả  sau như  lâu nay đã làm cho  
phần viết trở  nên quan trọng hơn và luyện chính tả  trở  thành phần phụ  của 
tiết học. Chính vì vậy giáo viên thường đầu tư  nhiều vào phần viết bài còn  
các hoạt động bài tập thường lướt qua nhanh. Nếu nghiên cứu kĩ ta sẽ  thấy 
quy tắc chính tả  thưởng nằm  ở  các hoạt động sau bài luyện viết. Nghĩa là 
học sinh chưa biết hoặc chưa nhớ  lại quy tắc đã viết bài thì làm sao các em  
nắm vững được các quy tắc chính tả.
Tại sao chúng ta không mạnh dạn “đột phá” đổi mới bằng cách đảo 
trình tự  tiết dạy: Phần luyện tập chính tả  dạy trước và bài luyện viết dạy  
sau.
Ví dụ: Dạy bài Việt Nam thân yêu ở tuần 1, nếu chúng ta dạy luyện tập 
chính tả trước để nhắc lại quy tắc chính tả: K, gh, ngh đứng trước i, e, ê/ c, g,  
Giáo viên: Trần Thị Lan Chung – Trường TH Nguyễn Văn Trỗi                      18



Một số kinh nghiệm giúp học sinh học tốt môn Tiếng Việt lớp 5 theo mô hình VNEN

ng đứng trước a, o, ô,  ơ… thì khi viết bài luyện viết, các em sẽ  vận dụng  
ngay quy tắc đó mà viết ít sai hơn cũng như  khắc sâu kiến thức về  chính tả 
hơn. Hay với bài Thư gửi các học sinh ở tuần 3, Anh bộ đội Cụ Hồ gốc Bỉ ở 
tuần 4, phần luyện tập là quy tắc đánh dấu thanh. Phần luyện tập được dạy 
trước, học sinh nắm được kiến thức chính tả: Dấu thanh đặt ở âm chính/ Âm  
chính là nguyên âm đôi, là tiếng không có âm cuối thì đặt dấu thanh ở chữ cái  
đầu của nguyên âm đôi/ Âm chính là nguyên âm đôi, là tiếng có âm cuối thì 
đặt dấu thanh ở chữ cái thứ hai của nguyên âm đôi. Sau đó, học sinh viết bài 
chính tả chắc chắn rằng các em sẽ đánh dấu thanh chính xác hơn và nhớ  lâu  
hơn quy tắc chính tả này. 
Việc thực hiện luyện tập chính tả  trước khi viết còn tiết giảm được 
thời gian. Vì nếu giáo viên tiến hành luyện tập chính tả  trước  ở  các bài này 
thì ở bước cho học sinh viết từ dễ sai chính tả của phần bài viết, giáo viên có 
thể lược qua các từ có thể áp dụng quy tắc chính tả mà học sinh mới vừa học  
ở phần luyện tập. 
Đổi mới phương pháp giảng dạy  ở  tiết chính tả  không dễ  nhưng nếu  
giáo viên nghiên cứu kĩ nội dung tiết dạy, nắm chắc trọng tâm, mạnh dạn 
thay đổi trình tự  và lược bỏ  các bước thừa thì tiết chính tả  sẽ  đạt hiệu quả 
cao hơn, học sinh sẽ viết chính tả tốt hơn.
3.2.5. Phát huy các công cụ hỗ trợ học tập trong các tiết Tiếng Việt
Mô hình VNEN là mô hình phát huy được năng lực học tập của học  
sinh ở chính không gian học tập. Một không gian mở, thân thiện và khơi gợi 
được hứng thú học tập của các em sẽ nâng cao được hiệu quả học tập. Hiệu  
quả  cho thấy những bài Tiếng Việt được liên kết với không gian học tập 
cùng với các công cụ  hỗ  trợ  học tập giúp các em ghi nhớ  và khắc sâu kiến  
thức đã học đồng thời giúp các em vận dụng được các kỹ năng cần thiết trong 
môn Tiếng Việt.
Những công  cụ  hỗ  trợ  hiệu  quả   trong  các  tiết Tiếng Việt  của  lớp 

VNEN là “Nhịp cầu bè bạn”, “Góc học tập” và Góc Thư  viện”. Hiệu quả 
trong việc dạy học Tiếng Việt xưa nay chưa cao là do chúng ta chỉ dừng lại ở 
khuôn khổ  của bài học mà chưa phát triển nó ra, chưa có tính  ứng dụng với  
thực tế, với đời sống sinh hoạt của các em.

