Tải bản đầy đủ (.pdf) (104 trang)

Quyền của bị can trong điều tra vụ án hình sự từ thực tiễn viện kiểm sát nhân dân quận nam từ liêm thành phố hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.03 MB, 104 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NỘI VỤ

…………/…………

……/……

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

LÊ HẢI ĐĂNG

QUYỀN CỦA BỊ CAN TRONG ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ TỪ THỰC TIỄN VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
QUẬN NAM TỪ LIÊM, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHUYÊN NGÀNH
LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH

HÀ NỘI - 2018


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NỘI VỤ

…………/…………

……/……

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA


LÊ HẢI ĐĂNG

QUYỀN CỦA BỊ CAN TRONG ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ TỪ THỰC TIỄN VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
QUẬN NAM TỪ LIÊM, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHUYÊN NGÀNH
LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. TRẦN THỊ DIỆU OANH

HÀ NỘI - 2018


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn này là cơng trình nghiên cứu của
riêng tơi dưới sự hướng dẫn của PGS.TS. Trần Thị Diệu Oanh. Các
kết quả nêu trong Luận văn chưa được cơng bố trong bất kỳ cơng
trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm
bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực.

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Lê Hải Đăng

i


MỤC LỤC

Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
MỞ ĐẦU .........................................................................................................
Chương 1: Lý luận về quyền của bị can trong điều tra vụ án hình sự ................
1. Điều tra vụ án hình sự và quyền của bị can trong điều tra vụ án hình sự…..
2. Trách nhiệm của Viện Kiểm sát nhân dân đối với quyền của bị can trong
điều tra vụ án hình sự………………………………………………….
Chương 2: Thực trạng quyền của bị can trong điều tra vụ án hình sự của Viện
kiểm sát nhân dân quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội………… ............ …
1. Khái quát Viện kiểm sát nhân dân quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội2.
Đặc điểm, tình hình tội phạm trên địa bàn quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà
Nội................................................................................. ........................... .........
3. Tình hình quyền của bị can trong điều tra vụ án hình sự của Viện kiểm sát
nhân dân quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội............................. ......... ........
4. Đánh giá chung về quyền của bị can trong hoạt động điều tra vụ án hình sự
của Viện kiểm sát nhân dân quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội........... ......
Chương 3: Quan điểm, giải pháp bảo đảm quyền của bị can trong điều tra vụ
án hình sự - Từ thực tiễn Viện kiểm sát nhân dân quận Nam Từ Liêm, thành
phố Hà Nội…...................................................................... ........................ .......
1. Quan điểm bảo đảm quyền bị can trong điều tra vụ án hình sự của VKSND
cấp huyện……………………………………………………… ................... …
2. Giải pháp bảo đảm quyền bị can trong trong điều tra vụ án hình sự - từ thực
tiễn Viện Kiểm sát nhân dân quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội. ..............
KẾT LUẬN ......................................................................................................
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..........................................................
ii



DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BLHS:

Bộ luật hình sự

BLTTHS:

Bộ luật Tố tụng hình sự

CQTHTT:

Cơ quan tiến hành tố tụng

THTT:

Tiến hành tố tụng

TAND:

Tòa án nhân dân

VKSND:

Viện kiểm sát nhân dân

XHCN:

Xã hội chủ nghĩa


NBC

Người bào chữa

NLC

Người làm chứng

CQĐT

Cơ quan điều tra

iii


DANH MỤC BIỂU ĐỒ

Số hiệu biểu đồ

Tên biểu đồ

Biểu đồ 1.1: Kết quả thực hành quyền công tố và kiểm sát điều
tra của VKSND quận Nam Từ Liêm giai đoạn
T4/2014 – 2017

iv

Trang
53



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Bảo vệ quyền con người là một trong những yêu cầu và mục đích của
việc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN ở nước ta. Chăm lo đến con
người, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho con người phát triển toàn diện là quan
điểm cơ bản, xuyên suốt, được thể hiện trong nhiều văn kiện của Đảng và
Nhà nước Việt Nam. Bảo vệ quyền con người cần được thực hiện trên tất cả
các lĩnh vực, đặc biệt trong các lĩnh vực nhạy cảm về nhân quyền như hoạt
động tố tụng hình sự.
Tố tụng hình sự là một mặt hoạt động của Nhà nước, có sự tham gia
của nhiều cơ quan, trong đó VKSND giữ vai trị rất quan trọng. Hiến pháp
năm 2013 quy định VKSND là cơ quan tiến hành tố tụng hình sự, thực hiện
chức năng thực hành quyền cơng tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong
tố tụng hình sự, có vai trị quan trọng trong việc bảo vệ pháp luật, pháp chế,
bảo vệ quyền con người. Việc bảo vệ quyền con người của Viện kiểm sát
trong tố tụng hình sự được thể hiện trên hai phương diện: Một là, đấu tranh
chống tội phạm, phát hiện kịp thời để đưa ra xử lý nghiêm minh trước pháp
luật đối với người phạm tội xâm phạm đến các quyền và lợi ích hợp pháp,
trong đó có các quyền của con người. Hai là, bảo đảm các quyền của con
người (của người bị tình nghi, bị can, bị cáo, người bị kết án) không bị pháp
luật tước bỏ được tôn trọng.
Trong những năm vừa qua, bằng công tác thực hành quyền công tố
(THQCT) và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự; VKSND
đã có những đóng góp lớn trong việc bảo vệ quyền con người trong các giai
đoạn khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử trong tố tụng hình sự. Tuy nhiên, bên
cạnh những kết quả đạt được, vai trò bảo vệ quyền con người của VKSND
trong tố tụng hình sự cịn chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu. Công tác
1



