Bên kia sông Đuống- lung linh một miền sáng
Một đêm tháng 4-1948, khi nghe giặc đánh phá quê hương, Hoàng Cầm đã viết bài thơ Bên kia
sông Đuống. Từ đó có một dòng sông đau thương mà thơ mộng, trữ tình đến góp vào dòng trường
giang thi ca.
Dòng sông ấy, lung linh gương mặt Kinh Bắc ấm no, trù phú với "lúa nếp thơm nồng", cùng
những "hội hè đình đám" kết tinh một bề dày văn hóa. Đó là gương mặt quê hương hiện về trong
nỗi nhớ, niềm thương, tưởng tiếc khôn nguôi trong trái tim người thơ đa cảm. Đặc biệt là ấn tượng
về một miền quê lung linh thắp sáng.
Thi sĩ Hoàng Cầm
Quả thật, theo dòng hoài niệm của nhà thơ về với quê hương Kinh Bắc, người đọc thấy tất cả đều
như tỏa sáng, phát sáng, thắp sáng. Thắp sáng từ cảnh đến người. Trước hết là dòng sông mang cả
hình bóng quê hương. 3 câu thơ đầu sử dụng hầu hết thanh bằng tạo nhịp nhẹ buồn và đọng lại
trong màu cát trắng phẳng lì rất đỗi bình yên, không chia cắt. Con sông được khởi phát ngập tràn
ánh sáng và sắc trắng tinh khôi. Sông Đuống đẹp không chỉ ở dáng nằm "nghiêng nghiêng" hết sức
trữ tình mà còn ở vẻ "lấp lánh" vừa thực vừa hư như tấm gương soi bóng quê hương. Đó là sắc
màu được pha bằng khoảng trời ký ức nên thật trong trẻo, lấp lánh ánh trời, lấp lánh sự tích, kỷ
niệm... Vẻ lấp lánh hé lộ cái hồn của Kinh Bắc: tươi sáng, lung linh, đậm chất huê tình.
Bên dòng sông, bãi bờ cũng thắp sáng. Ai từng yêu, từng nhớ cái màu xanh đọng sương, đọng
nắng trong thơ Hàn Mặc Tử "Vườn ai mướt quá xanh như ngọc", hẳn dễ cảm một sắc "ngô khoai
biêng biếc" của Hoàng Cầm. Biêng biếc là "xanh ở mức độ cao với vẻ tươi sáng, thuần khiết, nhìn
thích mắt" (Từ điển từ láy Tiếng Việt). Những từ láy âm xanh xanh, biêng biếc vừa có giá trị tạo
hình vừa mang ý nghĩa biểu cảm.
Nếu biêng biếc là màu xanh non, có thể nhìn bằng mắt thì màu dân tộc trong câu thơ "Màu dân tộc
sáng bừng trên giấy điệp" lại chỉ có thể cảm bằng hồn. Sắc màu ở đây đã ngả sang bờ ảo diệu, đan
nhòe thực - mộng bởi tài hoa Hoàng Cầm. Dường như mọi vẻ sáng trong cảnh vật quê hương đã
dồn về, tụ hội về trên bức tranh dân gian để từ đó, bừng lên (rõ rệt và mạnh mẽ - Từ điển Tiếng
Việt) sắc màu, tâm hồn dân tộc.
Cùng với những cảnh là con người Kinh Bắc. Đọng lại sâu đậm nhất trong lòng nhà thơ không ai
khác hơn là những người mẹ, người chị, người em của quê hương. Trong nụ cười em "như mùa
thu tỏa nắng", người đọc cảm biết về một thuở Kinh Bắc hồn hậu yên bình. So sánh với mùa thu
tỏa nắng chỉ có thể là nụ cười trong trẻo, dịu dàng, vừa như sưởi ấm hồn ta, lại vừa như làm dịu
mát hồn ta. Thời chiến đen tối đau thương, thì đã có bình yên tấm lòng của mẹ. Tình mẹ anh hùng
là cảm hứng cho nhà thơ viết nên một tứ thơ lạ "Khuôn mặt bừng lên như dựng trăng". Gương mặt
mẹ - quê hương rạng ngời trong chiến tranh. Từ bóng tối "đêm buông xuống…", "đêm đi sâu…"
con sông Đuống đang âm thầm chuyển mình vươn ra ánh sáng. "Vì nắng sắp lên rồi…".
