PHÁT TRIỂN KINH TẾ TUẦN HOÀN TRONG
NÔNG NGHIỆP NÔNG THÔN Ở VIỆT NAM
PGS.TS Nguyễn Thế Chinh, TS Nguyễn Hoàng Nam
Viện Chiến lược, Chính sách tài nguyên và môi trường
1. Đặt vấn đề
Theo thống kê của Chương trình Môi trường Liên hợp quốc (UNEP),
lượng tài nguyên mà con người khai thác trong năm 2017 đã gấp 3,4 lần so với
gần 50 năm trước và con số này vẫn đang tiếp tục tăng nhanh (IRP, 2019). Tổ
chức GFN (2018) ước tính nhu cầu về tài nguyên thiên nhiên cho các hoạt
động kinh tế của con người hiện nay đã gấp 1,7 lần khả năng đáp ứng của
trái đất. Vì thế, nếu không thay đổi cách thức phát triển, việc cạn kiệt tài
nguyên, ngay cả với các tài nguyên tái tạo là không thể tránh khỏi.
Tại Việt Nam, kể từ năm 2015, nước ta đã trở thành nước nhập siêu về
than đá và luôn cần nhập rất nhiều nguyên nhiên liệu khác phục vụ cho sản
xuất như dầu thô, sắt thép các loại, các kim loại thường, chất dẻo nguyên
liệu, phụ liệu cho dệt may và da giày (IEA, 2019; Tổng Cục Hải Quan Việt
Nam, 2019).
Trong nông nghiệp, khoảng 5 năm gần đây, Việt Nam luôn là nước
nhập siêu về phân bón và thuốc trừ sâu, với mức chi hàng tỷ USD. Đi kèm với
đó là các vấn đề môi trường. Ngân hàng Thế giới World Bank (2016: 102)
ước tính chỉ riêng ô nhiễm không khí đã khiến Việt Nam mất đi 5,18% GDP
của năm 2013. Ô nhiễm nước dự báo sẽ gây thiệt hại cho Việt Nam tới 3,5%
GDP (World Bank, 2019). Đó là còn chưa kể đến ô nhiễm đất và suy thoái đất
đang ảnh hưởng nghiêm trọng tới hoạt động sản xuất nông nghiệp, vốn là
nghề truyền thống bao năm qua của phần lớn người dân Việt Nam, cùng với
biến đổi khí hậu đang ảnh hưởng nghiêm trọng tới phát triển kinh tế của
Việt Nam.
Trước những vấn đề trên, nhiều nước hiện nay đang thực thiện chuyển
đổi sang nền Kinh tế tuần hoàn (KTTH Circular Economy) , Việt Nam cũng
không thể nằm ngoài xu hướng đó. Kinh tế tuần hoàn là khái niệm đối lập
với kinh tế tuyến tính (KTTT Linear Economy) , được coi là một cách thức
phát triển phù hợp trong bối cảnh thực hiện các mục tiêu của phát triển bền
vững (SDGs) và ứng phó với biến đổi khí hậu. Kinh tế tuần hoàn gắn liền và
hỗ trợ cho việc thực hiện 10 trong tổng số 17 mục tiêu chung của phát triển
biền vững, gồm SDG2, SDG6, SDG7, SDG8, SDG 9, SDG 12, SDG 13, SDG
14, SDG 15 và SDG 17. Đặc biệt trong đó có các mục tiêu liên quan trực tiếp
tới ngành nông nghiệp, như SDG2Xoá đói; SDG12Sản xuất và tiêu dùng có
trách nghiệm và SDG15Sử dụng đất bền vững.
1
2. Bản chất của kinh tế tuần hoàn
Kinh tế tuyến tính là mô hình bắt đầu từ khai thác tài nguyên làm đầu
vào cho hệ thống kinh tế, rồi sản xuất, phân phối, tiêu dùng và cuối cùng là
thải loại (Hình 1). Một cách ngắn gọn, có thể nói đây chính là quá trình biến
tài nguyên thành chất thải, do đó tất yếu sẽ dẫn tới cạn kiệt tài nguyên và ô
nhiễm môi trường.