Giáo viên: Trần Thị Lan Chung – Trường TH Nguyễn Văn Trỗi                      19


Một số kinh nghiệm giúp học sinh học tốt môn Tiếng Việt lớp 5 theo mô hình VNEN

Những dòng chia sẻ  được gửi qua Nhịp cầu bè bạn sau khi học xong  
tiết học là cơ hội để học sinh rèn kỹ năng viết thường xuyên nhất. Thông qua 
những lá thư được gửi cho bạn bè, cho thầy cô giáo các em sẽ  được trao đổi  
cho nhau những suy nghĩ, tình cảm của mình. Nhưng hơn thế  nữa kỹ  năng 
viết của các em sẽ  nâng cao dần. Giáo viên cho học sinh đọc thư  của mình 
trước lớp, sau đó cho các bạn trong lớp nhận xét. Chú ý cho học sinh nhận xét  
ở cách diễn đạt câu văn. Hình thức gửi thư tôi thay đổi để  mỗi học sinh mỗi  
lần gửi được gửi cho những bạn khác nhau: Có thể gửi cho bạn ngồi bên tay  
phải trong nhóm, gửi cho bạn ngồi đối diện với bạn hoặc gửi cho bạn mà em 
muốn gửi.
Ví dụ: Sau học bài 4A: Hòa bình cho thế  giới (Tiết 1). Tôi cho các em 
gửi cho nhau những lá thư qua Nhịp cầu bè bạn với nội dung: Những suy nghĩ 
của em sau khi học xong bài Tập đọc Những con sếu bằng giấy. Hội đồng tự 
quản gọi một vài bạn muốn chia sẻ  thư  của mình trước lớp. Các bạn khác  
lắng nghe, nhận xét. Giáo viên nhận xét, bổ sung cho học sinh nếu cần.

           
“Nhịp cầu bè bạn”  tại một lớp học VNEN

Xây dựng Góc thư viện với đầy đủ các loại truyện thiếu nhi, sách báo, 

bài văn mẫu để học sinh có cơ  hội trau dồi vốn từ ngữ của mình từ  đó nâng  
cao hiệu quả học môn Tiếng Việt.  Ở lớp tôi chú trọng và quan tâm đặc biệt 
đến Góc thư  viện. Thư  viện cần đặt  ở  vị  trí phù hợp, dễ  nhìn và dễ  lấy, 
không đặt quá cao hoặc quá thấp. Các đầu sách cần được cập nhật thường 
xuyên dưới sự  quản lí của Ban thư  viện. Hằng tuần Ban thư viên cập nhật, 
kiểm tra và báo cáo số lượng sách, tình trạng đọc sách của các bạn trong lớp. 
Đặc biệt những cuốn sách hỗ  trợ  việc học Tiếng Việt cần phải có như: Từ 
điển Tiếng Việt, Cách khắc phục một số lỗi chính tả, hay Những bài văn hay  
Giáo viên: Trần Thị Lan Chung – Trường TH Nguyễn Văn Trỗi                      20


Một số kinh nghiệm giúp học sinh học tốt môn Tiếng Việt lớp 5 theo mô hình VNEN

chọn lọc, Tục ngữ và Thành ngữ Việt Nam,… Những cuốn sách đó không chỉ 
giúp học sinh học tự  chiếm lĩnh thêm kiến thức mà còn sự  hỗ  trợ  hữu ích 
trong các giờ Tiếng Việt.
Ví dụ: Ở HĐ 5/ Tr 131: Thảo luận trả lời câu hỏi bài Tập đọc  Nghĩa thầy  
trò
Những thành ngữ, tục ngữ  nào dưới đây nói lên được các bài học mà  
các môn sinh nhận được trong ngày mừng thọ cụ giáo Chu:
A. Tiên học lễ, hậu học văn
B. Uống nước nhớ nguồn
C. Tôn sư trọng đạo
D. Nhất tự vi sư, bán tự vi sư (Một chữ cũng là thầy, nửa chữ cũng là thầy)
Ở  nhóm Hợp tác, một số  học sinh chưa hiểu rõ câu Uống nước nhớ 
nguồn. Ngoài cách hỗ trợ trực tiếp giải nghĩa cho học sinh, giáo viên cho một 
học sinh trong  nhóm tự đến Góc thư viện của lớp sử dụng quyển Tục ngữ và 
thành ngữ. Sau đó cho các bạn tìm lời giải nghĩa mình cần.

