Một số kinh nghiệm giúp học sinh học tốt môn Tiếng Việt lớp 5 theo mô hình VNEN
MỤC LỤC
NỘI DUNG
TRANG
Mục lục
1
I. Mở đầu
3
1. Lý do chọn đề tài
3
2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài
4
3. Đối tượng nghiên cứu
4
4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
4
5. Phương pháp nghiên cứu
5
II. Nội dung
5
1. Cơ sở lý luận
5
2. Thực trạng
6
2.1. Thuận lợi khó khăn
6
2.2. Thành công hạn chế
7
2.3. Mặt mạnh mặt yếu
7
2.4. Các nguyên nhân, các yếu tố tác động
8
2.5. Phân tích, đánh giá các vấn đề về thực trạng mà đề tài đã
đặt ra
8
3. Giải pháp, biện pháp
9
3.1. Mục tiêu của giải pháp, biện pháp
9
3.2. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp
9
3.3. Điều kiện để thực hiện giải pháp, biện pháp
22
3.4. Mối quan hệ giữa các giải pháp, biện pháp
22
Giáo viên: Trần Thị Lan Chung – Trường TH Nguyễn Văn Trỗi 1
Một số kinh nghiệm giúp học sinh học tốt môn Tiếng Việt lớp 5 theo mô hình VNEN
3.5. Kết quả khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên
cứu
23
4. Kết quả thu được qua khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn
đề nghiên cứu
24
III. Kết luận, kiến nghị
25
1. Kết luận
25
2. Kiến nghị
25
Nhận xét của hội đồng chấm sáng kiến cấp trường – cấp huyện
26
Tài liệu tham khảo
28
Giáo viên: Trần Thị Lan Chung – Trường TH Nguyễn Văn Trỗi 2
Một số kinh nghiệm giúp học sinh học tốt môn Tiếng Việt lớp 5 theo mô hình VNEN
I. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Giáo dục Tiểu học là một trong các hình thức giáo dục trong hệ thống
giáo dục phổ thông. Xác định mục tiêu Giáo dục Tiểu học, trong điều 27, luật
Giáo dục 2011 đã quy định rõ: “Giáo dục Tiểu học nhằm giúp học sinh hình
thành những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức,
trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản để học sinh tiếp tục học
trung học cơ sở”.
Tiếng Việt là một trong các môn học có vai trò đặc biệt ở bậc Tiểu
học, điều đó được thể hiện qua thời lượng giảng dạy qua từng khối lớp, nó
là phương tiện chủ yếu để học sinh tiếp thu kiến thức của các môn học khác.
Môn Tiếng Việt ở Tiểu học có nhiệm vụ hình thành năng lực ngôn ngữ cho
học sinh, thể hiện ở bốn kỹ năng: nghe, nói, đọc, viết. Cung cấp cho học sinh
những kiến thức sơ giản về Tiếng Việt và các hiểu biết về xã hội, tự nhiên
và con người. Môn Tiếng Việt còn là một công cụ hữu hiệu trong hoạt động
và giao tiếp ở học sinh, giúp học sinh chủ động, tự tin, mạnh dạn thể hiện ý
kiến của mình. Từ đó giúp học sinh hình thành và phát triển các kỹ năng cơ
bản khác. Với mục tiêu cuối cùng là bồi dưỡng tình yêu Tiếng Việt và hình
thành thói quen giữ gìn sự trong sáng và giàu đẹp của Tiếng Việt, góp phần
hình thành nhân cách của con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Tuy nhiên, qua thực tế giảng dạy, tôi thấy việc dạy và học môn Tiếng
Việt hiện nay đang gặp những khó khăn: Hạn chế dễ thấy nhất là việc dạy
và học khuôn mẫu, máy móc, thiếu tính chân thực. Học sinh ngay cả người
lớn trong giao tiếp, trong các văn phong vẫn còn diễn đạt lủng củng, sử dụng
câu chưa đúng kết cấu ngữ pháp, chưa đảm bảo liên kết câu, liên kết đoạn;
học sinh học theo câu mẫu, bài văn mẫu quá nhiều, học theo khuôn mẫu nhất
định, cảm thụ ít, không có sự sáng tạo riêng của mỗi cá nhân. Học sinh học
chữ nhiều, phát triển con người ít do đó phát triển các kỹ năng giao tiếp cho
học sinh còn hạn chế (nói không rõ ý, viết không thành câu, diễn đạt rườm rà,
khó hiểu,…). Rõ ràng các em vẫn chưa phát huy hết khả năng và tính chủ
động của mình trong học tập, khả năng diễn đạt bằng ngôn ngữ của các em
còn nhiều hạn chế.
Giáo viên: Trần Thị Lan Chung – Trường TH Nguyễn Văn Trỗi 3
Một số kinh nghiệm giúp học sinh học tốt môn Tiếng Việt lớp 5 theo mô hình VNEN
Đặc biệt khi học sinh học tập theo mô hình trường học mới VNEN,
một mô hình tổ chức dạy học theo nhóm, mô hình đặt học sinh vào môi
trường học tập tích cực giúp các em rèn được các kỹ năng. Từ đó giúp học
sinh học hỏi lẫn nhau, phát huy tinh thần trách nhiệm, tính tích cực trên cơ sở
hợp tác. Do vậy với mô hình học tập mới này đã thay đổi cả cách học của
học sinh, cách dạy và đánh giá của giáo viên đặc biệt thay đổi cả cách tổ chức
lớp học thì những ngoài yêu cầu về kiến thức, sự phát triển các kỹ năng cho
học sinh trong đó có kỹ năng giao tiếp, kỹ năng diễn đạt là điều rất quan
trọng.
Hiện nay, chúng ta đang dạy học theo xu hướng nâng cao dần kết quả
của học sinh trong khi việc dạy học của các thầy giáo, cô giáo chưa đạt yêu
cầu về sự hướng dẫn, dìu dắt người học từng bước. Chấm bài thì dễ dàng
tìm ra sai sót nhưng làm sao để học sinh khỏi sai sót, chỉ ra được cụ thể, rõ
ràng sai sót của các em để đưa ra biện pháp hỗ trợ phù hợp thì phần lớn chúng
ta chưa chỉ ra cách làm đầy đủ và đúng hướng cho học sinh.
Xuất phát từ những thực trạng và băn khoăn đó, tôi chọn đề tài: “Một
số kinh nghiệm giúp học sinh học tốt môn Tiếng Việt lớp 5 theo mô hình
VNEN”. Mong rằng đề tài này sẽ mang lại những điều bổ ích cho học sinh,
giáo viên và phụ huynh trong việc dạy và học môn Tiếng Việt theo mô hình
VNEN hiện nay.
2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài
Mục tiêu của đề tài: Áp dụng một số kinh nghiệm để dạy học môn
Tiếng Việt theo mô hình trường học mới VNEN.
Nhiệm vụ của đề tài: Nâng cao chất lượng dạy và học môn Tiếng Việt
lớp 5 theo mô hình VNEN. Định hướng cho GV trong việc thực hiện tổ chức
hoạt động dạy học nhằm khắc phục một số hạn chế, khó khăn của học sinh
trong học Tiếng Việt. Học sinh chủ động, tích cực hơn trong các hoạt động
học tập, góp phần phát triển được phẩm chất, năng lực toàn diện cho học
sinh, bồi dưỡng tình yêu Tiếng Việt và giữ gìn sự trong sáng của Tiếng Việt,
hình thành nhân cách con người xã hội chủ nghĩa.