Hình 1: Mô hình Kinh tế tuyến tính
Nguồn: Dựa theo DeCourcey (2016)
Kinh tế tuần hoàn (KTTH – Circular Economy) là cách tiếp cận phát
triển kinh tế mới hơn, dựa trên nguyên lý động lực học và định luật bảo toàn
vật chất và năng lượng, hướng tới việc kết nối điểm cuối của quá trình ấy
trở lại với điểm đầu, thậm chí khôi phục và tái tạo các vật chất ở cuối mỗi
vòng khai thác, sản xuất, phân phối và tiêu dùng, giữ cho vật chất được sử
dụng lâu nhất có thể (Hình 2).
Hình 2: Mô hình Kinh tế tuần hoàn
Nguồn: Dựa theo DeCourcey (2016)
Khái niệm của Kinh tế tuần hoàn đã sớm được đưa ra từ những năm 60
và 70 của thế kỷ trước bởi một số nhà kinh tế môi trường và kinh tế sinh thái
(Stahel & RedayMulvey, 1976). Trải qua nhiều năm, khái niệm này đã có
nhiều bước phát triển và hoàn thiện. Ngày nay, có thể hiểu Kinh tế tuần hoàn
như sau:
2
KTTH là một hệ thống có tính tái tạo và khôi phục thông qua các kế
hoạch và thiết kế chủ động. Nó thay thế khái niệm “kết thúc vòng đời” của
vật liệu bằng khái niệm khôi phục, chuyển dịch theo hướng sử dụng năng
lượng tái tạo, không dùng các hóa chất độc hại gây tổn hại tới việc tái sử
dụng và hướng tới giảm thiểu chất thải thông qua việc thiết kế vật liệu, sản
phẩm, hệ thống kỹ thuật và cả các mô hình kinh doanh trong phạm vi của nó.
(Ellen MacArthur Foundation, 2012, p. 7).
Đáng chú ý, Chương trình Môi trường Liên hiệp quốc (UNEP, 2011) và
Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD, 2011) đều cho rằng kinh tế
tuần hoàn “là cách tốt nhất để phá vỡ sự ràng buộc lâu nay giữa tăng trưởng
kinh tế và các ảnh hưởng tiêu cực tới môi trường”.
Theo đó, KTTH có 3 nội hàm cơ bản, gồm:
Bảo tồn và phát triển vốn tự nhiên thông qua việc kiểm soát, nhằm sử
dụng hợp lý các tài nguyên và tái tạo các hệ thống tự nhiên; đặc biệt, đẩy
mạnh sử dụng năng lượng tái tạo;
Tối ưu hóa lợi tức của tài nguyên bằng cách tuần hoàn các sản phẩm
và vật liệu nhiều nhất có thể trong các chu trình kỹ thuật và sinh học;
Nâng cao hiệu suất chung của toàn hệ thống bằng cách tối thiểu hóa
các ngoại ứng tiêu cực, thông qua thiết kế chất thải, thiết kế mô hình ngay từ
đầu của quá trình sản xuất.
Đối với phát triển nông nghiệp, cần lưu ý rằng KTTH không chỉ bao
gồm 3R hay xử lý chất thải, ngược lại, KTTH coi chất thải là tài nguyên bị
đặt nhầm chỗ, hoặc bị đánh giá chưa đúng giá trị (Sharma, 2018: 190; Taiwan
EPA, 2018). Vì thế, KTTH hướng tới việc không phát thải ra môi trường, tận
dụng toàn bộ các vật chất để đạt được lợi ích kinh tế cao nhất. Các mô hình
KTTH trong nông nghiệp hướng tới việc kết nối giữa các hoạt động canh tác
và sản xuất một cách có tính toán trước, sao cho sự kết hợp được ăn khớp
nhất, tạo thành các vòng tròn tuần hoàn trong hoạt động sản xuất nông
nghiệp nhằm giảm thiểu tối đa phát thải ra môi trường hướng đến phát thải
bằng không.
