Tải bản đầy đủ (.pdf) (99 trang)

Áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng từ thực tiễn quận đồ sơn, thành phố hải phòng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.32 MB, 99 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
....……/…………

BỘ NỘI VỤ
……/……

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

PHẠM QUANG CÔNG

ÁP DỤNG BIỆN PHÁP XỬ LÝ HÀNH CHÍNH
ĐƢA VÀO TRƢỜNG GIÁO DƢỠNG - TỪ THỰC TIỄN
QUẬN ĐỒ SƠN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH

HÀ NỘI - NĂM 2019


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
....……/…………

BỘ NỘI VỤ
……/……

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

PHẠM QUANG CÔNG

ÁP DỤNG BIỆN PHÁP XỬ LÝ HÀNH CHÍNH
ĐƢA VÀO TRƢỜNG GIÁO DƢỠNG - TỪ THỰC TIỄN


QUẬN ĐỒ SƠN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH
Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
Mã số: 8 38 01 02

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. NGUYỄN HOÀNG ANH

HÀ NỘI - NĂM 2019


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên
cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và
trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính
xác và trung thực. Những kết luận khoa học của
luận văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ
công trình nào khác.

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Phạm Quang Công


LỜI CẢM ƠN
Xin chân thành cảm ơn tất cả các thầy, cô giáo, các ban, khoa chuyên
môn thuộc Học viện Hành chính Quốc gia, trong suốt thời gian qua đã trang
bị kiến thức cơ bản cũng như kiến thức chuyên ngành có giá trị lý luận và
thực tiễn to lớn để em có cơ sở nghiên cứu và hoàn thành luận văn tốt nghiệp
thạc sỹ chuyên ngành Luật Hiến pháp và Luật Hành chính.

Đặc biệt, xin chân thành cảm ơn PGS.TS: Nguyễn Hoàng Anh - người
đã trực tiếp hướng dẫn khoa học cho em với sự nhiệt huyết và tinh thần trách
nhiệm cũng như tạo động lực giúp em thực hiện Luận văn này.
Xin chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè đã giúp đỡ em trong quá trình
thực hiện luận văn này.
Hà Nội, ngày 15 tháng 7 năm 2019
Tác giả luận văn

Phạm Quang Công


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN

LỜI CẢM ƠN
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
Chƣơng 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ ÁP DỤNG BIỆN PHÁP XỬ LÝ
HÀNH CHÍNH ĐƢA VÀO TRƢỜNG GIÁO DƢỠNG ....................................... 9
1.1. Khái quát chung về biện pháp xử lý hành chính đƣa vào trƣờng giáo
dƣỡng .......................................................................................................................... 9
1.1.1. Khái niệm về biện pháp xử lý hành chính ...................................................... 9
1.1.2. Khái niệm, đặc điểm của biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo
dưỡng ........................................................................................................................ 15
1.2. Khái quát chung về áp dụng biện pháp xử lý hành chính đƣa vào trƣờng
giáo dƣỡng ................................................................................................................ 22
1.2.1. Khái niệm đặc điểm của áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào
trường giáo dưỡng ................................................................................................... 22
1.2.2. Cơ sở và ý nghĩa của áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường
giáo dưỡng ................................................................................................................ 26

1.2.3. Những yếu tố ảnh hưởng đến việc bảo đảm đối với áp dụng biện pháp xử lý
hành chính đưa vào trường giáo dưỡng ................................................................. 29
Tiểu kết chƣơng 1 .................................................................................................... 33
Chƣơng 2. THỰC TRẠNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN
ÁP DỤNG BIỆN PHÁP ĐƢA VÀO TRƢỜNG GIÁO DƢỠNG TRÊN ĐỊA
BÀN QUẬN ĐỒ SƠN THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG ............................................ 34
2.1. Thực trạng quy định của pháp luật về biện pháp xử lý hành chính đƣa vào
trƣờng giáo dƣỡng ................................................................................................... 34
2.1.1. Đối tượng áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng34
2.1.2. Quy định về thẩm quyền áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng .. 38
2.1.3. Quy định về thủ tục áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng.......... 40