3. Đối tượng nghiên cứu
Giáo viên: Trần Thị Lan Chung – Trường TH Nguyễn Văn Trỗi 4
Một số kinh nghiệm giúp học sinh học tốt môn Tiếng Việt lớp 5 theo mô hình VNEN
Đối tượng nghiên cứu của đề tài này là một số kinh nghiệm để học tốt
môn Tiếng Việt lớp 5, trường Tiểu học Nguyễn Văn Trỗi, theo mô hình
VNEN.
4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
Khuôn khổ nghiên cứu: Một số kinh nghiệm giúp học sinh học tốt môn
Tiếng Việt lớp 5.
Đối tượng khảo sát: Học sinh lớp 5, trường Tiểu học Nguyễn Văn
Trỗi.
Thời gian: Năm học 20132014 và 20142015
5. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp quan sát
Phương pháp điều tra phỏng vấn
Phương pháp thống kê toán học
Phương pháp thực hành giao tiếp
Phương pháp tổng hợp
II. NỘI DUNG
1. Cơ sở lý luận
Môn Tiếng Việt có một vị trí quan trọng trong giáo dục ở Tiểu học,
điều đó được thể hiện ở thời lượng giảng dạy trong từng khối lớp và nó làm
công cụ để học các môn khác. Mục tiêu của môn Tiếng Việt ở Tiểu học là:
Hình thành và phát triển ở học sinh các kỹ năng sử dụng Tiếng Việt
(nghe, nói, đọc, viết) để học tập và giao tiếp trong các môi trường hoạt động
của lứa tuổi. Thông qua việc dạy và học Tiếng Việt góp phần rèn luyện các
thao tác tư duy.
Giáo viên: Trần Thị Lan Chung – Trường TH Nguyễn Văn Trỗi 5
Một số kinh nghiệm giúp học sinh học tốt môn Tiếng Việt lớp 5 theo mô hình VNEN
Cung cấp cho học sinh những kiến thức sơ giản về Tiếng Việt và
những hiểu biết sơ giản về xã hội, tự nhiên và con người, về văn hóa, văn
học của Việt Nam và nước ngoài.
Bồi dưỡng tình yêu quê hương, đất nước và hình thành thói quen giữ
gìn sự trong sáng của Tiếng Việt, góp phần hình thành nhân cách của con
người Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
2. Thực trạng
2.1. Thuận lợi, khó khăn
* Thuận lợi
Học sinh lớp 5 đa phần có nhận thức tốt hơn các lớp dưới, có trí
tưởng tượng và khả năng nhìn nhận và thâu tóm hình ảnh, học sinh biết dùng
từ đặt câu, nắm được kiến thức Tiếng Việt cơ bản.
Học sinh được học 2 buổi trên ngày nên các em được tham gia học
tập, rèn luyện nhiều ở trường.
Phòng học khang trang, sạch sẽ, lớp học trang trí đầy đủ với các công
cụ hỗ trợ học tập theo đặc trưng mô hình học tập VNEN.
GV nhiệt tình, có ý thức trách nhiệm với học sinh.
Phụ huynh học sinh đa phần đã có sự quan tâm chăm lo hơn về việc
học hành của con em mình, mua sắm tương đối đầy đủ vở và đồ dùng học
tập, tạo điều kiện thuận lợi cho các em tới trường, tạo được mối liên hệ với
giáo viên chủ nhiệm lớp và nhà trường.
* Khó khăn
Từ phía giáo viên:
Môn Tiếng Việt là môn học mang tính tổng hợp và sáng tạo, giáo viên
chưa có biện pháp sư phạm phù hợp để phát huy tối đa năng lực học tập và
cảm thụ văn học, chưa khơi gợi ở các em lòng yêu thích Tiếng Việt, ham
thích học Tiếng Việt.
Giáo viên: Trần Thị Lan Chung – Trường TH Nguyễn Văn Trỗi 6
Một số kinh nghiệm giúp học sinh học tốt môn Tiếng Việt lớp 5 theo mô hình VNEN
Giáo viên còn hạn chế về chuyên môn, nghiệp vụ cũng như kinh
nghiệm công tác.
Từ phía học sinh:
Một số em chưa thực sự quan tâm và chú ý môn Tiếng Việt.
Ý thức môn số em chưa cao, chưa có sự tích cực và hợp tác trong giờ học.
Từ phía phụ huynh:
Một nét tâm lí chung của các phụ huynh muốn con học thêm về toán
và các môn tự nhiên. Một vài phụ huynh điều kiện kinh tế còn khó khăn chưa
có sự đầu tư cho con em mình.
Phụ huynh ở vùng nông thôn hạn chế trong việc mua sách cho việc
đọc của các con. Hiếm thấy gia đình đầu tư được cho con em mình tủ sách để
phục vụ cho việc học tốt môn Tiếng Việt ở Tiểu học.
2.2. Thành công, hạn chế
* Thành công
Nâng cao được hiệu quả trong hoạt động học tập của học sinh. Học
sinh nắm được những sai sót của mình và khắc phục theo sự hướng dẫn, hỗ
trợ của giáo viên.
Những kỹ năng của học sinh, trong đó có kỹ năng giao tiếp, hợp tác
được cải thiện thông qua mỗi giờ dạy.
Phát triển được ngôn ngữ nói và viết được cho học sinh.
* Hạn chế
Giáo viên hạn chế về thời gian trong tiết học nên không quan tâm,
hướng dẫn cho tất cả các học sinh.
Trình độ của học sinh không đồng đều nên chưa mang lại hiệu quả
tối đa cho mỗi giải pháp.
Giáo viên: Trần Thị Lan Chung – Trường TH Nguyễn Văn Trỗi 7
Một số kinh nghiệm giúp học sinh học tốt môn Tiếng Việt lớp 5 theo mô hình VNEN
Một số em chưa có ý thức cao trong học tập nên chưa hợp tác tốt
trong tiết học.
2.3. Mặt mạnh, mặt yếu
* Mặt mạnh
Sau thời gian thực hiện, tôi thấy có được những mặt tích cực như sau:
Hiệu quả học tập môn Tiếng Việt của học sinh tăng lên: Khả năng
diễn đạt câu văn của học sinh có nhiều tiến bộ, lỗi chính tả được cải thiện,
học sinh dùng từ ngữ chính xác, có hiệu quả.
Học sinh tích cực, tự giác trong các hoạt động học tập.
Rèn được các kỹ năng cho học sinh trong đó có kỹ năng giao tiếp, hợp
tác.
Phát triển được năng lực học tập cho học sinh thông qua các hoạt
động học tập.
* Mặt yếu
Đòi hỏi GV phải có sự đầu tư, chuẩn bị nhiều cho mỗi tiết dạy. Quan
tâm, hỗ trợ nhiều đến các em còn nhiều hạn chế.
Chưa có tác động tích cực đến các em còn nhiều hạn chế trong học
tập.