3. Xu hướng thực hiện KTTH nói chung và trong ngành nông nghiệp nói
riêng
Hiện nay, KTTH đang trở thành một xu hướng, được thực hiện ở nhiều
quốc gia trên thế giới, gồm cả khối liên minh châu Âu (đi đầu là Hà Lan, Đức
và Đan Mạch), châu Mỹ (tiêu biểu là Canada và Mỹ) và cả châu Á (tiêu biểu
là Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc và Singapore). Tới nay đã có khoảng 34
quốc gia với 118 mô hình tiêu biểu thực hiện việc chuyển dịch này (Nam,
Huê, & Phương, 2019).
3
Châu Âu được biết đến là nơi hiện đang thúc đẩy KTTH mạnh mẽ
nhất. Liên minh châu Âu (EU) xác định rất rõ KTTH không chỉ là vấn đề chất
thải. Vì thế, mặc dù dự kiến thông qua đề xuất lập pháp về vấn đề chất thải
vào năm 2014, Ủy ban châu Âu đã tạm dừng và thay thế đề xuất này bằng Gói
đề xuất KTTH vào năm 2015, nhằm tiếp cận vấn đề rộng hơn, quan tâm toàn
bộ các quá trình nền kinh tế, từ sản xuất và tiêu thụ thị trường nguyên liệu
thứ cấp (EC, 2016). Tiếp theo đó, khối liên minh này đã triển khai Kế hoạch
hành động KTTH và Kế hoạch thiết kế sinh thái 20162019 (European
Commission, 2019). Từ đó, mỗi quốc gia thuộc khối cũng triển khai các hành
động riêng của mình để thực hiện KTTH một cách hệ thống nhất.
Tuy nhiên trên thực tế, các chính sách liên quan đến KTTH đã xuất hiện
từ trước đó rất lâu ở các quốc gia, với nhiều cách tiếp cận khác nhau. Ngay
tại châu Âu, Hà Lan đã có bước đi đầu tiên từ những năm 1970 với “thang
Lansink”, ưu tiên ngăn ngừa và hạn chế phát sinh chất thải, thúc đẩy tái sử
dụng và tái chế, sau đó là việc xử lý rác bằng phương pháp đốt trước khi áp
dụng biện pháp cuối cùng là chôn lấp (Cramer, 2014). Tại Đức là Luật về
quản lý chất thải và chu trình khép kín (Closed Substance Cycle and Waste
Management Act) năm 1996 (BMU, 2011; Schnurer, 2002). Tại châu Mỹ là
Hoa Kỳ với các cách tiếp cận dựa vào thị trường đối với rác thải từ năm 1677
(Nam, Huê, & Nhạn, 2018). Tại Châu Á, Nhật Bản khởi xướng với Luật Cơ
bản cho việc thành lập một xã hội dựa trên tái chế (The Basic Law for
Establishing a Recycling Based Society) từ năm 2002 (OECD, 2002). Năm
2009, Trung Quốc cũng có Luật Xúc tiến KTTH (Circular Economy Promotion
Law) (McDowall và cộng sự, 2017).
Trong nông nghiệp, Liên minh châu Âu (EU) cũng đã đặt ra các lĩnh vực
ưu tiên của Kinh tế tuần hoàn bao gồm:
Sinh khối (Biomass) và các sản phẩm sinh học. Trong đó, sản xuất
nông nghiệp và lâm nghiệp được coi là các lĩnh vực trọng tâm để thúc đẩy
chuyển dịch toàn bộ nền kinh tế theo hướng phát thải cácbon thấp và thân
thiện với khí hậu (climate friendly economy), bởi lẽ một số khí nhà kính
thường thấy trong nông nghiệp có khả năng gây hiệu ứng nhà kính rất mạnh.