2.1.4. Quy định về thi hành quyết định áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo
dưỡng ........................................................................................................................ 46
2.2. Thực tiễn áp dụng biện pháp xử lý hành chính đƣa vào trƣờng giáo dƣỡng
tại quận Đồ Sơn thành phố Hải Phòng ................................................................. 50
2.2.1. Điều kiện tự nhiên và kinh tế xã hội quận Đồ Sơn thành phố Hải Phòng50
2.2.2. Tình hình vi phạm pháp luật và kết quả áp dụng biện pháp đưa vào trường
giáo dưỡng tại quận Đồ Sơn thành phố Hải Phòng .............................................. 52
2.2.3. Những hạn chế, tồn tại trong hoạt động áp dụng biện pháp xử lý hành
chính đưa vào trường giáo dưỡng và nguyên nhân ............................................... 64
Tiểu kết chƣơng 2 .................................................................................................... 72
Chƣơng 3. PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢMÁP DỤNG BIỆN
PHÁP XỬ LÝ HÀNH CHÍNH ĐƢA VÀO TRƢỜNG GIÁO DƢỠNG TỪ
THỰC TIỄN QUẬN ĐỒ SƠN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG ............................ 73
3.1. Phƣơng hƣớng bảo đảm áp dụng biện pháp xử lý hành chính đƣa vào
trƣờng giáo dƣỡng ................................................................................................... 73
3.2. Các giải pháp bảo đảm áp dụng biện pháp xử lý hành chính đƣa vào
trƣờng giáo dƣỡng ................................................................................................... 75

3.2.1. Các giải pháp hoàn thiện pháp luật .............................................................. 75
3.2.2. Các giải pháp về tổ chức và thực hiện .......................................................... 78
Tiểu kết chƣơng 3 .................................................................................................... 85
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 86
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................... 88


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

QLNN : Quản lý nhà nước
QLHC : Quản lý hành chính
TAND : Tòa án nhân dân
UBND : Uỷ ban nhân dân
VPHC : Vi phạm hành chính
VPPL : Vi phạm pháp luật
XLVPHC : Xử lý vi phạm hành chính


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của luận văn
Xử lý vi phạm hành chính (VPHC) là công cụ quan trọng trong hoạt động
quản lý nhà nước (QLNN) nhằm duy trì trật tự, kỷ cương trong quản lý hành
chính (QLHC) của Nhà nước. Đây cũng là vấn đề trực tiếp liên quan đến cuộc
sống hàng ngày của Nhân dân, tổ chức, hoạt động sản xuất, kinh doanh của
doanh nghiệp được Đảng, Nhà nước và toàn xã hội đặc biệt quan tâm. Đất nước
ta đang trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và xây dựng Nhà
nước pháp quyền của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân, do vậy, đòi hỏi
mỗi chúng ta trong bất cứ hoạt động nào của đời sống xã hội, bất cứ lĩnh vực nào
đều phải có sự quản lý của nhà nước, có sự điều chỉnh của pháp luật và việc
thượng tôn pháp luật phải là ưu tiên hàng đầu trong mọi hoạt động. Bên cạnh

những điển hình tiên tiến trong việc chấp hành pháp luật, chúng ta vẫn thấy
những hành vi cố ý hoặc vô ý vi phạm pháp luật (VPPL) của các tổ chức, cá
nhân, trong đó có pháp luật hành chính. Đấu tranh phòng, chống các VPPL nói
chung và VPPL hành chính nói riêng luôn là nhiệm vụ trọng yếu của các cơ
quan QLNN về VPHC ở nước ta.
Trong những năm qua đất nước đang trong giai đoạn mở cửa hội nhập
cùng với thế giới trong nhiều lĩnh vực khác nhau như: kinh tế, chính trị, văn
hóa, xã hội,...Việt Nam trở thành thành viên của ASEAN, gia nhập tổ chức
WTO, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân phát triển sản xuất, nâng cao đời
sống chất lượng cho người dân, xã hội cũng được cải thiện đáng kể, phát triển
khoa học kỹ thuật, đặc biệt là sự phát triển mạnh mẽ và nhanh chóng của công
nghệ thông tin tạo điều kiện thuận lợi hơn cho người dân tiếp cận, học tập,
giao lưu văn hóa,...đời sống người dân được nâng lên tạo cơ hội cho cho mọi
người làm giàu nên đa số các gia đình lo làm ăn kinh tế thiếu trách nhiệm