2.4. Các nguyên nhân, các yếu tố tác động
Có được những thành công trên là do học sinh tích cực, chủ động với
các giải pháp theo hướng tự chủ của bản thân dưới sự hướng dẫn của giáo
viên, do đó mang lại hiểu quả rõ rệt cho mỗi giải pháp. Đồng thời do đặc
trưng của mô hình học tập VNEN: Học sinh học tập và giải quyết các nhiệm
vụ học tập theo nhóm, các em được hợp tác chia sẻ với nhau, nhận xét cho
nhau và giúp nhau khắc phục những sai sót thông qua từng ngày, từng giờ lên
lớp. Do vậy thấy rõ được hiệu quả cho từng giải pháp.
Tuy nhiên, vẫn còn nhiều hạn chế:
Giáo viên: Trần Thị Lan Chung – Trường TH Nguyễn Văn Trỗi 8
Một số kinh nghiệm giúp học sinh học tốt môn Tiếng Việt lớp 5 theo mô hình VNEN
Đối tượng học sinh chưa thực sự đồng đều.
Thời gian thực hiện các giải pháp không liền mạch, có sự gián đoạn
về thời gian của tiết học và sau đó được tiếp tục vào các tiết ôn do đó học
sinh nắm bắt các giải pháp chưa có tính hệ thống.
2.5. Phân tích, đánh giá các vấn đề về thực trạng mà đề tài đã đặt ra
Học tập theo mô hình trường học mới VNEN, học sinh phát huy được
tinh thần học tập tích cực, tự giác, chia sẻ, hợp tác, sáng tạo. Giáo viên chỉ là
người hỗ trợ, hướng dẫn, gợi mở cho các em. Học sinh được khuyến khích tự
nhận xét bản thân và nhận xét bạn. Khi các em tự mình tìm ra điểm sai và tìm
cách giải quyết thì kiến thức đó sẽ rất bền vững. Do đó mô hình VNEN góp
phần nâng cao hiệu quả, chất lượng giảng dạy các môn học và hoạt động
giáo dục trong đó có môn Tiếng Việt.
Những khó khăn, vướng mắc trong dạy học môn Tiếng Việt là điều
không phải mới. Nó xuất hiện đồng hành trong quá trình thực hiện. Tuy
nhiên, yếu tố quyết định vẫn là cách làm đúng hướng và phù hợp của giáo
viên, khơi gợi ở các em ý thức tự học. Luôn luôn động viên sự tiến bộ của các
em, hướng dẫn dần dần cùng sự hợp tác, hỗ trợ của không gian lớp học,
không gian sống của các em sẽ mang hiệu quả trong việc phát triển con
người toàn diện, bồi dưỡng nhân cách và kỹ năng cho học sinh.
3. Giải pháp, biện pháp
3.1. Mục tiêu của giải pháp, biện pháp
Giải pháp này hướng đến các mục tiêu:
Tăng cường hiệu quả học tập môn Tiếng Việt cho học sinh lớp 5.
Phát triển tốt các kỹ năng cho học sinh trong đó có kỹ năng giao tiếp,
hợp tác.
Phát huy được tính chủ động tích cực của học sinh, đáp ứng mục
tiêu xây dựng “Trường học thân thiện, học sinh tích cực”.
3.2. Nội dung và cách thức thực hiên giải pháp, biện pháp
Giáo viên: Trần Thị Lan Chung – Trường TH Nguyễn Văn Trỗi 9
Một số kinh nghiệm giúp học sinh học tốt môn Tiếng Việt lớp 5 theo mô hình VNEN
Học sinh chủ động chiếm lĩnh được kiến thức, ghi nhớ và khắc sâu
được kiến thức. Từ đó vận dụng có hiệu quả vào trong các hoạt động giao
tiếp và các hoạt động sử dung ngôn ngữ. Giáo viên là người định hướng, khơi
gợi cho học sinh; hỗ trợ học sinh khi gặp khó khăn.
Tăng cường thêm các bài tập để khai thác đối tượng học sinh.
Chú ý phát triển các kỹ năng cơ bản cho học sinh, đặc biệt kỹ năng
viết, kỹ năng nói.
3.2.1. Tăng cường sử dụng từ đúng, từ hay thông qua các bài Luyện từ
và câu
Để học sinh dùng từ hay trước hết tôi đặc biệt chú ý hướng dẫn học
sinh hiểu đúng nghĩa của từ thông qua các tiết Luyện từ và câu, mở rộng vốn
từ. Muốn học sinh hiểu đúng từ cần chú ý đến cách phát âm chuẩn, viết đúng
và cách diễn đạt của học sinh. Khi học sinh nói, viết cho các em khác nhận
xét, bổ sung, sửa chữa cho nhau theo cặp, theo nhóm rồi báo cáo lại. Giáo viên
theo dõi, hỗ trợ khi cần thiết, nhận xét, chỉnh sửa cho các em. Sau mỗi lần
như thế, học sinh nắm được những thiếu sót của bản thân để lần sau không
mắc phải. Đặc biệt với những em hiểu sai nghĩa từ, giáo viên có thể hướng
dẫn các em sử dụng Từ điển Tiếng Việt, cho các em đặt câu với nghĩa các em
hiểu được, sau đó giải thích cho học sinh trong tình huống cụ thể. Làm được
điều này học sinh sẽ ghi nhớ được lỗi sai của mình và có được cách hiểu
đúng về nghĩa từ một cách tự nhiên và lâu quên.
Ví dụ: Khi dạy bài 19A: Người công dân số Một, học sinh thường hay
mắc lỗi đọc nhầm “Người công dân số Một” thành “Người công nhân số
Một”. Lí do của do các em chưa hiểu nghĩa được hai từ “công dân” và “công
nhân”, do đó sử dụng nhầm lẫn mà không hề biết. Lúc này tôi thường cho
học sinh đặt hai câu để học sinh phân biệt nghĩa: Anh Thành là một công dân
gương mẫu của đất nước và Bố em là công nhân của nhà máy sợi.
Khi học sinh đã biết dùng từ đúng, có nhiều cách giúp học sinh dùng từ
hay. Để dùng được từ hay trước hết học sinh phải hiểu nghĩa của từ, dùng từ
chính xác. Quan trọng để học sinh tự tư duy, tự tìm tòi, phát huy sự sáng tạo
của các em.
Giáo viên: Trần Thị Lan Chung – Trường TH Nguyễn Văn Trỗi 10
Một số kinh nghiệm giúp học sinh học tốt môn Tiếng Việt lớp 5 theo mô hình VNEN
Phần lớn học sinh là tự học, nhưng giáo viên phải có sự định hướng, hỗ
trợ kiến thức cho học sinh. Ví dụ như kiến thức về từ đồng nghĩa, từ nhiều
nghĩa, từ đồng âm. Thực tế học sinh hay nhầm lẫn giữa từ đồng nghĩa, từ
nhiều nghĩa và từ đồng âm. Không nắm được nghĩa của chúng bởi vì định
nghĩa về từ đồng nghĩa, từ nhiều nghĩa, từ đồng âm chưa chính xác dẫn đến
sự khó khăn cho học sinh trong việc nhận diện. Phân biệt các từ trên nếu chỉ
dựa vào định nghĩa là chưa đủ. Đứng trước thực tế đó nên tôi đã hỗ trợ cho
học sinh bằng cách mở rộng và hệ thống kiến thức.
Đầu tiên cho học sinh tự nhắc lại định nghĩa của từ đồng nghĩa, từ
nhiều nghĩa, từ đồng âm.