THQCT và kiểm sát điều tra còn nhiều lỗ hổng, dẫn đến việc các cơ quan điều
tra (CQĐT) ở một số nơi, trong một số thời điểm còn áp dụng các biện pháp
trái pháp luật, bức cung, dùng nhục hình đối với người bị tạm giữ, tạm giam,
bị can. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến hạn chế đã nêu trên, trong đó nhiều
nguyên nhân đã được làm rõ, trong khi có nhiều ngun nhân cịn chưa được
nhận diện đầy đủ. Do vậy, việc nghiên cứu về vai trò bảo vệ quyền con người
trong tố tụng hình sự của VKSND hiện nay có ý nghĩa thiết thực cả trên
phương diện lý luận và thực tiễn. Đây đồng thời là một yêu cầu cấp thiết, đặc
biệt trong bối cảnh Luật tổ chức VKSND ban hành năm 2014 đã có hiệu lực
pháp luật và Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 2015 đã được thơng qua
và có hiệu lực ngày 01/7/2016, trong đó nhấn mạnh vai trị bảo vệ quyền con
người của VKSND trong tố tụng hình sự.
Là một cán bộ Kiểm sát đang công tác trong ngành Kiểm sát ở địa
phương – quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội, trước tình hình trên, học
viên quyết định chọn đề tài: “Quyền của bị can trong điều tra vụ án hình sự Từ thực tiễn Viện kiểm sát nhân dân quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội”
để thực hiện luận văn thạc sỹ của mình, với mong muốn tìm ra các giải pháp
bảo đảm quyền bị can trong điều tra vụ án hình sự của VKSND trên địa bàn
quận Nam Từ Liêm nói riêng và ở nước ta nói chung.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Ở nước ta, từ trước đến nay đã có nhiều cơng trình nghiên cứu về vấn
đề bảo vệ quyền con người nói chung, bảo vệ quyền con người trong tố tụng
hình sự nói riêng. Những cơng trình nghiên cứu về vấn đề này có thể được
phân thành hai nhóm chính như sau:
- Các nghiên cứu về bảo đảm quyền con người nói chung gồm các cơng
trình tiêu biểu như: “Quyền con người trong thế giới hiện đại” - đề tài khoa
học cấp nhà nước do GS Hồng Văn Hảo và GS Phạm Ích Khiêm đồng chủ
2



nhiệm; “Giáo trình Lý luận và pháp luật về quyền con người” do GS.TS.
Nguyễn Đăng Dung, PGS. TS. Vũ Công Giao, TS. Lã Khánh Tùng (đồng chủ
biên), NXB ĐHQG Hà Nội, 2010, tái bản năm 2011, 2015; “Các văn kiện
quốc tế cơ bản về quyền con người” - Trung tâm nghiên cứu Quyền con người
- Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 2002; “Bàn về quyền con người,
quyền cơng dân” do Trần Ngọc Đường (chủ biên), NXB Chính trị Quốc gia
HN, 2004…
- Các nghiên cứu về bảo vệ quyền con người trong tố tụng hình sự gồm
các cơng trình tiêu biểu như: “Bảo vệ quyền con người bằng pháp luật hình sự
và pháp luật tố tụng hình sự trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền
Việt Nam” đề tài khoa học cấp Đại học Quốc Gia do GS. TSKH. Lê Văn
Cảm, TS. Nguyễn Ngọc Chí, Ths. Trịnh Quốc Toản đồng chủ trì thực hiện
năm 2005; "Bảo vệ quyền con người trong luật hình sự, luật tố tụng hình sự
Việt Nam" sách chuyên khảo của TS. Trần Quang Tiệp, NXB Chiń h tri ̣ quốc
gia năm 2004; “Bảo vệ các nhóm dễ bị tổn thương trong tố tụng hình sự”
Nguyễn Đăng Dung, Phạm Hồng Thái, Lê Văn Cảm, Vũ Công Giao, Lã
Khánh Tùng (đồng chủ biên), NXB ĐHQG Hà Nội, 2011; "Bảo đảm quyền
con người trong hoạt động tư pháp ở Việt Nam hiện nay”, luận án tiến sĩ luật
học của Nguyễn Huy Hoàng, bảo vệ tại Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí
Minh năm 2011; "Bảo vệ quyền con người trong tố tụng hình sự Việt Nam"
luận án tiến sĩ của Nguyễn Quang Hiền bảo vệ tại Viện nhà nước và pháp luật
năm 2008;
Những cơng trình nghiên cứu trên đã cung cấp một lượng lớn kiến
thức, thơng tin có liên quan đến đề tài. Cùng với những văn bản pháp quy và
báo cáo tình hình cơng tác kiểm sát của Viện KSND quận Nam Từ Liêm,
những cơng trình nghiên cứu trên là các tài liệu tham khảo chính khi thực hiện
đề tài này. Tuy nhiên, hiện chưa có cơng trình nghiên cứu nào tập trung