1


trong sự giáo dục con em cứ nghĩ cung cấp đầy đủ vật chất là tạo điều kiện tốt
nhất cho các em, thiếu sự quan tâm chăm sóc, đặc biệt là tâm lý các em hoặc
các em sống gia đình điều kiện kinh tế gặp khó khăn. Tuy nhiên, bên cạnh
những ảnh hưởng tích cực thì các thông tin văn hóa mang tính chất bạo lực,...
cũng tiếp cận đến người dân ở khu vực đô thị, vùng đồng bằng đặc biệt là
người chưa thành niên, dẫn đến xuất hiện nhiều thói hư tật xấu tình hình trật
tự trở nên phức tạp hơn, các tệ nạn xã hội như: đánh nhau, gây rối trật tự công
cộng, đánh bạc, trộm cắp tài sản các hành vi VPPL và tội phạm ngày càng
gia tăng rất nhanh. Pháp luật xử lý VPHC được ban hành nhằm điều chỉnh các
hành vi vi phạm của cá nhân, cơ quan, tổ chức nhưng hành vi vi phạm đó
chưa đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự, đồng thời ngăn chặn tội
phạm mới có thể xảy ra.

Một trong những biện pháp xử lý trách nhiệm đối với người chưa thành
niên vi phạm. Đó là biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, đây là một trong
những biện pháp xử lý hành chính. Theo đó đối tượng chịu áp dụng biện pháp
này là cá nhân thực hiện hành vi gây rối trật tự công cộng, an toàn xã hội
nhưng tính chất, mức độ chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự. Đối
tượng áp dụng biện pháp này phải chịu lao động, sinh hoạt, học văn hóa, học
nghề, dưới sự quản lý, giáo dục chung của cơ quan chức năng trong thời gian
nhất định nhằm cảm hóa các đối tượng trở thành những công dân tốt có ích
cho xã hội sau khi chấp hành hết thời gian trở về hòa nhập với cộng đồng.
Mục tiêu áp dụng biện pháp xử lý VPHC nói chung và biện pháp đưa vào
trường giáo dưỡng nói riêng là hình thức cưỡng chế áp dụng đối với người có
hành vi VPPL. Do tính chất nghiêm khắc của biện pháp này liên quan đến
việc hạn chế quyền tự do, dân chủ của công dân nên cấp Ủy, Chính quyền các
cấp đều quan tâm chỉ đạo sát sao, có nhiều biện pháp tích cực trong việc lãnh
đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện.

2


Quận Đồ Sơn thành phố Hải Phòng là một trong những quận nội thành,
với dân số tương đối lớn, là khu du lịch biển, hàng năm vào mùa lễ hội lượng
khách du lịch đổ về địa phương rất lớn. Điều này dẫn đến tình trạng an ninh
chính trị, trật tự an toàn xã hội của quận Đồ Sơn có nhiều diễn biến phức tạp.
Trong những năm vừa qua, các cơ quan QLNN của quận Đồ Sơn đã đẩy
mạnh công tác QLNN về an ninh trật tự, tăng cường xử lý các hành vi VPPL
trong đó có hành vi VPHC, đặc biệt là đối với nhóm đối tượng là người chưa
thành niên. Hàng năm, các cơ quan trên địa bàn đã ra quyết định đưa hàng
chục trường hợp người chưa thành niên có hành vi VPPL đi học tập, cải tạo
tại các cơ sở giáo dục bắt buộc, trường giáo dưỡng. Tuy nhiên, so với tình
hình VPPL thì vấn đề này vẫn chưa được giải quyết một cách triệt để, còn

nhiều tồn tại hạn chế nhất định.
Từ những phân tích trên, học viên quyết định chọn đề tài “Áp dụng biện
pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng – từ thực tiễn quận Đồ Sơn
thành phố Hải Phòng” làm đề tài tốt nghiệp cao học luật của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Nghiên cứu về các biện pháp xử lý hành chính cũng như biện pháp xử
lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng ở Việt Nam hiện nay đã có nhiều
nhà nghiên cứu, tác giả đề cập đến.
Pháp luật Việt Nam về các biện pháp xử lý hành chính là một nội dung
của pháp luật về xử lý VPHC, khi nghiên cứu cần đặt nó trong tổng thể các
quy định pháp luật về xử lý VPHC. Liên quan đến lĩnh vực này có thể kể đến
một số tác giả cùng với các công trình khoa học của họ như sau: Luận án phó
tiến sĩ Luật học của tác giả Vũ Thư: "Chế tài hành chính- Lý luận và thực
tiễn" [44], bàn về những vấn đề lý luận và thực tiễn của chế tài hành chính nói
chung; Luận văn thạc sĩ của tác giả Nguyễn Trọng Bình (2002): "Hoàn thiện
quy định pháp luật về các hình thức xử phạt VPHC" [3], đi vào nghiên cứu