Ví dụ, 1 kg khí metan (CH4) từ hoạt động chăn nuôi có thể gây hiệu ứng
mạnh gấp 25 lần 1 kg khí cácbonnic (CO2) từ các hoạt động giao thông. Vì
vậy, thu hồi và sử dụng các năng lượng sinh khối nói chung và biogas nói
riêng là hướng ưu tiên của các mô hình KTTH trong ngành nông nghiệp;
Thay đổi phân bón theo hướng phân bón hữu cơ, đặc biệt là các loại
phân bón hữu cơ được xử lý từ chất thải hữu cơ trong nông nghiệp;
Tuần hoàn nước trong nông nghiệp, vì nông nghiệp là một trong
những ngành sử dụng nước nhiều nhất (cho tưới, rửa sản phẩm,…). Việc
4
tuần hoàn nước trong nông nghiệp là yêu cầu quan trọng để duy trì nông
nghiệp bền vững;
Ngăn chặn chất thải thực phẩm (Food waste), muốn thực hiện được
cần thông qua việc tối ưu hóa các chuỗi cung ứng thực phẩm, hoàn thiện hệ
thống chỉ tiêu theo dõi chất thải thực phẩm, tăng cường các mô hình chia sẻ,
quyên góp thực phẩm…
4. Thực trạng KTTH trong ngành nông nghiệp tại Việt Nam
Những vấn đề về quản lý và phát triển bền vững ngành nông nghiệp
trước những áp lực của của suy giảm tài nguyên, gia tăng chất thải và biến
đổi khí hậu là thách thức đối với Việt Nam. KTTH được xem là cách tiếp cận
phù hợp cho phát triển nông nghiệp theo xu hướng phát thải bằng không đạt
hiệu quả kinh tế và môi trường trong nông nghiệp. Nhận thức được xu thế
này, Đảng và nhà nước cũng đã có các chủ trương và chính sách để thực hiện
KTTH nói chung và KTTH trong ngành nông nghiệp nói riêng.
Mặc dù thuật ngữ “kinh tế tuần hoàn” chưa được chính thức sử dụng ,
nhưng từ năm 1998, Chỉ thị 36/CTTW ngày 25/6/1998 của Bộ Chính trị về
tăng cường công tác bảo vệ môi trường trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước, đã nêu rõ cần thiết phải “ban hành các chính sách về thuế,
tín dụng nhằm hỗ trợ áp dụng các công nghệ sạch” và “áp dụng công nghệ
sạch, ít phế thải, tiêu hao ít nguyên liệu và năng lượng”. Tiếp theo đó là Nghị
quyết số 41NQ/TW ngày 15/11/2004 của Bộ Chính trị nêu rõ “khuyến khích
tái chế và sử dụng các sản phẩm tái chế” và “từng bước áp dụng các biện
pháp buộc các cơ sở sản xuất, nhập khẩu phải thu hồi và xử lý sản phẩm đã
qua sử dụng”. Các Chỉ thị 29/CTTW năm 2009, Chiến lược phát triển kinh tế
xã hội 2011 2020, và Nghị Quyết 24/NQTW ngày 03/06/2013 về chủ động
ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi
trường cũng tiếp tục nhấn mạnh và chi tiết hóa các nhiệm vụ trên.
Về chính sách và pháp luật của Nhà nước, Chiến lược PTBV Việt Nam
20112020, Chiến lược BVMT đến 2020, tầm nhìn 2030, Chiến lược tăng
trưởng xanh, Nghị định 38/2015/NĐCP, Quyết định 16/2015/QĐTTg và đặc
biệt là Chiến lược Quốc gia về quản lý tổng hợp chất thải rắn năm 2018 là
những chính sách tiêu biểu, thể hiện những bước chuyển dịch về chính sách
theo hướng kinh tế tuần hoàn của Việt Nam lien quan đến phát triển kinh tế
tuần hoàn trong nong nghiệp.