3



chuyên sâu nghiên cứu về vai trò của VKSND trong việc bảo vệ quyền bị can
trong điều tra vụ án hình sự. Mặt khác, hầu hết các cơng trình nghiên cứu đã
nêu trên chưa cập nhật những quy định mới về VKSND và về bảo vệ quyền bị
can trong điều tra vụ án hình sự trong thực tiễn.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục tiêu
Nhằm đánh giá một cách tồn diện, chun sâu về vai trị bảo vệ quyền
bị can của VKSND thông qua hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát
việc tuân theo pháp luật trong các vụ án hình sự. Từ đó, chỉ ra những kết quả,
tồn tại, hạn chế của Viện kiểm sát trong việc thực hiện nhiệm vụ bảo vệ
quyền bị can; đánh giá nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế và đề ra các
giải pháp nhằm tăng cường, nâng cao hiệu quả bảo vệ quyền bị can của
VKSND trong điều tra vụ án hình sự ở nước ta.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Xuất phát từ mục tiêu tổng quát nói trên, luận văn xác định những
nhiệm vụ cụ thể như sau:
- Hệ thống hóa những vấn đề lý luận về vai trò bảo vệ quyền bị can
trong điều tra vụ án hình sự của VKSND, chỉ ra cơ sở lý thuyết của hoạt động
này, bao gồm các khái niệm, định nghĩa, đặc điểm, tính chất…
- Phân tích chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND trong bảo vệ
quyền bị can trong điều tra vụ án hình sự.
- Đánh giá thực trạng quyền bị can trong điều tra vụ án hình sự từ thực
tiễn Viện KSND quận Nam Từ Liêm trong 3 năm gần đây kể từ khi thành lập,
chỉ ra những thành tựu, hạn chế và phân tích nguyên nhân.
- Đề xuất các giải pháp bảo đảm quyền bị can trong điều tra vụ án hình

4



sự của VKSND ở nước ta qua thực tiễn quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà
Nội.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Quyền của bị can trong điều tra vụ án hình sự - từ thực tiễn Viện Kiểm
sát quận Nam Từ Liêm.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung, đề tài tập trung nghiên cứu lý luận và thực tiễn quyền bị
can trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự thơng qua chức năng, nhiệm vụ của
Viện Kiểm sát bao gồm thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra vụ
án hình sự và kiểm sát điều tra vụ án hình sự nhằm bảo đảm quyền bị can
trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự.
Về khơng gian, đề tài chỉ tập trung nghiên cứu thực trạng quyền bị can
trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự của VKSND ở quận Nam Từ Liêm,
thành phố Hà Nội.
Về thời gian, đề tài chỉ giới hạn phân tích thực trạng quyền bị can trong
điều tra vụ án hình sự của VKSND quận Nam Từ Liêm trong 3 năm trở lại
đây từ khi thành lập Quận.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn vận dụng các phương pháp luận duy vật biện chứng, duy vật
lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm
của Đảng, Nhà nước ta về quyền con người, quyền công dân.
Luận văn kết hợp sử dụng các phương pháp nghiên cứu phổ biến của
khoa học xã hội để giải quyết các nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra.

5


6. Ý nghĩa của Luận văn
Luận văn là cơng trình nghiên cứu cơ bản, có hệ thống, chun sâu

trên khía cạnh lý luận và thực tiễn về quyền của bị can trong điều tra vụ án
hình sự từ thực tiễn VKSND quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội.
Luận văn có những đóng góp mới về khoa học thể hiện trên những
điểm sau:
- Phân tích làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về quyền của bị can trong
điều tra vụ án hình sự;
- Phân tích, đánh giá có hệ thống thực trạng quyền của bị can trong
điều tra vụ án hình sự từ thực tiễn VKSNS quận Nam Từ Liêm, thành phố
Hà Nội;
- Luận văn phân tích những quan điểm bảo đảm quyền của bị can trong
điều tra vụ án hình sự từ thực tiễn VKSNS quận Nam Từ Liêm, thành phố
Hà Nội.
- Luận văn có thể là tài liệu tham khảo cho các cơ sở đào tạo, nghiên
cứu về quyền của bị can trong điều tra vụ án hình sự.
7. Kết cấu luận văn
Ngồi phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, bố cục
của luận văn được chia làm 3 chương:
Chương 1: Lý luận về quyền của bị can trong điều tra vụ án hình sự
Chương 2: Thực trạng quyền của bị can trong điều tra vụ án hình sự
của Viện kiểm sát nhân dân quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội
Chương 3: Quan điểm, giải pháp bảo đảm quyền của bị can trong điều
tra vụ án hình sự - Từ thực tiễn Viện kiểm sát nhân dân quận Nam Từ Liêm,
thành phố Hà Nội

6


Chương 1
LÝ LUẬN VỀ QUYỀN CỦA BỊ CAN
TRONG ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ

1. Điều tra vụ án hình sự và quyền của bị can trong điều tra vụ án hình
sự
1.1. Khái niệm, đặc điểm điều tra vụ án hình sự
1.1.1. Khái niệm điều tra vụ án hình sự
Điều tra vụ án hình sự là giai đoạn tố tụng hình sự thứ hai mà trong đó
cơ quan điều tra căn cứ vào các quy định của pháp luật TTHS và dưới sự
kiểm sát của VKS tiến hành các biện pháp cần thiết nhằm thu thập và củng cố
các chứng cứ, nghiên cứu các tình tiết của vụ án hình sự, phát hiện nhanh
chóng và đầy đủ tội phạm, cũng như người có lỗi trong việc thực hiện tội
phạm để truy cứu trách nhiệm hình sự, đồng thời bảo đảm cho việc bồi
thường thiệt hại về vật chất do tội phạm gây nên và trên cơ sở đó quyết định:
đình chỉ điều tra, chuyển toàn bộ tài liệu của vụ án cho VKS kèm theo kết
luận điều tra và đề nghị truy tố bị can. Trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự,
các cơ quan có thẩm quyền thực hiện các nhiệm vụ cụ thể để chức minh việc
thực hiện tội phạm và người phạm tội, xác định rõ những nguyên nhân và
điều kiện phạm tội, đồng thời kiến nghị các cơ quan và tổ chức hữu quan áp
dụng đầy đủ các biện pháp khắc phục và phòng ngừa tội phạm. Thời điểm của
giai đoạn này bắt đầu tư khi cơ quan, người tiến hành tố tụng hình sự có thẩm
quyền ra quyết định khởi tố vụ án hình sự và kết thúc bằng bản kết luận điều
tra và quyết định của cơ quan điều tra về việc đề nghị VKS truy tố bị can
trước Tồ án hoặc đình chỉ vụ án hình sự tương ứng.
Cách hiểu phổ biến ở Việt Nam hiện nay cho rằng điều tra là hoạt động
của CQĐT trong điều tra vụ án hình sự. Quan điểm này cho rằng điều tra là