Nêu một số ví dụ để học sinh dễ hiểu kiến thức hơn.
Khi phân tích từ đồng nghĩa có hai thao tác, đó là chỉ ra sự giống nhau và
khác nhau. Nhưng quan trọng là phải chỉ ra được sự khác nhau về sắc thái.
Ví dụ: Giữ gìn, bảo vệ có nghĩa chung là giữ nguyên vẹn, trọn vẹn một
cái gì đó (Giữ gìn quần áo, bảo vệ quần áo)
Tuy nhiên hai từ này có điểm khác nhau:
+ Bảo vệ phù hợp với đối tượng lớn trừu tượng, giữ gìn phù hợp với
đối tượng nhỏ, quý (Giữ gìn đoàn kết của Đảng như giữ gìn con ngươi của
mắt mình, Bảo vệ đất nước)
Ví dụ : Giữ gìn, bảo vệ có nghĩa chung là giữ nguyên vẹn, trọn vẹn
một cái gì đó (Giữ gìn quần áo; bảo vệ quần áo)
+ Bảo vệ có nét nghĩa ngăn ngừa, phòng chống, ngăn chặn sự tác động
của bên ngoài; giữ gìn có tính chất thụ động giữ cái đã có, không có sắc thái
chống lại thế lực bên ngoài (giữ gìn luận văn khác bảo vệ luận văn)
Hoặc các từ đồng nghĩa khác nhau về sắc thái. Giáo viên nên hỗ trợ để
học sinh thấy rõ được nét nghĩa riêng dùng đúng cho từng trường hợp.
Ví dụ: Cho, biếu, tặng: cho có sắc thái trung hòa, biếu có sắc thái kính
trọng, tặng có sắc thái thân mật.
Giáo viên: Trần Thị Lan Chung – Trường TH Nguyễn Văn Trỗi 11
Một số kinh nghiệm giúp học sinh học tốt môn Tiếng Việt lớp 5 theo mô hình VNEN
Do có sự khác nhau về sắc thái nghĩa và sắc thái biểu cảm nên cách
dùng các từ đồng nghĩa khác nhau. Hay nói cách khác, các từ đồng nghĩa
không phải bao giờ cũng thay thế được cho nhau, chúng đồng nghĩa với nhau
vì chúng vừa giống nhau vừa khác nhau.
Từ nhiều nghĩa và từ đồng âm đều có hình thức âm thanh giống nhau
nên dễ nhầm lẫn:
Ví dụ: Ba (1) bố: Ba tôi rất thích đọc báo.
(2) số từ: Số ba là con số không may mắn của tôi.
Học sinh có thể nhầm lần từ ba là từ nhiều nghĩa vì hình thức âm thanh
giống nhau. Khi gặp trường hợp này, tôi đã phân biệt để học sinh thấy được
các nét nghĩa của từ nhiều nghĩa có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, còn ở đây
các nét nghĩa không có quan hệ với nhau vì thế không phải là từ nhiều nghĩa.
Trường hợp ở ví dụ trên là từ đồng âm.
Để giúp học sinh có thể phân biệt được đâu là từ nhiều nghĩa đâu là từ
đồng âm cần giúp học sinh xác định quan hệ về các nét nghĩa chính xác (đối
với từ nhiều nghĩa), nếu loại trừ được có quan hệ về các nét nghĩa thì đó là từ
đồng âm còn nếu chúng có quan hệ về nét nghĩa với nhau thì đó là từ nhiều
nghĩa.
Học sinh tham gia thảo luận tìm ra kiến thức bài học
3.2.2. Phát triển kỹ năng đọc cho học sinh qua các bài Tập đọc
Giáo viên: Trần Thị Lan Chung – Trường TH Nguyễn Văn Trỗi 12
Một số kinh nghiệm giúp học sinh học tốt môn Tiếng Việt lớp 5 theo mô hình VNEN
Có bốn kỹ năng đọc là đọc đúng, đọc lưu loát, đọc hiểu và mục tiêu
cuối cùng là đọc diễn cảm. Để đạt được đọc diễn cảm thì trước tiên học sinh
phải luyện được đọc đúng, đọc lưu loát và đọc hiểu.
Luyện đọc phải chú ý đến từng đối tượng học sinh. Khi học sinh học
theo mô hình VNEN, học sinh ngồi học theo nhóm, việc luyện đọc cũng được
thực hiện trong nhóm. Do đó khi lựa chọn nhóm trưởng trong giờ luyện đọc
thì kỹ năng đọc của nhóm trưởng phải tốt. Hơn nữa nhóm trước phải thực sự
nhanh nhẹn khi tổ chức luyện đọc cho các bạn. Những bạn đọc chậm có thể
cho đọc một đoạn, những bạn đọc tốt hơn cho đọc hai đoạn hoặc cả bài. Chú
ý phải theo dõi, nhận xét và chỉnh sửa cho các khi bạn phát âm sai rồi báo cáo
cho giáo viên. Giáo viên tổ chức luyện đọc thêm cho học sinh đọc còn chậm.
Rèn kỹ năg đọc cho học sinh là cả một quá trình mà yếu tố quyết định
là ở ý thức tự rèn của các em. Do vậy, giáo viên cần luôn nhắc nhở các em
phải thường xuyên luyện đọc thêm ở nhà. Có đọc thêm ở nhà thì học sinh mới
biết từ nào mình đọc sai để lên lớp sửa chữa. Ngoài ra phải bồi dưỡng cho
các em ham thích đọc sách, ý thức tự đọc. Sưu tầm thêm sách báo để đọc.
Tham gia thêm các Câu lạc bộ Tiếng Việt của trường, lớp để nâng cao khả
năng đọc của mình.
Giờ luyện đọc của các em học sinh trong một tiết Tiếng Việt
Giáo viên: Trần Thị Lan Chung – Trường TH Nguyễn Văn Trỗi 13
Một số kinh nghiệm giúp học sinh học tốt môn Tiếng Việt lớp 5 theo mô hình VNEN
Ví dụ: Khi dạy bài kì diệu rừng xanh (Nguyễn Phan Hách, Tiếng Việt
5 tập 1B), học sinh dễ mắc các lỗi sai sau, giáo viên chú ý luyện đọc thêm
cho học sinh những từ ngữ:
Lúp xúp (luyện đọc đúng vần)
Giang sơn vàng rợi, màu sắc sặc sỡ rực lên, nấm dại, chồn sóc, rừng
rào rào chuyển động (luyện âm đầu và cụm từ)
Đọc diễn cảm là kỹ năng cao nhất trong luyện đọc. Thông qua nhiều
hình thức: Luyện đọc diễn cảm đoạn văn (khổ thơ) em thích nhất, luyện đọc
diễn cảm cả bài hoặc đọc phân vai, đóng kịch (đối với những văn bản nhiều
lời thoại). Giáo viên chú ý cho học sinh về sắc thái giọng đọc, ngắt giọng,
nhấn giọng, nét mặt, của chỉ khi đọc.
Ví dụ: Khi dạy bài “Chuỗi ngọc lam”
Luyện đọc theo kiểu phân vai như sau: 4 học sinh trong nhóm phân vai:
người dẫn chuyện, chú Pie, cô bé Gioan và chị cô bé rồi luyện đọc. Học sinh
nhận xét giọng đọc của từng nhân vật như sau:
+ Lời cô bé Gioan: ngây thơ, hồn nhiên khi khen chuỗi ngọc lam đẹp,
khi khoe nắm xu lấy từ con lợn đất tiết kiệm.