3


những quy định pháp luật về riêng nhóm các biện pháp xử phạt VPHC; Luận
văn thạc sĩ luật học của Nguyễn Ngọc Bích (2003): "Hoàn thiện pháp luật về xử
lý hành chính với người chưa thành niên"[2], cũng đã đề cập phần nào đến một
số nội dung về các biện pháp xử lý hành chính như biện pháp giáo dục tại xã,
phường, thị trấn; đưa vào trường giáo dưỡng, đưa vào cơ sở chữa bệnh nhưng
chủ yếu đề tài bàn về khía cạnh xử lý đối với người chưa thành niên và bảo vệ
quyền và lợi ích của người chưa thành niên.
Luận văn thạc sĩ luật học của Nguyễn Đình Thảo: "Trách nhiệm hành
chính trong lĩnh vực an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội" [43] tại Khoa
Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội năm 2012, chủ yếu nói về xử phạt VPHC

trong lĩnh vực cụ thể; Luận văn thạc sĩ luật học của Nguyễn Thị Thủy: "Thẩm
quyền xử lý VPHC"[45], tại Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội năm 2009
nhấn mạnh đến vấn đề thẩm quyền xử lý VPHC... những đề tài trên nghiên cứu
ở nhiều khía cạnh khác nhau, nhưng chỉ mới dừng lại ở đề cập khái quát hoặc
gợi mở vấn đề về các biện pháp xử lý hành chính, chưa nghiên cứu chuyên sâu,
cụ thể, toàn diện về nhóm các biện pháp này.
Trực tiếp đề cập nội dung các biện pháp xử lý hành chính, có thể kể đến
một số bài viết, chuyên đề và công trình nghiên cứu của một số tác giả. Đầu tiên
phải kể đến đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ của Bộ Tư pháp (2009) "Các
biện pháp xử lý hành chính khác và việc bảo đảm quyền con người"[41] do tác
giả Đặng Thanh Sơn làm chủ nhiệm đề tài cùng nhóm nghiên cứu. Đây là công
trình có tính quy mô và khá chi tiết về các biện pháp pháp xử lý hành chính
khác, nhưng chủ yếu nhìn nhận, phân tích quy định pháp luật và thực tiễn áp
dụng dưới góc độ đối chiếu pháp luật quốc tế và bảo đảm quyền con người.
Ngoài ra có một số bài viết trên các tạp chí chuyên ngành như: "Về các biện
pháp xử lý hành chính: Thực tiễn và giải pháp" [34], của tác giả Hoàng Thị Kim
Quế, đăng trên Tạp chí Khoa học, Đại học Quốc gia Hà Nội số 24/2008; "Hoàn

4


thiện các biện pháp xử lý hành chính khác theo Pháp luật Việt Nam" [42], của
tác giả Lê Ngọc Thạch, đăng trên Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số 1/2006;
"Những vấn đề đổi mới pháp luật về VPHC ở nước ta" [57], của Nguyễn Cửu
Việt, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 1/2009); "Quyền công dân, quyền con
người và chỗ đứng của các biện pháp xử lý hành chính trong pháp luật về
VPHC" [31], của Trần Thanh Hương, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số 11/2005.
Trong thời gian gần đây kể từ sau khi ban hành Luật xử lý vi phạm hành
chinh năm 2012 các công trình nghiên cứu về các biện pháp xử lý hành chính
nói chung trong đó có biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng cũng đã được

nhiều nhà nghiên cứu quan tâm tìm hiểu, có thể kể đến như: Biện pháp giáo
dục tại xã, phường, thị trấn và biện pháp tư pháp giáo dục tại trường giáo
dưỡng áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội theo quy định của Bộ luật
Hình sự năm 2015 của Phùng Văn Hoàng, Tạp chí Tòa án nhân dân (TAND)
số 3/2019 [29]; Bài viết: Hoàn thiện quy định pháp luật về biện pháp đưa vào
trường giáo dưỡng nhằm bảo vệ quyền của người chưa thành niên[33] của Cao
Vũ Minh Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 20/2015; Cuốn sách: Hỏi - đáp các
quy định của pháp luật về trại viên cơ sở giáo dục bắt buộc, học sinh trường
giáo dưỡng[23] do Đào Thùy Dương chủ biên, NXB. Tư pháp năm 2015….
Như vậy, hiện nay chưa có công trình nghiên cứu nào đề cập trực tiếp
đến việc nghiên cứu về biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo
dưỡng ở Việt Nam, đặc biệt là nghiên cứu ở khía cạnh thực tiễn tại một địa
bàn cụ thể là quận Đồ Sơn thành phố Hải Phòng. Chình vì vậy việc nghiên
cứu đề tài của tác giả có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu những quy định của pháp luật hiện hành về xử lý
VPHC đối với người chưa thành niên VPPL nói chung và biện pháp xử lý