7


tổng hợp tất cả các hành vi thực hiện trong giai đoạn điều tra và do một cơ
quan điều tra thực hiện. Trong cuốn Tìm hiểu Luật Tố tụng hình sự, “Điều tra
là một giai đoạn của quá trình tố tụng hình sự, trong đó cơ quan điều tra áp

dụng các biện pháp do Luật tố tụng hình sự quy định để xác định tội phạm và
người thực hiện hành vi phạm tội, Viện kiểm sát kiểm sát hoạt động điều tra,
quyết định truy tố bị can làm cơ sở cho việc xét xử của Tòa án”; hoặc “Điều
tra vụ án hình sự là một giai đoạn tố tụng hình sự, trong giai đoạn này cơ
quan điều tra áp dụng mọi biện pháp do Bộ luật Tố tụng hình sự quy định để
xác định tội phạm và người phạm tội”. [1].
Trên thực tế hoạt động điều tra được tiến hành trong tất cả các giai đoạn
tố tụng hình sự, điều tra, truy tố và xét xử vụ án hình sự với những mục đích
khác nhau để xác định sự thật khách quan của vụ án. Đây chưa phải là định
nghĩa hoạt động điều tra mà là định nghĩa của giai đoạn điều tra vụ án hình
sự. Hay nói đúng hơn đó là định ĩa về hoạt động điều tra của Cơ quan điều tra
nên nó thiếu tính tồn diện, chưa nói lên được tính bản chất và nội hàm của
loại hoạt động này. Quan điểm này chỉ thừa nhận Cơ quan điều tra là một chủ
thể duy nhất có thẩm quyền được phép thực hiện các hoạt động điều tra. Điều
này hoàn toàn mâu thuẫn với quy định của Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS)
về thẩm quyền thực hiện các hoạt động điều tra. Khoản 1 Điều 65 BLTTHS
năm 2003 khi quy định thẩm quyền thu thập chứng cứ đã chỉ rõ: “Để thu thập
chứng cứ, cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tịa án có quyền triệu tập những
người biết về vụ án để hỏi và nghe họ trình bày về những vấn đề có liên quan
đến vụ án, trưng cầu giám định, tiến hành khám xét, khám nghiệm và các hoạt
động điều tra khác theo quy định của Bộ luật này; yêu cầu cơ quan, tổ chức,
cá nhân cung cấp tài liệu, đồ vật, trình bày những tình tiết làm sáng tỏ vụ
án”, hay tại khoản 1 Điều 88 BLTTHS năm 2015 quy định: “Để thu thập
chứng cứ, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng có quyền tiến hành hoạt
động thu thập chứng cứ theo quy định của Bộ luật này; yêu cầu cơ quan, tổ
8


chức, cá nhân cung cấp chứng cứ, tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử, trình bày
những tình tiết làm sáng tỏ vụ án.”. Như vậy có thể thấy quy định của

BLTTHS về thẩm quyền thu thập chứng cứ là thẩm quyền thực hiện các hoạt
động điều tra của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án. Ba cơ quan này
được tiến hành tất cả các hoạt động điều tra đã được quy định trong BLTTHS.
Như vậy, ba cơ quan này theo chức năng và nhiệm vụ đã được phân định có
quyền tiến hành tất cả các hoạt động điều tra. Theo tinh thần của điều luật nêu
trên bình đẳng về thẩm quyền được tiến hành tất cà các hoạt động điều tra,
thực hiện hoạt động điều tra chính vì vậy khơng phải là độc quyền của Cơ
quan điều tra.
Việt Nam hiện nay chưa có một khái niệm pháp lý về “hoạt động điều
tra” và cũng chưa được giải thích chính thức bởi các cơ quan có thẩm quyền.
Trong tất cả các BLTTHS, chưa có điều luật nào giải thích hoặc định nghĩa về
hoạt động điều tra. Mặc dù hoạt động điều tra đã được quy định trong các văn
bản pháp luật tố tụng hình sự, hoạt động điều tra được các cơ quan tố tụng
hình sự thực hiện thường xuyên trong cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm,
nhưng khoa học pháp lý và thực tiễn hiện nay có những quan điểm khác nhau,
chưa thống nhất nhận thức về hoạt động điều tra, vẫn có sự nhầm lẫn giữa các
khái niệm điều tra, thẩm quyền điều tra vụ án và hoạt động điều tra; giữa giai
đoạn điều tra với hoạt động điều tra. Chính vì vậy mà vơ tình đồng nhất hoạt
động điều tra với các hoạt động khác của Cơ quan điều tra, bó hẹp phạm vi
chủ thể, phạm vi thời gian của hoạt động điều tra.
Theo từ điển tiếng Việt, “điều tra là hoạt động tìm hiểu, xem xét để biết
rõ sự thật”. [14]. Với ý nghĩa là một loại hoạt động nhận thức của con người,
điều tra được sử dụng trong rất nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội, để nghiên
cứu, tìm hiểu, thu thập thông tin, xác định mức độ kiến thức, hiểu biết về một
vấn đề, lĩnh vực nào đó mà con người quan tâm.
Theo Từ điển Bách khoa Công an nhân dân Việt Nam thì điều tra được
9