Trên thực tế, Việt Nam đã có một số biểu hiện của KTTH trong ngành
nông nghiệp. Mô hình VườnAoChuồng (VAC) và biến thể VườnAo
ChuồngBiogas (VACB), VườnAoChuồngRừng (VACR) mô hình kết hợp
giữa VAC với hoạt động lâm nghiệp tại các tỉnh miền núi và VườnAoHồ
(VAH) mô hình trang trại trên cát tại các tỉnh miền trung đã không chỉ giúp
giảm phát thải mà còn đem lại thu nhập tốt cho người dân. Đặc biệt,
5
VACB là giải pháp giúp khắc phục sự bất hợp lý trong quản lý phế thải, sử
dụng hợp lý phế phụ phẩm nông nghiệp, để trả lại độ phì cho đất. Xử lý an
toàn chất thải động vật, tạo năng lượng tái sinh tạo nguồn chất đốt phục vụ
sinh hoạt chống ô nhiễm môi trường và góp phần giảm phát thải, giảm hiệu
ứng nhà kính gây biến đổi khí hậu. Trong bối cảnh nông nghiệp với các sản
phẩm được sản xuất thông qua hình thức trang trại đang trở nên phổ biến,
việc áp dụng các mô hình mở rộng của VAC, theo các nguyên lý của KTTH
sẽ là hướng đi phù hợp để phát triển bền vững nông nghiệp nông thôn.
Gần đây tiếp tục xuất hiện một số mô hình KTTH trong nông nghiệp,
đó là mô hình chế biến phụ phẩm thủy sản (vỏ tôm, đầu tôm,…) tạo ra
Chitosan, SSE,… với tiềm năng 45 tỉ USD mỗi năm, ống hút làm từ cỏ và
gạo thay thế cho ống hút nhựa. Các điển hình này cần được tổng kết và xem
xét hỗ trợ để phát triển nhân rộng.
Đặc biệt, dự án Hỗ trợ nông nghiệp các bon thấp 20132019 của Bộ
Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, với sự hỗ trợ của Ngân hàng phát triển
Châu Á (ADB) cũng có thể coi là một điển hình tốt của KTTH trong nông
nghiệp. Dự án triển khai tại 10 tỉnh bao gồm Lào Cai, Sơn La, Phú Thọ, Bắc
Giang, Nam Định, Hà Tĩnh, Bình Định, Tiền Giang, Bến Tre, Sóc Trăng. Dự
án đã tiến hành thí điểm công nghệ mới tách ép chất thải chăn nuôi. Một số
hộ dân có quy mô trên 2.000 lợn đã có thể chạy máy ép 2 lần một tuần, mỗi
lần chạy 23 giờ, mỗi lần chạy thu được khoảng 1 tấn phân ép, có giá bán từ
800 ngàn đến 1 triệu đồng. Các chủ trang trại có thu nhập bổ sung hàng chục
triệu đồng/tháng từ áp dụng công nghệ này. Nhiều trang trại chăn nuôi lợn,
sau khi được trang bị máy của dự án đã giải quyết được vấn đề ô nhiễm môi
trường trên địa bàn và mạnh dạn mở rộng quy mô chăn nuôi, điển hình là
trang trại tăng từ 3.000 lợn lên 7.000 lợn ở Cẩm Xuyên, Hà Tĩnh (Ban Quản lý
các dự án nông nghiệp, 2019). Nhận thấy những kết quả từ việc áp dụng mô
hình VACB, Hội đồng Nhân dân tỉnh Hà Tĩnh đã đề xuất hỗ trợ 70% chi phí
thiết bị cho các trang trại chăn nuôi có nhu cầu trang bị máy. Tuy nhiên, đây
mới chỉ là dự án thí điểm tại 10 tỉnh.