Gương mặt quê hương thắp sáng trong quá khứ đã soi vào thực tại đen tối, từ đó nhà thơ nhận diện
được tương lai trong một giấc mơ tuyệt đẹp, chan hòa ánh sáng, khúc xạ bảy sắc cầu vồng và lan
tỏa cho lòng người trẻ mãi "Bao giờ về bên kia sông Đuống - Anh lại tìm em - Em mặc yếm thắm
- Em thắt lụa hồng - Em đi trẩy hội non sông - Cười mê ánh sáng muôn lòng xuân xanh".
Trên tấm thảm ngôn từ Bên kia sông Đuống lộng lẫy, đa sắc, Hoàng Cầm đã đính vào những viên
ngọc lấp lánh: những từ láy, từ ghép giàu sắc thái biểu cảm diễn tả ánh sáng lấp lánh, biêng biếc,
sáng bừng… Cùng với tình yêu sâu nặng đối với quê hương tạo thành chất keo dính bền chặt để
bài thơ gắn bó sâu sắc trong tâm hồn người đọc.
Đã hơn nửa thế kỷ, dòng sông ấy vẫn trôi đi… một dòng sáng lung linh…
(Sưu tầm)
Nhà thơ Hoàng Cầm: Nguyên Hồng đã khóc khi nghe “Bên kia sông Đuống”
Em ơi, buồn làm chi. Anh đưa em về sông Ðuống. Ngày xưa cát trắng phẳng lì... Ðó là những câu
thơ mở đầu của Bên kia sông Ðuống trong SGK Văn lớp 12.
“Tôi không biết sau khi đưa vào SGK các thầy cô giáo giảng thế nào về tiểu sử của bài thơ, nhưng
như ngay cháu tôi nó đi học về cứ vặn hỏi tôi: “Ông ơi! Sao lúc ông viết bài thơ Bên kia sông
Đuống ông lại khóc?- nhà thơ Hoàng Cầm kể - “Tôi biết có sự hiểu lầm gì đó nên nói với cháu:
“Ông rất xúc động khi viết bài thơ ấy nhưng ông không khóc mà chỉ nhà văn Nguyên Hồng sau
khi nghe ông đọc thơ rồi khóc thôi...”.
Ông viết bài này lúc đang ở chiến khu 12 trong kháng chiến chống Pháp (gồm địa bàn các tỉnh Bắc
Ninh, Bắc Giang, Hải Ninh (cũ) và Lạng Sơn). Qua nửa đêm sau khi nghe các đồng chí ở làng
Đông Hồ lên báo cáo về tình hình chiến sự ở vùng quê mình, ông như “ngồi trên cả đống than,
đống lửa, lòng dạ rối bời chỉ ước có cánh bay thẳng về nhà xem cơ sự thế nào ... Tôi vô cùng đau
đớn vì ở đó tôi còn mẹ già, vợ và ba đứa con thơ”.
Ngay đêm ấy, ông đã viết bài thơ này. Nhà thơ Hoàng Cầm rưng rưng xúc động như chính được
sống lại giây phút ấy: “Cứ thế mạch tình cảm tuôn trào như nước chảy không thể nào ngăn nổi.
Ðến bốn giờ sáng thì tôi viết xong và rất muốn đọc to cho ai đó nghe. Anh Nguyên Hồng sau một
ngày bếp núc vất vả cùng anh em đã ngủ từ lâu.
Bình thường tôi không dám quấy quả anh ấy, nhưng vì vui mừng quá tôi liền đánh thức anh dậy.
Anh thảng thốt nhìn tôi rồi hỏi: “Kìa, Hoàng Cầm đấy à, có việc gì cần mình thế!? Làm gì mà giờ
này chưa ngủ? Mặt mày hốc hác ra rồi kia kìa”. Tôi nói với anh Nguyên Hồng: “Anh Nguyên
Hồng, đêm qua cán bộ và nhân dân làng tôi ở Thuận Thành lên báo cáo: Giặc Pháp chiếm hết khu
Nam phần Bắc Ninh rồi, kể cả cái làng Nguyệt Cầu mà hồi nào anh chạy giặc ở nhờ nhà ông Ngọc
Giao ấy!
Mình xúc động viết bài thơ này đọc cho Nguyên Hồng nghe nhé”. Và tôi không biết giọng đọc của
mình có gì hay mà mới chỉ đọc “Em ơi buồn làm chi? - Anh đưa em về bên kia sông Đuống... tự
nhiên nhà văn Nguyên Hồng ôm mặt khóc nức nở. Ông vật mình thổn thức, nước mắt giàn
giụa...”.