hiểu là hoạt động thu thập chứng cứ, tài liệu, tình hình... phản ánh sự thật về

một tổ chức, con người, sự việc, hiện tượng hoặc mục tiêu, địa bàn, lĩnh vực
phạm vi nhiệm vụ bảo vệ an ninh, trật tự [16]. Điều tra do cơ quan Công an
tiến hành có thể dưới hai hình thức: điều tra cơng khai do Cơ quan điều tra
hoặc một số cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động
điều tra tiến hành một cách công khai theo quy định của luật tố tụng hình sự;
điều tra bí mật (điều tra trinh sát) do lực lượng trinh sát tiến hành, thường
diễn ra trước khi khởi tố vụ án hình sự, phải tuân theo trình tự, thủ tục, thẩm
quyền mà các văn bản của ngành Cơng an quy định. Mỗi hình thức điều tra có
sự khác nhau cơ bản về chủ thể, thời hạn, hình thức cũng như trình tự, thủ tục,
thẩm quyền điều tra.
Điều tra vụ án hình sự là một giai đoạn của tố tụng hình sự, trong đó Cơ
quan điều tra, cơ quan được giao tiến hành một số hoạt động điều tra áp dụng
mọi biện pháp điều tra do pháp luật tố tụng hình sự quy định nhằm thu thập
chứng cứ chứng minh làm rõ vụ án hình sự. So với khái niệm điều tra hình
sự, khái niệm, điều tra vụ án hình sự có phạm vi hẹp hơn điều tra hình sự về
khơng gian và thời gian.
Hoạt động điều tra trong điều tra vụ án hình sự gồm các hoạt động cụ thể
sau: Hỏi cung bị can; Lấy lời khai của người làm chứng và những người tham
gia tố tụng khác; Khám xét (khám người, khám chỗ ở, địa điểm, chỗ làm
việc); Thu giữ thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm tại bưu điện; Khám
nghiệm (khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi); Xem xét dấu vết
trên thân thể; Thực nghiệm điều tra; Trưng cầu giám định.
Điều tra là hoạt động có mục đích của CQĐT khám phá sự thật khách
quan phục vụ nhu cầu của con người. Trong giai đoạn điều tra, các cơ quan có
thẩm quyền áp dụng biện pháp để chứng minh việc thực hiện tội phạm, xác
định rõ nguyên nhân, điều kiện thực hiện hành vi phạm tội, động cơ, mục đích
của tội phạm, lỗi của chủ thể cũng như nhân thân người phạm tội, hậu quả của
10



tội phạm, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả của tội phạm, tính
chất mức độ nguy hiểm cho xã hội do hành vi phạm tội gây ra.
1.1.2. Đặc điểm điều tra vụ án hình sự
Điều tra vụ án hình sự là hoạt động tố tụng phức tạp, phong phú và đa
dạng như đã được phân tích ở phần trên. Sự phức tạp, đa dạng của hoạt động
điều tra vụ án hình sự hàm chứa trong các đặc điểm nổi bật sau đây: [20].
- Hoạt động điều tra vụ án hình sự là hoạt động thực hiện cơng khai
theo trình tự, thủ tục tố tụng hình sự.
Hoạt động điều tra vụ án hình sự được tiến hành cơng khai theo các trình
tự, thủ tục và theo những biện pháp do pháp luật tố tụng hình sự quy định.
Tính cơng khai của hoạt động điều tra thể hiện chỉ được tiến hành các biện
pháp điều tra với sự có mặt của những người mà luật quy định và ký vào biên
bản các hoạt động điều tra (như khám nghiệm hiện trường, hỏi cung bị can,
lấy lời khai người làm chứng, người bị hại...). Tính cơng khai ở đây là công
khai tiến hành các thủ tục tố tụng điều tra, cịn nội dung, kết quả điều tra thì
phải giữ bí mật. Việc giữ bí mật điều tra có ý nghĩa quan trọng, có tính
ngun tắc quyết định sự thành công hay thất bại của cuộc điều tra, khám phá
sự thật khách quan của vụ án.
- Khi thực hiện hoạt động điều tra vụ án hình sự thường phải áp dụng
các biện pháp cưỡng chế tố tụng hình sự.
Để kịp thời ngăn chặn người phạm tội tiếp tục gây án hoặc gây cản trở
cho việc thu thập chứng cứ vụ án, trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự
thường phải áp dụng các biện pháp cưỡng chế như bắt, tạm giữ, tạm giam,
khám xét chỗ ở, khám xét nơi làm việc, khám xét thân thể; tiến hành các hoạt
động điều tra khác liên quan đến quyền cơ bản của công dân như triệu tập để
lấy lời khai những người có liên quan, hỏi cung bị can. Do đó, hoạt động điều
tra thường tiềm ẩn nguy cơ xâm phạm quyền tự do, dân chủ của công dân,

11



quyền con người đối với người bị tình nghi thực hiện hành vi phạm tội.
- Hoạt động điều tra vụ án hình sự là hoạt động thu thập chứng cứ phục
vụ cho hoạt động buộc tội.
Đây là giai đoạn quan trọng, cơ quan có thẩm quyền chứng minh hành vi
phạm tội trong việc thực hiện tội phạm thông qua chứng cứ thu thập được,
hoặc ngăn chặn kịp thời việc thông qua quyết định khởi tố bị can một cách
không thận trọng thiếu chính xác và do vậy, có thể khơng đủ các chứng cứ để
buộc tội
1.2. Khái niệm, nội dung quyền của bị can trong điều tra vụ án hình sự
1.2.1. Khái niệm quyền của bị can trong điều tra vụ án hình sự
Trước khi bàn đến khái niệm quyền của bị can trong điều tra vụ án hình
sự cần tìm hiểu khái niệm quyền và quyền con người, quyền công dân. Quyền
là điều mà pháp luật hoặc xã hội cơng nhận cho được hưởng, được làm, được
địi hỏi. Về khái niệm quyền con người hiện nay có nhiều định nghĩa khác
nhau. Một định nghĩa phổ biến thường được trích dẫn bởi các học giả theo
học thuyết quyền tự nhiên: Quyền con người là những quyền cơ bản, không
thể tước bỏ mà một người vốn được thừa hưởng đơn giản vì họ là con người.
Một khái niệm khác của Văn phòng cao ủy Liên Hợp Quốc cho rằng: Quyền
con người là những bảo đảm pháp lý tồn cầu có tác dụng bảo vệ các cá nhân
và các nhóm chống lại những hành động hoặc sự bỏ mặc mà làm tổn hại đến
nhân phẩm, những sự được phép và tự do cơ bản của con người.
Quyền con người được xác định như là chuẩn mực được kết tinh từ
những giá trị nhân văn của toàn nhân loại, áp dụng cho tất cả mọi người.
Quyền con người là khái niệm có tính chất bao quát và rộng hơn quyền công
dân, Quyền con người là quyền được áp dụng cho tất cả mọi người thuộc mọi
dân tộc đang sinh sống trên phạm vi tồn cầu, khơng phân biệt quốc tịch,
khơng phụ thuộc vào biên giới quốc gia hay tư cách cá nhân của chủ thể, thể