5


hành chính đưa vào trường giáo dưỡng nói riêng. Trên cơ sở đó luận văn phân
tích những ưu điểm và hạn chế của của quy định pháp luật về biện pháp xử lý
hành chính đưa vào trường giáo dưỡng, thông qua nghiên cứu thực tiễn áp
dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng tại quận Đồ Sơn thành phố Hải
Phòng. Luận văn đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng
biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng nói chung và ở Đồ Sơn nói riêng.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để hoàn thành mục đích nghiên cứu trên, đề tài có những nhiệm vụ

nghiên cứu sau đây:
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận về các biện pháp xử lý hành
chính nói chung và biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng
nói riêng;
- Nghiên cứu những quy định của pháp luật về biện pháp xử lý hành
chính đưa vào trường giáo dưỡng từ đó đánh giá được ưu và nhược điểm của
những quy định này;
- Nghiên cứu thực tiễn áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng
tại quận Đồ Sơn thành phố Hải Phòng để từ đó đánh giá những kết quả đạt
được và những tồn tại, hạn chế trong quá trình áp dụng.
- Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp đưa
vào trường giáo dưỡng ở Việt Nam trong giai đoạn tới.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về biện pháp xử
lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng và thực tiễn áp dụng tại quận Đồ
Sơn thành phố Hải Phòng.

6


4.2. Phạm vi nghiên cứu
Về phương diện pháp luật: Luận văn tập trung vào các văn bản pháp
luật xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng hiện hành như: Luật xử lý
VPHC 2012; Nghị định 02/2014/NĐCP (ngày 10/01/2014); Nghị định
81/2013/NĐ-CP (ngày 19/7/2013); Pháp lệnh 09/ UBTVQH (hiệu lực ngày
01/7/2014);
Về phương diện không gian: Luận văn nghiên cứu thực tiễn áp dụng
biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng trên địa bàn quận Đồ Sơn thành phố
Hải Phòng

Về phương diện thời gian: Luận văn nghiên cứu thực tiễn áp dụng biện
pháp đưa vào trường giáo dưỡng từ năm 2014 – đến năm 2018.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác - Lê nin, vận dụng tổng hợp các phương pháp duy vật biện chứng, duy
vật lịch sử để thấy sự hình thành, phát triển của pháp luật về các biện pháp xử
lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận nghiên cứu như trên. Luận văn sử dụng
các phương pháp nghiên cứu cụ thể như phân tích, tổng hợp, so sánh đối
chiếu, suy luận lôgic được sử dụng nhằm lý giải các vấn đề lý luận, giúp cho
mỗi vấn đề được nhìn nhận từ nhiều góc độ, thấy được những điểm hợp lý và
chưa hợp lý của các quan điểm, quan niệm đưa ra trong luận văn, từ đó đưa ra
được kết luận có tính khoa học và nổi bật về vấn đề.
Phương pháp thống kê, phương pháp tổng kết thực tiễn cũng được sử
dụng có hiệu quả để từ những số liệu, tình hình thực tế cụ thể thống kê được có
thể phân tích, tổng kết thấy được bức tranh toàn diện về thực trạng pháp luật và

7


thực tiễn áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng, đó là
cơ sở chính xác nhất cho việc đề xuất các giải pháp hợp lý, khả thi.
6. Những đóng góp mới của đề tài
Luận văn là một đề tài nghiên cứu trực tiếp và tương đối toàn diện về
biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng trong hệ thống pháp
luật Việt Nam.
Luận văn xác định được những yếu tố cơ bản tác động đến quy định
pháp luật về biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng, đồng