Sử dụng Góc thư viện trong giờ học Tiếng Việt


3.2.6. Tăng cường bồi dưỡng vốn sống cho học sinh
Các em có thể đọc lưu loát các văn bản, các tác phẩm song nếu thiếu đi 
hoạt động trải nghiệm của cuộc sống thì khó để  học sinh diễn đạt đầy đủ 
được. Giáo viên hướng dẫn cho học sinh đọc thêm sách báo, tổ chức các cuộc  
Giáo viên: Trần Thị Lan Chung – Trường TH Nguyễn Văn Trỗi                      21


Một số kinh nghiệm giúp học sinh học tốt môn Tiếng Việt lớp 5 theo mô hình VNEN

thi kể chuyện, đọc thơ, tham gia văn nghệ,…đồng thời  khuyến khích các em 
đi tham quan dã ngoại, du lịch cùng gia đình trong các dịp lễ tết, nghỉ hè,…tạo 
điều kiện cho các em tiếp xúc với thế  giới xung quanh, trau dồi vốn sống  
thực tế. Các hoạt động ngoại khóa, sinh hoạt tập thể  cũng có rất nhiều tác  
dụng trong việc trang bị cho các em vốn sống thực tế.
Ví dụ: Nếu chưa một lần về nông thôn, được ngắm cảng đồng quê vào 
vụ  gặt trong một ngày thu đẹp trời chắc các em khó mà “cảm nhận” hết vẻ 
đẹp trù phú, ấm no, thanh bình mà nhộn nhịp của “Quang cảnh làng mạc ngày 
mùa” với một vẻ  đẹp trù phú của những sắc vàng: vàng lịm của quả  xoan,  
vàng hoe của nắng, vàng mượt của những chú chó, chú gà,…
Đặc biệt trong định hướng đổi mới dạy học hiện nay: Học sinh tự học,  
tự  chiếm lĩnh kiến thức dưới sự  hướng dẫn, dìu dắt của giáo viên. Do vậy, 
việc rèn luyện cho các em khả năng tự học là điều hết sức quan trọng. Trong  
việc tổ  chức học tập trên lớp, tôi luôn khuyến khích các em tự  chiếm lĩnh 
kiến thức thông qua hình thức thi đua cá nhân, tập thể, nhóm góp phần nâng 
cao năng lực tự học của các em. Đồng thời nhắc nhở các em tự nghiên cứu, tự 
đọc sách báo kể  cả  những lúc rảnh rỗi,  ở  nhà không có sự  hướng dẫn của 
thầy cô giáo.

Phát triển khả năng tự học cho học sinh


3.3.  Điều kiện thực hiện giải pháp, biện pháp
Giáo viên: Trần Thị Lan Chung – Trường TH Nguyễn Văn Trỗi                      22


Một số kinh nghiệm giúp học sinh học tốt môn Tiếng Việt lớp 5 theo mô hình VNEN

Giáo viên:
­ Thường xuyên theo dõi, hỗ  trợ, quan sát các hoạt động học tập của 
học sinh, khơi gợi được hứng thú học tập ở các em.
­ Chuẩn bị  kỹ  lưỡng các tiết dạy, kế  hoạch dạy học, nội dung điều 
chỉnh cho phù hợp.
­ Tạo cho học sinh thói quen tự  học và giải quyết các tình huống học  
tập qua các hoạt động. Vận dụng trong hoạt động thực tế cuộc sống. 
Học sinh:
­ Có ý thức học tập, tích cực trong các hoạt động. Mạnh dạn phát hiện  
lỗi và sửa lỗi của bản thân.
3.4. Mối quan hệ giữa các giải pháp, biện pháp
­ Lựa chọn nội dung học tập phù hợp với từng đối tượng.
­ Bổ sung thêm các hoạt động tăng cườ ng để tăng hiệu quả cho t ừng 
giải pháp.
­ Khắc sâu được kiến thức và giúp học sinh vận dụng được trong các 
hoạt động thực hành.
3.5.  Kết quả  khảo nghiệm, giá trị  khoa học của vấn đề nghiên cứu
Kết quả khảo sát của lớp 5B, trường Tiểu học Nguyễn Văn Trỗi, năm 
học 2013­2014:
Tổng số học sinh
28

Tổn


Học sinh ham thích học Tiếng Việt

Tỉ lệ

Học kì I

Học kì II

Tăng

15

24

32,1 %

Điểm kiểm tra học kì I

Điểm kiểm tra cuối năm

Giáo viên: Trần Thị Lan Chung – Trường TH Nguyễn Văn Trỗi                      23