12



hiện mối quan hệ giữa cá nhân với toàn thể cộng đồng nhân loại. Quyền công
dân là khái niệm gắn liền với Nhà nước, thể hiện mối quan hệ giữa công dân
với Nhà nước, được xác định bởi chế định quốc tịch. Quyền công dân là tập
hợp những quyền con người được pháp luật của một nước ghi nhận và chỉ
những người mang quốc tịch của một nước thì mới được hưởng các quyền
cơng dân mà pháp luật nước đó quy định. Theo Điều 28 Hiến pháp năm 2013
thì cơng dân có quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội, tham gia thảo
luận và kiến nghị với cơ quan nhà nước về các vấn đề của cơ sở, địa phương
và cả nước. Nhà nước tạo điều kiện để công dân tham gia quản lý nhà nước và
xã hội, công khai, minh bạch trong việc tiếp nhận, phản hồi ý kiến, kiến nghị
của công dân.
Bị can trong một vụ án hình sự trước hết là con người, là cơng dân có
đầy đủ mọi quyền và nghĩa vụ được hiến pháp công nhận và bảo vệ, nhưng kể
từ khi phát sinh sự kiện pháp lý và được điều chỉnh bằng các hoạt động tố
tụng vì bị nghi ngờ phạm tội, bị truy cứu trách nhiệm hình sự thì lúc này họ là
bị can. Do đó bị can sẽ gặp các bất lợi vì bị hạn chế hoặc bị mất một phần hay
tồn bộ các quyền cơng dân. Một người chỉ có thể bị khởi tố với tư cách bị
can trong vụ án hình sự khi có đủ căn cứ xác định người đó đã thực hiện hành
vi phạm tội. Việc xác định một người có tư cách bị can từ khi nào là rất quan
trọng. Vì khi một người phát sinh tư cách bị can đồng nghĩa với việc người đó
sẽ có các quyền và nghĩa vụ của bị can. Người đó sẽ bị các cơ quan tiến hành
tố tụng áp dụng các biện pháp tố tụng được phép tiến hành với bị can theo
quy định của pháp luật tố tụng hình sự. Theo quy định của pháp luật tố tụng
hình sự hiện hành thì bị can là người bị khởi tố về hình sự và tham gia tố tụng
từ khi có quyết định khởi tố bị can. Bị can sẽ tham gia vào các giai đoạn điều
tra, truy tố và một phần giai đoạn xét xử sơ thẩm. Tư cách tố tụng của bị can
sẽ chấm dứt khi Cơ quan điều tra đình chỉ điều tra, Viện kiểm sát đình chỉ vụ
án, Tịa án đình chỉ vụ án trong giai đoạn chuẩn bị xét xử đối với bị can hoặc

13


tòa án ra quyết định đưa vụ án ra xét xử. Khi một người bị khởi tố về hình sự
thì họ sẽ trở thành đối tượng bị buộc tội trong vụ án, điều này không đồng
nghĩa với việc xác định họ là người có tội. Bị can chỉ được coi là có tội hay
khơng có tội sau khi có bản án có hiệu lực pháp luật của Tịa án được đưa ra.
Vì vậy trong quá trình điều tra vụ án hình sự, bị can vẫn được các cơ quan
tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đảm bảo và bảo vệ các quyền con
người, quyền công dân. Khi bị buộc tội thì bị can cũng vẫn có những quyền
được pháp luật trao cho được hưởng, được làm và được địi hỏi. Vì là trong
thời gian bị buộc tội nên bị can là những người tham gia tố tụng và chịu sự
điều chỉnh của pháp luật tố tụng trong các quan hệ pháp luật giữa họ với cơ
quan, người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng khác.
Trong tố tụng hình sự chưa có một khái niệm chính thức nào về địa vị
pháp lý của bị can. Nhưng dựa vào những điểm đã phân tích ở trên ta có thể
thấy địa vị pháp lý của bị can là tổng thể các quyền và nghĩa vụ của người đã
bị khởi tố về hình sự trong quá trình tham gia tố tụng hình sự. Các cơ quan
tiến hành tố tụng chỉ được phép tiến hành các biện pháp tố tụng nhất định đối
với bị can để xác định sự thật. Bị can được pháp luật quy định cho các quyển
tố tụng để họ có thể tự bảo vệ mình trước các cơ quan tiến hành tố tụng, bảo
vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của mình khơng bị xâm phạm.
Khái niệm bị can được quy định tại điều 60 BLTTHS 2015: “ Bị can là
người hoặc pháp nhân đã bị khởi tố về hình sự”. Việc bổ sung bị can là pháp
nhân là điểm mới của BLTTHS 2015 tương ứng với việc truy cứu trách nhiệm
hình sự của pháp nhân trong BLHS năm 2015. Việc xác định thời điểm một
người có tư cách bị can rất quan trọng bởi khi xác định một người có tư cách
bị can cũng là lúc làm phát sinh tư cách tham gia tố tụng của người đó. Đồng
thời làm căn cứ phát sinh quyền và nghĩa vụ của bị can, là căn cứ để cơ quan
tiến hành tố tụng áp dụng các biện pháp tố tụng được phép tiến hành với bị