Tuy nhiên, thực trạng phát triển của các mô hình cũng đang có một số
hạn chế. Các công trình biogas quy mô nhỏ đem lại hiệu quả tốt trong khi các
công trình khí sinh học quy mô lớn còn nhiều hạn chế do khí ga sinh ra không
được sử dụng, một số hầm khí sinh học vẫn không đáp ứng được QCVN 62
về nước thải chăn nuôi, dẫn đến nhiều chủ trang trại không có động lực vận
hành, bảo dưỡng các công trình lớn đúng cách. Ngoài ra, công nghệ xử lý môi
trường chăn nuôi thường có tỷ suất lợi nhuận thấp hơn các ngành sản xuất,
nên việc nhân rộng mô hình VACB sẽ gặp khó khăn. Ngay cả Dự án hỗ trợ
nông nghiệp cácbon thấp 20132019 kể trên, được coi là thành công nhưng
vẫn chưa được tiếp tục nhân rộng. Vì thế, các dự án này cần được Chính phủ
6
quan tâm hỗ trợ để tạo động lực cho người dân đầu tư xử lý môi trường hiệu
quả và bền vững.
Đặc biệt, hiện nay san xuât nông nghi
̉
́
ệp của nước ta vẫn chú trọng vào
sô l
́ ượng, tim cach tăng san l
̀
́
̉ ượng, tăng năng suât và gi
́
ảm giá thành nhưng
chưa quan tâm đung m
́
ưc đên cac tiêu chi phat triên bên v
́ ́ ́
́ ́
̉
̀ ững, thân thiên v
̣ ới
môi trương. L
̀
ượng dư thưa đâu vao cua qua trinh san xuât nh
̀ ̀ ̀ ̉
́ ̀
̉
́ ư dư thưa phân
̀
bon, thuôc bao vê th
́
́ ̉
̣ ực vât, th
̣
ưc ăn cung nh
́
̃
ư cac rui ro v
́ ̉
ơi môi tr
́
ường vẫn
chưa được quan tâm đúng mức. Trong khí đó, để có thể đẩy mạnh Kinh tế
tuần hoàn trong nông nghiệp, việc giảm dư thừa đầu vào và tồn dư thuốc bảo
vệ thực vật là tối quan trong.
5. Kết luận và một số giải pháp phát triển KTTH trong nông nghiệp
Như vậy, thực hiện HTTH đang là một xu hướng trên thế giới, diễn ra
với nhiều ngành của nền kinh tế, ngành nông nghiệp cũng không thể là ngoại
lệ. Trên cơ sở tổng hợp kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn tại Việt Nam, một
số giải pháp cần được xem xét như sau:
(1) Thay đổi nhận thức của người dân và xã hội
Cần thiết kế nội dung KTTH trong nong nghiệp, đẩy mạnh tuyên
truyền, nâng cao nhận thức của người nông dân, các doanh nghiệp sản xuất
nông nghiệp và các tầng lớp về phát triển các mô hình kinh tế tuần hoàn sản
xuất trong nông nghiệp, hiệu quả của các mô hình này và những lợi ích mà
phát triển mô hình KTTH mang lại, từ đó sẽ loại bỏ dần các mô hình sản
xuất nong nghiệp cũmô hình kinh tế tuyến tính.
(2) Hoàn thiện hệ thống pháp luật và chính sách thúc đẩy KTTH trong
nông nghiệp
Trong bối cảnh thực hiện thể chế kinh tế thị trường, doanh nghiệp là
động lực trung tâm, nhà nước đóng vai trò kiến tạo, các tổ chức và từng
người dân cùng tham gia thực hiện. Vai trò kiến tạo của nhà nước thể hiện
trong việc tạo ra một môi trường để KTTH phát triển. Đó là môi trường với
hệ thống luật pháp rõ ràng, lộ trình phù hợp, có các hình thức khuyến khích
(ưu đãi về cơ chế và thủ tục hành chính, về tài chính, về tiếp cận các nguồn
lực) và chế tài rõ ràng, minh bạch. Từ đó, các mô hình KTTH tốt được
khuyến khích và tạo hiệu ứng thực hiện KTTH trong mọi hoạt động kinh tế
và xã hội, nhất là ở khu vực nong thôn.