Một số kinh nghiệm giúp học sinh học tốt môn Tiếng Việt lớp 5 theo mô hình VNEN



1 đến 4


5 đến 8

 9 đến 10

1 đến 4

5 đến 8

9 đến 10

Số 
học 
sinh

TS

TL

TS

TL

TS

TL

TS

TS


TL

TS

28

4

14,3 21

75

3

10,7 0

18

64,3 10

TL

TL

35,7

 
Kết quả khảo sát lớp 5C, trường Tiểu học Nguyễn Văn Trỗi, năm học 
2014­2015: 
Tổng số học sinh


Học sinh ham thích học Tiếng Việt

25

Học kì I

Học kì II

Tăng

15

25

40 %

Tổn
Điểm kiểm tra học kì I
g   số  1 đến 4
5 đến 8
9 đến 10
học 
sinh TS TL TS TL TS TL
25

2

8


13

Tỉ lệ

52

10

40

Điểm cuối tra cuối năm
1 đến 4
TS
0

TL

5 đến 8

9 đến 10

TS

TL

TS

TL

10


40

15

60

Ngoài ra, với các đặc trưng của mô hình VNEN mang lại, các kỹ  năng 
của học sinh cũng có sự  thay đổi rõ rệt: Học sinh không còn nhút nhát mà tự 
tin, mạnh dạn tham gia tích cực vào tiết học. Giờ học không xảy ra theo một 
chiều mà có sự trao đổi, tương tác giữa thầy và trò, giữa trò và trò. Tỉ lệ học  
sinh tự tin trao đổi ý kiến trước tập thể cao hơn.
Như vậy, vấn đề tôi đang nghiên cứu mang lại giá trị khoa học như sau:
Học sinh học tốt môn Tiếng Việt theo mô hình trường học mới VNEN.  
Nâng cao chất lượng giảng dạy, tăng cường phát huy tính tích cực, chủ động, 
sáng tạo của học sinh. Lấy học sinh làm trung tâm trong các hoạt động dạy 
học Tiếng Việt, giúp học sinh tự  chiếm lĩnh kiến thức và tạo điều kiện tốt  
nhất để mọi học sinh được tham gia vào quá trình học tập. Giáo viên tổ chức 
hoạt động học tập giúp học sinh tự nắm được kiến thức, kỹ năng mới, đồng  
Giáo viên: Trần Thị Lan Chung – Trường TH Nguyễn Văn Trỗi                      24


Một số kinh nghiệm giúp học sinh học tốt môn Tiếng Việt lớp 5 theo mô hình VNEN

thời được rèn luyện về  phương pháp tự  học. Giáo viên quan tâm đến vận 
dụng vốn hiểu biết và kinh nghiệm của từng cá nhân và tập thể  học sinh để 
xây dựng bài học và phát triển kỹ năng cho học sinh.
4. Kết quả thu được qua khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên  
cứu
Sau khi áp dụng thực nghiệm với hai lớp, tôi thấy chất lượng học môn 

Tiếng Việt đã có sự  tăng lên rõ rệt, học sinh yêu thích học môn Tiếng Việt 
hơn và các kỹ năng cơ bản như kỹ năng hợp tác, kỹ năng giao tiếp được nâng  
cao và hoàn thiện. Nâng cao dần năng lực tự  học của học sinh theo hướng  
phát triển năng lực, phẩm chất người học. Với các điều kiện đã áp dụng, các 
em làm chủ được kiến thức, biết khám phá và đem lại kết quả cao trong học  
tập. Đồng thời giúp các em phát huy tính tích cực, chủ động và sáng tạo trong 
học tập và rèn luyện các kỹ  năng. Góp phần cùng nhà truờng nâng cao chất 
lượng giáo dục toàn diện. 

III. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
Dạy học môn Tiếng Việt là đem đến sự vận động khoa học cho não bộ 
và các cơ quan phát âm, ngôn ngữ, đem đến những tinh hoa văn hóa, văn học 
nghệ  thuật cho tâm hồn trẻ. Vì thế  đòi hỏi người thầy phải có phườn pháp  
phù hợp, đáp ứng nhu cầu ham hiểu biết của học sinh và tăng cường giáo dục  
nhân cách, đạo đức cho học sinh. Dạy học Tiếng Việt để mang lại hiệu quả 
cao cho mô hình VNEN là một nghệ  thuật trong lao động dạy học sáng tạo 
của giáo viên. Đây là vấn đề  hết sức cần thiết và có ý nghĩa rất lớn để  kích  
thích tư  duy học tập và sáng tạo, phát triển kỹ  năng và nhân cách cho học 
sinh.
2. Kiến nghị
Qua đây tôi mạnh dạn đưa ra một số kiến nghị:
* Đối với nhà trường:

Giáo viên: Trần Thị Lan Chung – Trường TH Nguyễn Văn Trỗi                      25


×