14


can theo quy định của BLTTHS. Có hai luồng ý kiến trong việc xác định thời
điểm này. Một ý kiến cho rằng khi cơ quan có thẩm quyền khởi tố bị can thì
người bị khởi tố đã có tư cách bị can mà chưa cần có quyết định phê chuẩn
quyết định khởi tố bị can của Viện Kiểm sát. Ý kiến thứ hai cho rằng khi
VKS quyết định phê chuẩn quyết định khởi tố bị can thì người bị khởi tố mới
chính thức trở thành bị can. Theo BLTTHS 2015, bị can là người hoặc pháp
nhân đã bị khởi tố về hình sự và có các quyền và nghĩa vụ tương ứng với tư
cách tham gia tố tụng của mình. Quyền và nghĩa vụ của bị can là pháp nhân
được thực hiện thông qua người đại diện theo pháp luật của pháp nhân theo
quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Do vậy, khái niệm quyền bị
can trong điều tra vụ án hình sự có thể hiểu như sau: Quyền của bị can trong
điều tra hình sự là những điều mà pháp luật quy định cho người hoặc pháp
nhân đã bị khởi tố về hình sự được hưởng, được làm, được địi hỏi khi tham
gia q trình điều tra vụ án hình sự khi tham gia tố tụng để bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của mình.
1.2.2. Nội dung quyền của bị can trong điều tra vụ án hình sự
Thứ nhất, quyền được biết mình bị khởi tố về tội gì
Đây là quyền đầu tiên của bị can được pháp luật quy định. Quyền này thể
hiện tính chất quan trọng của việc một người bị nghi ngờ phạm tội cần phải
biết mình bị khởi tố về những tội gì. Bởi vì mục đích của việc tiến hành các
trình tự tố tụng là nhằm xác định một người có phạm tội hay khơng và nếu
phạm tội thì phải chịu hình phạt như thế nào. Do vậy người bị nghi ngờ phạm
tội cần phải biết rằng mình bị khởi tố về tội gì để họ có thể tự bào chữa để gỡ
tội cho mình. Nếu khơng biết mình bị khởi tố về tội gì thì họ khó có thể đưa
ra các chứng cứ gỡ tội cho mình cùng những lời bào chữa.
Trên thực tế, việc đảm bảo quyền được biết mình bị khởi tố về tội gì của


15


bị can vẫn chưa thực sự được đảm bảo. Có thể có nhiều lí do dẫn đến tình
trạng trên nhưng lí do chủ yếu nhất vẫn là việc Người tiến hành tố tụng (
NTHTT) vẫn chưa giải thích cụ thể cho bị can biết về quyền và nghĩa vụ của
mình cũng như việc nhận thức pháp luật của bị can chưa cao. Điều đó khiến
cho bị can nhiều khi đã nhận được quyết định khởi tố bị can nhưng vẫn chưa
thực sự nắm rõ mình bị khởi tố về tội gì. Điều này ảnh hưởng rất lớn đến việc
chuẩn bị các tài liệu, chứng cứ của bị can cũng như tự bào chữa cho mình gây
khó khăn hơn cho cơng tác điều tra, xác định sự thật của vụ án.
Theo quy định tại BLTTHS 2015 thì: “Bị can có quyền được biết mình bị
khởi tố về tội gì”. Bị can có quyền được biết mình bị khởi tố về tội gì mà
khơng phụ thuộc q nhiều vào các cơ quan tiến hành tố tụng (CQTHTT),
NTHTT. Việc thực hiện và bảo đảm tốt quyền này của bị can sẽ tạo điều kiện
cho CQTHTT, NTHTT nhanh chóng kịp thời điều tra, xác minh sự thật vụ án
góp phần giảm bớt những oan sai trong việc thụ lí và giải quyết các vụ án
hình sự.
Thứ hai, quyền được thơng báo, giải thích về quyền và nghĩa vụ
Khi biết mình bị khởi tố về tội gì thì bị can sẽ rất mong muốn biết được
mình có những quyền và nghĩa vụ gì để thực hiện nhằm gỡ tội cho mình. Và
để đảm bảo cho bị can biết được mình có những quyền và nghĩa vụ gì thì
BLTTHS 2015 đã quy định cụ thể là bị can có quyền được giải thích về quyền
và nghĩa vụ.
Việc đảm bảo quyền này của bị can có ý nghĩa rất lớn trong việc đảm bảo
quyền con người của bị can cũng như góp phần nhanh chóng kịp thời giải
quyết vụ án, xác minh sự thật vụ án. Tuy nhiên, trên thực tế, quyền được giải
thích về quyền và nghĩa vụ của bị can không phải lúc nào cũng được đảm bảo.
Để thực hiện tốt quyền này của bị can thì CQTHTT và NTHTT đều phải thực