+ Lời chú Pie: điềm đạm, nhẹ nhàng, tế nhị
+ Lời chị cô bé: lịch sự, thật thà
+ Người dẫn chuyện: đọc giọng kể chuyện chậm rãi, nhẹ nhàng. Câu
kết chuyện đọc chậm, đầy cảm xúc.
Về thời gian luyện đọc, cần dành nhiều thời gian để luyện đọc, tuỳ
vào trình độ của học sinh, giáo viên cho luyện kỹ năng đọc đoạn trọng tâm
đoạn khó, cho các em đọc tốt đọc trước lớp. Đến những tiết ôn tập, giáo viên
coi đây như một dịp để học sinh thi đọc với nhau, kết hợp với hai cách chọn
bài thích nhất, đoạn thích nhất hoặc bắt thăm thi đọc thuộc lòng. Giáo viên
nên tuyên dương những em có giọng đọc tốt, diễn cảm và cũng cần những
hình thức động viên, khuyến khích những em đọc chưa tốt.
Giáo viên: Trần Thị Lan Chung – Trường TH Nguyễn Văn Trỗi 14
Một số kinh nghiệm giúp học sinh học tốt môn Tiếng Việt lớp 5 theo mô hình VNEN
Bản thân giáo viên cần rèn kỹ năng đọc, giáo viên cần có giọng đọc tốt
để đọc mẫu hoặc hướng dẫn học sinh đọc. Giọng đọc giáo viên là công cụ
trực quan cho học sinh luyện đọc.
Xây dựng không khí hào hứng, say mê học tập cho học sinh bằng cách
tổ chức các trò chơi học tập. Để kích thích hứng thú luyện đọc bằng cách tổ
chức các trò chơi, thông qua trò chơi kích thích các em hứng thú học tập và
tinh thần thi đua.
Ví dụ: Thi học thuộc lòng “Truyền điện” theo nhóm, bài “Sắc màu em
yêu”. Các nhóm bốc xăm để giành quyền đọc trước Nhóm đầu tiên đọc đoạn
1, sau đó chỉ bất kì truyền điện thật nhanh một bạn khác nhóm 2,…tương tự
như vậy đến hết bài. Nếu nhóm nào không thuộc thì bị đứng “điện giật”.
Nhóm nào có ít bạn bị “điện giật” thì nhóm đó thắng cuộc.
Như vậy ta thấy trò chơi học tập luôn luôn làm cho học sinh hào hứng,
say mê tích cực trong học tập, làm cho học sinh tự đọc, luyện đọc nhiều hơn.
3.2.3. Rèn kỹ năng làm văn cho học sinh
Muốn học sinh rèn được kỹ năng viết được một bài văn hay thì giáo
viên không nên vội vàng. Đầu tiên phải hướng dẫn học sinh viết được đoạn
văn hay, câu văn hay. Ở các lớp dưới, học sinh đã được rèn luyện viết câu rất
kĩ do đó ở lớp 5, giáo viên nên chú ý chỉnh sửa lại cho học sinh và phát triển
cho học sinh kỹ năng viết đoạn văn.
Ở học sinh thường mắc lỗi viết lan man, viết dài dòng dẫn đến viết
dài mà không có được ý. Do đó khi viết tôi chú ý rèn cho học sinh viết câu mở
đoạn, từ câu mở đoạn sẽ triển khai các câu trong đoạn văn. Trong đoạn văn
chú ý cho học sinh tả theo trình tự nhất định, lôgic. Mỗi khi học sinh viết giáo
viên nên gợi ý cho học sinh thấy đâu là câu mở đoạn.
Ví dụ: Khi dạy viết đoạn văn tả hình dáng người bạn em yêu quý nhất.
Tôi định hướng cho học sinh nắm được ý chính của đoạn văn là tả hình dáng
với câu mở đoạn như: Bạn Hoa là một người rất xinh xắn, dễ thương. Vậy
xinh xắn, dễ thương như thế nào sẽ triển khai để viết các câu tiếp theo trong
đoạn văn với các chi tiết về dáng người, khuôn mặt, mái tóc, đôi mắt, chiếc
mũi, cái miệng, làn da,…Thực hiện tốt khâu định hướng học sinh sẽ không bị
lạc đề hay viết lan man.
Giáo viên: Trần Thị Lan Chung – Trường TH Nguyễn Văn Trỗi 15
Một số kinh nghiệm giúp học sinh học tốt môn Tiếng Việt lớp 5 theo mô hình VNEN
Khi viết đoạn văn, cần chú ý nhắc học sinh tránh lỗi lặp từ, lặp ý.
Cần nhắc học sinh khi miêu tả, cần tả cụ thể từng chi tiết chứ không phải kể
hay liệt kê chi tiết dẫn đến tình trạng học sinh chỉ mới viết được 5 đến 7 câu
thì không biết viết gì nữa.
Khi học sinh hoàn thiện được đoạn văn cần phải tổ chức nhận xét,
chỉnh sửa đoạn văn. Tổ chức học sinh nhận xét cho học sinh, nhóm nhận xét
cho học sinh. Sau đó giáo viên nhận xét chung và chỉnh sửa lại.
Dựa vào quá trình viết đoạn văn, học sinh sẽ tiến hành viết cả bài văn,
giáo viên nhắc nhở học sinh một bài văn hoàn chỉnh cần có đủ ba phần:
Phần mở bài:
Mở bài có hai kiểu là mở bài trực tiếp và mở bài gián tiếp. Giáo viên
nên khuyến khích để học sinh viết theo mở bài gián tiếp và cho học sinh tập
viết trước đoạn mở bài, sau đó cho học sinh đọc để các bạn khác nhận xét.
Nếu học sinh viết chưa được, giáo viên cho học sinh viết lại. Lúc này những
bạn viết tốt rồi sẽ tư vấn, hỗ trợ cho những bạn chưa hoàn thành. Giáo viên
sẽ nhận xét lại.
Phần thân bài:
Ở phần thân bài, định hướng cho học sinh viết từng đoạn. Giáo viên
cho học sinh viết phần thân bài rồi đọc các bạn nghe và nhận xét. Những bài
viết tốt là bài viết diễn đạt trôi chảy, rõ ý. Học sinh biết sử dụng những biện
pháp nghệ thuật so sánh, nhân hóa, liên tưởng phù hợp. Vận dụng được các
giác quan trong quá trình quan sát một cách linh hoạt. Khi học sinh viết tốt
giáo viên cần có có hành động tuyên dương, khen thưởng kịp thời để tạo sự
khích lệ đối với các em.
Nếu bài văn viết chưa đạt, giáo viên động viên học sinh viết lại, có thể
tham khảo những bài văn thành công. Ngoài ra giáo viên sử dụng thêm hình
ảnh, tranh ảnh hay video để tăng khả năng cảm thụ, giúp học sinh dễ dàng
hình dung trong quá trình quan sát.