Phân tích thực trạng cho thấy các yếu tố liên quan đến KTTH đã được
đề cập trong nhiều chính sách và văn bản pháp luật. Tuy nhiên, hiện vẫn
chưa có chính sách riêng về KTTH trong ngành nông nghiệp. Vì thế, các chính
sách hỗ trợ và khuyến khích các mô hình KTTH còn phân tán và chưa phát huy
được sức mạnh tổng hợp
7
(iii) Phát triển các mô hình kinh tế tuần hoàn trong nông nghiệp cần
dựa trên các mô hình đã có phù hợp đặc trưng của vùng miền và từng lĩnh
vực của nong nghiệp
Do đặc tính tự nhiên, văn hóa xã hội của mỗi vùng, miền và địa phương
khác nhau, ở đó đã có những mô hình gần với KTTH, do vậy phát triển các mô
hình KTTH phải dự trên quá trình hình thành và phát triển ở đó, ví dụ các mô
hình VAC phù hợp đồng bằng, các mô hình VRAC phù hợp trung du và miền
núi…
Đối với ngành lĩnh vực, dựa trên cơ sở đặc trưng ngành lĩnh vực đã có
biểu hiện của KTTH để hoàn thiện, phát triển và nhân rộng, ví dụ trong chăn
nuôi thu hồi phân, khí thải của các trang trại lợn bò, hay quy mô hộ gia đình.
Trong thủy hải sản mô hình cálúa, tômcáhải sản rừng ngập mặn…, sản
xuất theo Vietgap.
(iv) Thay đổi phân bón và hóa chất bảo vệ thực vật theo hướng phân
bón hữu cơ, hạn chế việc sử dụng hóa chất trong quá trình sản xuất
Dư thưa
̀ phân bon, thuôc
́
́ bao vê
̉
̣ thực vât,
̣ kháng sinh và thuốc tăng
trưởng đang là một vấn đề của sản xuất nông nghiệp ở Việt Nam. Điều này
không chỉ ảnh hướng tới an toàn thực phẩm và sức cạnh tranh của sản phẩm
trên thị trường mà còn hạn chế khả năng tuần hoàn vật liệu trong ngành nông
nghiệp. Thật vậy, khi dư lượng hóa chất lớn, việc tận dụng nguyên liệu có
thể sẽ gây hại cho các quá trình sản xuất sau, không chỉ giảm hiệu quả kinh
tế mà còn gây ra nhiều rủi ro khó lường trước. Vì thế, phân bón hữu cơ và các
biện pháp sử dụng “thiên địch” trong nuôi trồng và chăn nuôi cần được
khuyến khích, hỗ trợ để phát triển, thay thế cho việc sử dụng hóa chất.
(v) Phát triển KTTH trong nông nghiệp kết hợp với công nghệ cao
Nông nghiệp Việt Nam để cạnh tranh với sản phẩm cùng loại trên thế
giới về chất lượng, mẫu mã, giá thành cần phải phát triển theo hướng nông
nghiệp công nghệ cao, có địa chỉ rõ ràng và đăng ký thương hiệu, địa chỉ địa
lý. Ngoài ra trong bối cảnh biến đổi khí hậu và suy giảm tài nguyên, việc ứng
dụng công nghệ sẽ giúp ngành nông nghiệp bớt phụ thuộc vào các điều kiện
thay đổi của thiên nhiên, giảm thiểu rủi ro trong sản xuất. Đặc biệt, công
nghệ cao sẽ giúp tiết kiệm tài nguyên, tiết kiệm tài nguyên nước và tài
nguyên đất. Trong bối cảnh mới, đây là yêu cầu tối quan trọng để duy trì
nông nghiệp bền vững.
(vi) Trong phát triển nong thôn mới giai đoạn tới cần bổ sung tiêu chí
phát triển mô hình KTTH của địa phương
Hiện nay chúng ta đã có bộ tiêu chí về phát triển nông thôn mới, trong
giai đoạn tới để thực hiện chủ trương của Đảng phát triển nhanh, bền vững,
8
việc xây dựng và phát triển mô hình KTTH trong nông nghiệp cần bổ sung
vào các tiêu chí nông thôn mới.
9
10