16


hiện tốt nghĩa vụ của mình là giải thích rõ cho bị can biết mình có quyền và
nghĩa vụ gì.
Thứ ba, quyền được trình bày lời khai, trình bày ý kiến, khơng buộc
phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có
tội
Bị can có quyền trình bày lời khai về những vấn đề liên quan trong vụ án
mà họ bị khởi tố. Đây là quyền chứ không phải nghĩa vụ của bị can. Nhiều khi
bị can đã sử dụng quyền này để khai báo những tình tiết có lợi cho mình
nhằm chứng minh mình vơ tội hoặc phạm tội ở mức độ nhẹ hơn tội đã bị khởi
tố hay đưa ra những tình tiết, lí do để được giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho
mình. Cũng có trường hợp bị can từ chối khơng khai báo về hành vi của mình.
Tuy nhiên trong trường hợp mà họ từ chối khai báo hay khai báo gian dối thì
họ cũng khơng phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi đó. Ngược lại, nếu bị
can có thái độ khai báo thành khẩn thì đó lại được coi là tình tiết giảm nhẹ
trách nhiệm hình sự.
Trong trường hợp nào thì cơ quan điều tra cũng cần phải tơn trọng quyền
được trình bày lời khai của bị can. Bởi vì qua chính lời khai của bị can –
người bị cho là đã thực hiện hành vi trái pháp luật ta có thể xác định được sự
thật một cách khách quan, không phiến diện. Thực tế hiện nay cho thấy,
quyền được trình bày lời khai của bị can chưa thực sự được đảm bảo. Vẫn có
những trường hợp bị can bị ép phải khai báo hay bị mớm cung, bức cung
nhằm buộc tội bị can phải thừa nhận đã thực hiện hành vi cấu thành tội phạm
theo ý chủ quan của NTHTT.
Thứ tư, quyền được đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu
Khi bị can cung cấp cho cơ quan điều tra những tài liệu, đồ vật thì khơng
phải mọi tài liệu, đồ vật đó đều là chứng cứ trong vụ án. Khi cơ quan điều tra

17


nhận được các tài liệu, đồ vật đó thì họ phải tiến hành kiểm tra, đánh giá
khách quan để xác định các tài liệu đồ vật đó có phải là chứng cứ vụ án hay
không. Và chỉ khi các tài liệu đồ vật đó đáp ứng được các yêu cầu theo quy
định của pháp luật thì chúng mới trở thành chứng cứ trong vụ án.
Hiện nay quyền này của bị can vẫn chưa thực sự được đảm bảo. Nguyên
nhân xuất phát từ chính những người tiến hành tố tụng khi họ không thấy hết
được tầm quan trọng của việc đảm bảo thực hiện tốt quyền này. Do vậy, trong
nhiều trường hợp, người tiến hành tố tụng đã vi phạm một cách nghiêm trọng
khi không xem xét một cách khách quan những chứng cứ hay những yêu cầu
mà bị can đưa ra mà đã vội vàng bác bỏ khi thấy chúng khơng phù hợp với
hướng điều tra của mình.
Thứ năm, quyền được đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng,
người giám định, người phiên dịch
Người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch là những chủ
thể có vai trò rất quan trọng trong việc xác định sự thật vụ án. Sự thật vụ án
chỉ được xác định một cách chính xác nếu các chủ thể nêu trên thực hiện tốt
được vai trị của mình trong mỗi giai đoạn của tố tụng hình sự. Bởi vậy, việc
thay đổi NTHTT, người giám định, người phiên dịch để đảm bảo vụ án được
điều tra xét xử một cách công khai minh bạch, sự thật của vụ án được xác
định một cách khách quan, công bằng là điều rất cần thiết.
Bị can có quyền đề nghị thay đổi NTHTT, người giám định, người phiên
dịch nếu có căn cứ rõ rang để cho rằng họ không thể vô tư trong khi làm
nhiệm vụ và việc họ tiến hành tố tụng hoặc tham gia tố tụng có thể làm cho vụ
án được giải quyết theo hướng khơng có lợi cho bị can. Khi các CQTHTT
nhận được yêu cầu thay đổi NTHTT, người giám định, người phiên dịch của
bị can thì cần phải xem xét, giải quyết yêu cầu đó nếu thấy yêu cầu là có căn


18


cứ theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự.
Thứ sáu, quyền được tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa
Đây là một quyền quan trọng của bị can trong tố tụng hình sự. Bị can có
quyền tự bào chữa. Theo đó thì bị can có quyền dùng những lí lẽ và chứng cứ
để gỡ tội và để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình trong quá trình
tham gia tố tụng. Quyền tự bào chữa không phải là một quyền độc lập, tách
rời với các quyền khác của bị can mà quyền bào chữa chính là sự tổng hòa các
quyền của bị can trong tố tụng hình sự để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của mình. Bởi vì khi tham gia vào quá trình tố tụng, ngồi việc bị can đưa ra
những lí lẽ, chứng cứ để gỡ tội cho mình thì bị can cịn thực hiện quyền tự
bào chữa của mình thơng qua việc thực hiện các quyền như quyền trình bày
lời khai, quyền đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu… Việc thực hiện các quyền
này của bị can không chỉ nhằm gỡ tội cho bị can mà còn bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp khác của bị can. Thơng qua quyền tự bào chữa của bị can thì
Nhà nước đã cho phép bị can tự vệ, chống lại sự buộc tội của cơ quan tiến
hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.
Ngồi quyền tự bào chữa, bị can cịn có quyền nhờ người khác bào chữa
cho mình. Quyền này thể hiện sự đảm bảo của pháp luật cho quyền bào chữa
của bị can. Pháp luật đảm bảo cho bị can được người khác bào chữa cho mình
nếu khơng thể tự mình bào chữa. Người được bị can bào chữa phải là người
có đủ tiêu chuẩn theo quy định của pháp luật.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 305 BLTTHS thì trong trường hợp bị can
là người chưa thành niên hoặc có nhược điểm về thể chất, tâm thần thì người
đại diện hợp pháp của bị can đó có thể lựa chọn người bào chữa hoặc tự mình
bào chữa cho bị can. Khoản 2 điều 305 BLTTHS quy định trong trường hợp
bị can là người chưa thành niên hoặc người đại diện hợp pháp của họ không


19


×