Phần kết bài:
Giáo viên: Trần Thị Lan Chung – Trường TH Nguyễn Văn Trỗi 16
Một số kinh nghiệm giúp học sinh học tốt môn Tiếng Việt lớp 5 theo mô hình VNEN
Đây là phần quan trọng, giáo viên nên hướng cho học sinh kết bài mở
rộng. Cũng như các phần trên giáo viên cần thường xuyên hỗ trợ, chỉnh sửa
cho học sinh. Khi học sinh viết tốt nên tuyên dương, động viên kịp thời.
Trong suốt quá trình dạy học các bài Tập làm văn, ngoài việc chỉnh sửa,
nhận xét cho học sinh, để cho câu văn của học sinh tránh khô khan, thiếu hình
ảnh. Tôi còn chú ý tạo ra môi trường học tập vui tươi, tích cực, kích thích
hứng thú học tập của các em thông qua các hoạt động như trò chơi, thi đua.
Việc dạy học Tập làm văn có hiệu quả không phải một sớm một chiều mà
phải thực hiện cả một quá trình xuyên suốt tích lũy và rèn luyện. Vì thế, tôi
thường xuyên cho các em trao đổi, nhận xét bài làm với bạn, ghi chép lại
những câu văn hay vào Sổ tay Văn học của mình hoặc chia sẻ ở Góc Tiếng
Việt.
Trong quá trình dạy học, tôi tạo điều kiện để các em được tự do phát
triển năng lực học tập cá nhân, trí thông minh và óc sáng tạo của mỗi em. Đây
chính là dịp các em được thể hiện năng lực và vốn văn chương của mình.
Cụ thể như sau: Tôi đưa ra những câu đơn giản, đủ thành phần chủ
ngữ và vị ngữ. Sau đó cho các em tự suy nghĩ, thi đua đưa ra những hình ảnh
so sánh để câu văn hấp dẫn, sinh động hơn. Ở hình thức thi đua này, sẽ tạo
cho các em một môi trường học tập tích cực, em nào cũng muốn được thể
hiện tài năng của mình trước lớp. Do đó, các em sẽ đem hết khả năng và vốn
từ ngữ của mình ra thi thố cùng các bạn. Đây chính là những cơ hôi để các em
được dử dụng vốn từ của mình, chỉnh sửa được cách dùng từ đặt câu.
Ví dụ: Bé Nga đang tập đi
Học sinh có thể thêm:
Ngoài hiên nhà, bé Nga đang chập chững tập đi.
Ô kìa, bé Nga đang tập đi mới dễ thương làm sao!
Đôi chân xinh xắn của bé Nga đang chập chững bước đi từng bước
một ngoài hiên nhà.
3.2.4. Khắc phục lỗi chính tả
Giáo viên: Trần Thị Lan Chung – Trường TH Nguyễn Văn Trỗi 17
Một số kinh nghiệm giúp học sinh học tốt môn Tiếng Việt lớp 5 theo mô hình VNEN
Nhìn chung tình hình phạm lỗi chính tả của học sinh trong nhà trường
Tiểu học rất đa dạng. Có nhiều loại lỗi và cách khắc phục:
Lỗi do chưa hình thành được biểu tượng âm thanh chi nên khi dạy
giáo viên phải đọc chuẩn xác, đọc tròn vành, rõ chữ giúp học sinh viết một
cách dễ dàng hơn, cần đọc đúng tốc độ để học sinh viết kịp.
Lỗi viết hoa tùy tiện, lẫn lộn giữa chữ viết hoa và chữ viết thường.
Không nắm được quy tắc viết hoa, kiến thức ngữ pháp còn hạn chế. Vì vậy
giáo viên cho học sinh nắm vững quy tắc viết hoa, thường xuyên cho học sinh
ôn luyện các quy tắc chính tả.
Ví dụ: Một số lỗi như: Pháp/ pháp, Êmili/ ÊMiLi, Sông Đà/ Sông đà,
Nô en/ Nô En
Lỗi do học sinh trong quá trình học môn Tiếng Việt không chịu khó,
thiếu tính cẩn thận dẫn đến viết thừa nét, thiếu nét, chữ viết không đúng quy
định,…Giáo viên cần chú ý đến những em này, cho các em tự sửa lỗi của
mình để tìm ra chỗ các em viết sai, sau đó cho các em so sánh với bài viết của
bạn để so sánh, khắc phục lỗi của mình.
Ví dụ: Các nét khuyết trên và nét khuyết dưới học sinh viết không đầy
đủ, nét móc xuôi và nét móc ngược thường bị thiếu,…
Cách tiến hành trong các tiết luyện viết theo trình tự viết bài viết trước,
thực hiện các hoạt động về kiến thức chính tả sau như lâu nay đã làm cho
phần viết trở nên quan trọng hơn và luyện chính tả trở thành phần phụ của
tiết học. Chính vì vậy giáo viên thường đầu tư nhiều vào phần viết bài còn
các hoạt động bài tập thường lướt qua nhanh. Nếu nghiên cứu kĩ ta sẽ thấy
quy tắc chính tả thưởng nằm ở các hoạt động sau bài luyện viết. Nghĩa là
học sinh chưa biết hoặc chưa nhớ lại quy tắc đã viết bài thì làm sao các em
nắm vững được các quy tắc chính tả.
Tại sao chúng ta không mạnh dạn “đột phá” đổi mới bằng cách đảo
trình tự tiết dạy: Phần luyện tập chính tả dạy trước và bài luyện viết dạy
sau.
Ví dụ: Dạy bài Việt Nam thân yêu ở tuần 1, nếu chúng ta dạy luyện tập
chính tả trước để nhắc lại quy tắc chính tả: K, gh, ngh đứng trước i, e, ê/ c, g,
Giáo viên: Trần Thị Lan Chung – Trường TH Nguyễn Văn Trỗi 18
Một số kinh nghiệm giúp học sinh học tốt môn Tiếng Việt lớp 5 theo mô hình VNEN
ng đứng trước a, o, ô, ơ… thì khi viết bài luyện viết, các em sẽ vận dụng
ngay quy tắc đó mà viết ít sai hơn cũng như khắc sâu kiến thức về chính tả
hơn. Hay với bài Thư gửi các học sinh ở tuần 3, Anh bộ đội Cụ Hồ gốc Bỉ ở
tuần 4, phần luyện tập là quy tắc đánh dấu thanh. Phần luyện tập được dạy
trước, học sinh nắm được kiến thức chính tả: Dấu thanh đặt ở âm chính/ Âm
chính là nguyên âm đôi, là tiếng không có âm cuối thì đặt dấu thanh ở chữ cái
đầu của nguyên âm đôi/ Âm chính là nguyên âm đôi, là tiếng có âm cuối thì
đặt dấu thanh ở chữ cái thứ hai của nguyên âm đôi. Sau đó, học sinh viết bài
chính tả chắc chắn rằng các em sẽ đánh dấu thanh chính xác hơn và nhớ lâu
hơn quy tắc chính tả này.
Việc thực hiện luyện tập chính tả trước khi viết còn tiết giảm được
thời gian. Vì nếu giáo viên tiến hành luyện tập chính tả trước ở các bài này
thì ở bước cho học sinh viết từ dễ sai chính tả của phần bài viết, giáo viên có
thể lược qua các từ có thể áp dụng quy tắc chính tả mà học sinh mới vừa học
ở phần luyện tập.