Tôi cắt lời nhà thơ Hoàng Cầm: “Vậy là nhà văn Nguyên Hồng khóc chứ không phải nhà thơ
sao?” Nhà thơ Hoàng Cầm gật đầu “xác nhận” thay cho câu trả lời. Ông nói thêm: “Nhắc đến chi
tiết này nhà thơ Hoàng Cầm kể lại: “Nhà văn Nguyên Hồng đa cảm lắm. Nghe tôi đọc thơ mà cứ
khóc rưng rức. Tôi biết tính ông nên kệ, cứ đọc... cho đến hết bài thơ dài.
Còn nhà văn Nguyên Hồng cứ khóc... khi bài thơ đã kết thúc từ lâu. Sau đó nhà văn Nguyên Hồng
lặng lẽ rút ra 4-5 tờ giấy trắng tinh (hồi ấy giấy rất hiếm, đến ngay nhà văn cũng chỉ dám dùng
giấy giang Hoàng Văn Thụ chép bản thảo của mình mà thôi!) đưa cho tôi rồi nói trong tiếng nấc:
“Hoàng Cầm này, cậu chép... chép cho... tớ ba bản thật sạch sẽ, bài thơ này rất cần cho nhiều
người đọc... Nhất là các chiến sĩ ta”.
Hai tháng sau nhà thơ Hoàng Cầm đang hướng dẫn cho diễn viên tập vở kịch Đứa con nuôi thì
bỗng nhà văn Nguyên Hồng xuất hiện ở bậc cửa, trên tay cầm tờ báo Cứu Quốc khổ nhỡ (do nhà
nghiên cứu văn học Như Phong và nhà văn Tô Hoài phụ trách). Hoàng Cầm nói: “Anh Nguyên
Hồng vẫy tay gọi tôi. Này Hoàng Cầm, bài của cậu tớ gửi, báo in rồi đây!
Tôi mừng quá, run run nhận tờ báo từ tay Nguyên Hồng. Lúc này bao nhiêu tâm sự trào dâng về
quê hương, về cái làng Lạc Thổ phía bên kia sông Đuống, về các cô gái “môi trầu cắn chỉ”, về
tranh Đông Hồ. “Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp...” đang bị giặc Pháp dày xéo dưới xuôi kia
vẫn không thể làm hoen ố cái hồn dân tộc phập phồng trên nền giấy bản.
Tròn 60 năm bài thơ Bên kia sông Đuống của Hoàng Cầm được nhiều thế hệ biết đến, yêu mến và
chép tặng nhau đọc. Nhà thơ Hoàng Cầm tâm đắc với đứa con tinh thần của mình: “Viết về quê
hương, nhất là nơi mình sinh ra và lớn lên, đòi hỏi phải có cảm xúc mạnh, trí tưởng tượng sâu
rộng, sức liên tưởng dồi dào qua các sự vật tình cảnh có thực, đồng thời phải thấu hiểu lịch sử và
nhân vật lịch sử của một vùng đất.
Từ nhỏ tôi đã theo mẹ đi lễ chùa, dự hội chùa Phật Tích, Chùa Dâu, Bút Tháp, Tiên Sơn, Long
Khánh... và đến phường hát Quan họ mà mẹ tôi là thành viên. Những đêm hát ấy thấm đậm vào
hồn tôi từ hồi đó. Bài thơ “Bên kia sông Đuống” là một trong những bài thơ tôi viết nhanh nhưng
lại thấy rất tâm đắc. Thời vượt Trường Sơn chống Mỹ, tôi rất cảm động và vui sướng khi thấy bài
thơ nằm trong hành trang của rất nhiều người lính trên những chặng đường hành quân.
Và trải qua biết bao thăng trầm bi kịch, ông vẫn tin vào những đức tính của độc giả đối với thơ.
Ðó là những tính cách mà theo nhà thơ Hoàng Cầm về tình cảm hiếm thấy ở các dân tộc khác, mà
đặc biệt là sự gần gũi quấn quít nhau, nhường cơm sẻ áo trong khi hoạn nạn, tình cảm bạn bè bà
con làng xóm.
Thơ là tấm gương của các tính chất ấy. “Không riêng gì bài thơ Bên kia sông Đuống mà hầu hết
mỗi khi làm thơ tôi đều nhận thức rằng: Nhiệm vụ của nhà thơ là nói lên được tiếng nói riêng biệt
của dân tộc mình trong cộng đồng nhân loại. Không thế thơ không hay được”- nhà thơ Hoàng Cầm
đúc kết.
Theo Yên Khương - Thể Thao Văn Hóa