Đổi mới phương pháp giảng dạy ở tiết chính tả không dễ nhưng nếu
giáo viên nghiên cứu kĩ nội dung tiết dạy, nắm chắc trọng tâm, mạnh dạn
thay đổi trình tự và lược bỏ các bước thừa thì tiết chính tả sẽ đạt hiệu quả
cao hơn, học sinh sẽ viết chính tả tốt hơn.
3.2.5. Phát huy các công cụ hỗ trợ học tập trong các tiết Tiếng Việt
Mô hình VNEN là mô hình phát huy được năng lực học tập của học
sinh ở chính không gian học tập. Một không gian mở, thân thiện và khơi gợi
được hứng thú học tập của các em sẽ nâng cao được hiệu quả học tập. Hiệu
quả cho thấy những bài Tiếng Việt được liên kết với không gian học tập
cùng với các công cụ hỗ trợ học tập giúp các em ghi nhớ và khắc sâu kiến
thức đã học đồng thời giúp các em vận dụng được các kỹ năng cần thiết trong
môn Tiếng Việt.
Những công cụ hỗ trợ hiệu quả trong các tiết Tiếng Việt của lớp
VNEN là “Nhịp cầu bè bạn”, “Góc học tập” và Góc Thư viện”. Hiệu quả
trong việc dạy học Tiếng Việt xưa nay chưa cao là do chúng ta chỉ dừng lại ở
khuôn khổ của bài học mà chưa phát triển nó ra, chưa có tính ứng dụng với
thực tế, với đời sống sinh hoạt của các em.
Giáo viên: Trần Thị Lan Chung – Trường TH Nguyễn Văn Trỗi 19
Một số kinh nghiệm giúp học sinh học tốt môn Tiếng Việt lớp 5 theo mô hình VNEN
Những dòng chia sẻ được gửi qua Nhịp cầu bè bạn sau khi học xong
tiết học là cơ hội để học sinh rèn kỹ năng viết thường xuyên nhất. Thông qua
những lá thư được gửi cho bạn bè, cho thầy cô giáo các em sẽ được trao đổi
cho nhau những suy nghĩ, tình cảm của mình. Nhưng hơn thế nữa kỹ năng
viết của các em sẽ nâng cao dần. Giáo viên cho học sinh đọc thư của mình
trước lớp, sau đó cho các bạn trong lớp nhận xét. Chú ý cho học sinh nhận xét
ở cách diễn đạt câu văn. Hình thức gửi thư tôi thay đổi để mỗi học sinh mỗi
lần gửi được gửi cho những bạn khác nhau: Có thể gửi cho bạn ngồi bên tay
phải trong nhóm, gửi cho bạn ngồi đối diện với bạn hoặc gửi cho bạn mà em
muốn gửi.
Ví dụ: Sau học bài 4A: Hòa bình cho thế giới (Tiết 1). Tôi cho các em
gửi cho nhau những lá thư qua Nhịp cầu bè bạn với nội dung: Những suy nghĩ
của em sau khi học xong bài Tập đọc Những con sếu bằng giấy. Hội đồng tự
quản gọi một vài bạn muốn chia sẻ thư của mình trước lớp. Các bạn khác
lắng nghe, nhận xét. Giáo viên nhận xét, bổ sung cho học sinh nếu cần.
“Nhịp cầu bè bạn” tại một lớp học VNEN
Xây dựng Góc thư viện với đầy đủ các loại truyện thiếu nhi, sách báo,
bài văn mẫu để học sinh có cơ hội trau dồi vốn từ ngữ của mình từ đó nâng
cao hiệu quả học môn Tiếng Việt. Ở lớp tôi chú trọng và quan tâm đặc biệt
đến Góc thư viện. Thư viện cần đặt ở vị trí phù hợp, dễ nhìn và dễ lấy,
không đặt quá cao hoặc quá thấp. Các đầu sách cần được cập nhật thường
xuyên dưới sự quản lí của Ban thư viện. Hằng tuần Ban thư viên cập nhật,
kiểm tra và báo cáo số lượng sách, tình trạng đọc sách của các bạn trong lớp.
Đặc biệt những cuốn sách hỗ trợ việc học Tiếng Việt cần phải có như: Từ
điển Tiếng Việt, Cách khắc phục một số lỗi chính tả, hay Những bài văn hay
Giáo viên: Trần Thị Lan Chung – Trường TH Nguyễn Văn Trỗi 20
Một số kinh nghiệm giúp học sinh học tốt môn Tiếng Việt lớp 5 theo mô hình VNEN
chọn lọc, Tục ngữ và Thành ngữ Việt Nam,… Những cuốn sách đó không chỉ
giúp học sinh học tự chiếm lĩnh thêm kiến thức mà còn sự hỗ trợ hữu ích
trong các giờ Tiếng Việt.
Ví dụ: Ở HĐ 5/ Tr 131: Thảo luận trả lời câu hỏi bài Tập đọc Nghĩa thầy
trò
Những thành ngữ, tục ngữ nào dưới đây nói lên được các bài học mà
các môn sinh nhận được trong ngày mừng thọ cụ giáo Chu:
A. Tiên học lễ, hậu học văn
B. Uống nước nhớ nguồn
C. Tôn sư trọng đạo
D. Nhất tự vi sư, bán tự vi sư (Một chữ cũng là thầy, nửa chữ cũng là thầy)
Ở nhóm Hợp tác, một số học sinh chưa hiểu rõ câu Uống nước nhớ
nguồn. Ngoài cách hỗ trợ trực tiếp giải nghĩa cho học sinh, giáo viên cho một
học sinh trong nhóm tự đến Góc thư viện của lớp sử dụng quyển Tục ngữ và
thành ngữ. Sau đó cho các bạn tìm lời giải nghĩa mình cần.
Sử dụng Góc thư viện trong giờ học Tiếng Việt
3.2.6. Tăng cường bồi dưỡng vốn sống cho học sinh
Các em có thể đọc lưu loát các văn bản, các tác phẩm song nếu thiếu đi
hoạt động trải nghiệm của cuộc sống thì khó để học sinh diễn đạt đầy đủ
được. Giáo viên hướng dẫn cho học sinh đọc thêm sách báo, tổ chức các cuộc
Giáo viên: Trần Thị Lan Chung – Trường TH Nguyễn Văn Trỗi 21
Một số kinh nghiệm giúp học sinh học tốt môn Tiếng Việt lớp 5 theo mô hình VNEN
thi kể chuyện, đọc thơ, tham gia văn nghệ,…đồng thời khuyến khích các em
đi tham quan dã ngoại, du lịch cùng gia đình trong các dịp lễ tết, nghỉ hè,…tạo
điều kiện cho các em tiếp xúc với thế giới xung quanh, trau dồi vốn sống
thực tế. Các hoạt động ngoại khóa, sinh hoạt tập thể cũng có rất nhiều tác
dụng trong việc trang bị cho các em vốn sống thực tế.
Ví dụ: Nếu chưa một lần về nông thôn, được ngắm cảng đồng quê vào
vụ gặt trong một ngày thu đẹp trời chắc các em khó mà “cảm nhận” hết vẻ
đẹp trù phú, ấm no, thanh bình mà nhộn nhịp của “Quang cảnh làng mạc ngày
mùa” với một vẻ đẹp trù phú của những sắc vàng: vàng lịm của quả xoan,
vàng hoe của nắng, vàng mượt của những chú chó, chú gà,…
Đặc biệt trong định hướng đổi mới dạy học hiện nay: Học sinh tự học,
tự chiếm lĩnh kiến thức dưới sự hướng dẫn, dìu dắt của giáo viên. Do vậy,
việc rèn luyện cho các em khả năng tự học là điều hết sức quan trọng. Trong
việc tổ chức học tập trên lớp, tôi luôn khuyến khích các em tự chiếm lĩnh
kiến thức thông qua hình thức thi đua cá nhân, tập thể, nhóm góp phần nâng
cao năng lực tự học của các em. Đồng thời nhắc nhở các em tự nghiên cứu, tự
đọc sách báo kể cả những lúc rảnh rỗi, ở nhà không có sự hướng dẫn của
thầy cô giáo.
Phát triển khả năng tự học cho học sinh
3.3. Điều kiện thực hiện giải pháp, biện pháp
Giáo viên: Trần Thị Lan Chung – Trường TH Nguyễn Văn Trỗi 22
Một số kinh nghiệm giúp học sinh học tốt môn Tiếng Việt lớp 5 theo mô hình VNEN
Giáo viên:
Thường xuyên theo dõi, hỗ trợ, quan sát các hoạt động học tập của
học sinh, khơi gợi được hứng thú học tập ở các em.
Chuẩn bị kỹ lưỡng các tiết dạy, kế hoạch dạy học, nội dung điều
chỉnh cho phù hợp.
Tạo cho học sinh thói quen tự học và giải quyết các tình huống học
tập qua các hoạt động. Vận dụng trong hoạt động thực tế cuộc sống.
Học sinh:
Có ý thức học tập, tích cực trong các hoạt động. Mạnh dạn phát hiện
lỗi và sửa lỗi của bản thân.
3.4. Mối quan hệ giữa các giải pháp, biện pháp
Lựa chọn nội dung học tập phù hợp với từng đối tượng.
Bổ sung thêm các hoạt động tăng cườ ng để tăng hiệu quả cho t ừng
giải pháp.
Khắc sâu được kiến thức và giúp học sinh vận dụng được trong các
hoạt động thực hành.
3.5. Kết quả khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu
Kết quả khảo sát của lớp 5B, trường Tiểu học Nguyễn Văn Trỗi, năm
học 20132014:
Tổng số học sinh
28
Tổn
Học sinh ham thích học Tiếng Việt
Tỉ lệ
Học kì I
Học kì II
Tăng
15
24
32,1 %
Điểm kiểm tra học kì I
Điểm kiểm tra cuối năm
Giáo viên: Trần Thị Lan Chung – Trường TH Nguyễn Văn Trỗi 23
Một số kinh nghiệm giúp học sinh học tốt môn Tiếng Việt lớp 5 theo mô hình VNEN
g
1 đến 4
5 đến 8
9 đến 10
1 đến 4
5 đến 8
9 đến 10
Số
học
sinh
TS
TL
TS
TL
TS
TL
TS
TS
TL
TS
28
4
14,3 21
75
3
10,7 0
18
64,3 10
TL
TL
35,7
Kết quả khảo sát lớp 5C, trường Tiểu học Nguyễn Văn Trỗi, năm học
20142015:
Tổng số học sinh
Học sinh ham thích học Tiếng Việt
25
Học kì I
Học kì II
Tăng
15
25
40 %
Tổn
Điểm kiểm tra học kì I
g số 1 đến 4
5 đến 8
9 đến 10
học
sinh TS TL TS TL TS TL
25
2
8
13
Tỉ lệ
52
10
40
Điểm cuối tra cuối năm
1 đến 4
TS
0
TL
5 đến 8
9 đến 10
TS
TL
TS
TL
10
40
15
60
Ngoài ra, với các đặc trưng của mô hình VNEN mang lại, các kỹ năng
của học sinh cũng có sự thay đổi rõ rệt: Học sinh không còn nhút nhát mà tự
tin, mạnh dạn tham gia tích cực vào tiết học. Giờ học không xảy ra theo một
chiều mà có sự trao đổi, tương tác giữa thầy và trò, giữa trò và trò. Tỉ lệ học
sinh tự tin trao đổi ý kiến trước tập thể cao hơn.
Như vậy, vấn đề tôi đang nghiên cứu mang lại giá trị khoa học như sau:
Học sinh học tốt môn Tiếng Việt theo mô hình trường học mới VNEN.
Nâng cao chất lượng giảng dạy, tăng cường phát huy tính tích cực, chủ động,
sáng tạo của học sinh. Lấy học sinh làm trung tâm trong các hoạt động dạy
học Tiếng Việt, giúp học sinh tự chiếm lĩnh kiến thức và tạo điều kiện tốt
nhất để mọi học sinh được tham gia vào quá trình học tập. Giáo viên tổ chức
hoạt động học tập giúp học sinh tự nắm được kiến thức, kỹ năng mới, đồng
Giáo viên: Trần Thị Lan Chung – Trường TH Nguyễn Văn Trỗi 24
Một số kinh nghiệm giúp học sinh học tốt môn Tiếng Việt lớp 5 theo mô hình VNEN
thời được rèn luyện về phương pháp tự học. Giáo viên quan tâm đến vận
dụng vốn hiểu biết và kinh nghiệm của từng cá nhân và tập thể học sinh để
xây dựng bài học và phát triển kỹ năng cho học sinh.
4. Kết quả thu được qua khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên
cứu
Sau khi áp dụng thực nghiệm với hai lớp, tôi thấy chất lượng học môn
Tiếng Việt đã có sự tăng lên rõ rệt, học sinh yêu thích học môn Tiếng Việt
hơn và các kỹ năng cơ bản như kỹ năng hợp tác, kỹ năng giao tiếp được nâng
cao và hoàn thiện. Nâng cao dần năng lực tự học của học sinh theo hướng
phát triển năng lực, phẩm chất người học. Với các điều kiện đã áp dụng, các
em làm chủ được kiến thức, biết khám phá và đem lại kết quả cao trong học
tập. Đồng thời giúp các em phát huy tính tích cực, chủ động và sáng tạo trong
học tập và rèn luyện các kỹ năng. Góp phần cùng nhà truờng nâng cao chất
lượng giáo dục toàn diện.
III. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
Dạy học môn Tiếng Việt là đem đến sự vận động khoa học cho não bộ
và các cơ quan phát âm, ngôn ngữ, đem đến những tinh hoa văn hóa, văn học
nghệ thuật cho tâm hồn trẻ. Vì thế đòi hỏi người thầy phải có phườn pháp
phù hợp, đáp ứng nhu cầu ham hiểu biết của học sinh và tăng cường giáo dục
nhân cách, đạo đức cho học sinh. Dạy học Tiếng Việt để mang lại hiệu quả
cao cho mô hình VNEN là một nghệ thuật trong lao động dạy học sáng tạo
của giáo viên. Đây là vấn đề hết sức cần thiết và có ý nghĩa rất lớn để kích
thích tư duy học tập và sáng tạo, phát triển kỹ năng và nhân cách cho học
sinh.
2. Kiến nghị
Qua đây tôi mạnh dạn đưa ra một số kiến nghị:
* Đối với nhà trường:
Giáo viên: Trần Thị Lan Chung – Trường TH Nguyễn Văn Trỗi 25