thời cũng đưa ra được những yêu cầu cụ thể trong việc xây dựng pháp luật và
áp dụng pháp luật về biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng.
Luận văn đưa ra bức tranh toàn cảnh dưới nhiều góc nhìn khác nhau
về thực trạng quy định pháp luật và thực tiễn áp dụng biện pháp xử lý hành
chính đưa vào trường giáo dưỡng, chỉ ra những điểm chưa hợp lí trong quy
định pháp luật, những khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn áp dụng biện
pháp. Từ đó, tác giả đã xác định được một số giải pháp cụ thể nhằm hoàn
thiện hệ thống pháp luật quy định về biện pháp xử lý hành chính đưa vào
trường giáo dưỡng nhằm đáp ứng yêu cầu của quá trình xây dựng Nhà nước
pháp quyền XHCN.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm ba chương.
Chương 1:Những vấn đề chung về áp dụng biện pháp xử lý hành chính
đưa vào trường giáo dưỡng
Chương 2:Thực trạng quy định của pháp luật và thực tiễn áp dụng biện
pháp đưa vào trường giáo dưỡng trên địa bàn quận Đồ Sơn thành phố Hải
PhòngChương 3: Phương hướng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp
dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng.

8


Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ ÁP DỤNG BIỆN PHÁP XỬ LÝ
HÀNH CHÍNH ĐƢA VÀO TRƢỜNG GIÁO DƢỠNG
1.1. Khái quát chung về biện pháp xử lý hành chính đƣa vào
trƣờng giáo dƣỡng
1.1.1. Khái niệm về biện pháp xử lý hành chính
Xã hội chỉ có thể tồn tại và phát triển vững mạnh khi có sự ổn định về

trật tự an toàn xã hội. Trật tự đó được quy định bởi hệ thống chế tài, các biện
pháp cưỡng chế của Nhà nước để điều chỉnh các quan hệ xã hội, các hành vi
vi phạm hết sức đa dạng, phức tạp. Bên cạnh các biện pháp cưỡng chế hình
sự, dân sự và kỉ luật, các biện pháp cưỡng chế hành chính có vai trò quan
trọng trong việc đấu tranh, phòng ngừa VPPL, duy trì ổn định xã hội, đảm bảo
an ninh trật tự, tăng cường hiệu quả quản lý nhà nước. Cưỡng chế hành chính
gồm nhiều nhóm biện pháp cưỡng chế khác nhau. Dựa vào cơ sở áp dụng,
cưỡng chế hành chính có thể chia thành hai nhóm lớn, gồm: nhóm biện pháp
cưỡng chế hành chính được áp dụng khi có VPHC xảy ra và nhóm biện pháp
cưỡng chế hành chính được áp dụng trong trường hợp không có VPHC nhằm
mục đích ngăn chặn, phòng ngừa VPHC hoặc vì mục đích an ninh quốc gia;
bảo vệ cộng đồng, phòng tránh thiên tai... Các hình thức xử lý hành chính
thuộc nhóm biện pháp cưỡng chế hành chính áp dụng trên cơ sở có VPHC.
Theo quy định của pháp luật hiện hành, khái niệm "xử phạt VPHC" cùng
với các biện pháp xử lý hành chính khác được gọi chung là "xử lý VPHC".
Điều 1 Luật Xử lý VPHC năm 2012 quy định: "Xử lý VPHC bao gồm xử phạt
VPHC và các biện pháp xử lý hành chính" [37]. Pháp lệnh Xử lý VPHC năm
1995 và năm 2002 đều không đưa ra định nghĩa mang tính khoa học về xử phạt

9


hành chính và các biện pháp xử lý hành chính khác mà chỉ quy định trực tiếp
những hình thức, biện pháp thuộc nội hàm của các chế định này.
Lâu nay chúng ta vẫn hay quan niệm "Xử lý VPHC bao gồm xử phạt
VPHC và các biện pháp xử lý hành chính" [35, tr.24]. Quan niệm này được
hình thành xuất phát từ quy định của pháp luật hiện hành. Có lẽ nên hiểu, xử
lý hành chính là một quá trình trong đó bao gồm nhiều hoạt động cụ thể của
các cơ quan, cá nhân có thẩm quyền nhằm xem xét và giải quyết một vụ việc
trái pháp luật theo quy định của pháp luật hành chính. Hoạt động xử lý VPHC

không đơn thuần chỉ là việc áp dụng hai nhóm biện pháp trên mà có thể áp
dụng nhiều biện pháp cưỡng chế khác nhau như các biện pháp khắc phục hậu
quả; các biện pháp ngăn chặn và bảo đảm việc xử lý VPHC; các biện pháp
cưỡng chế quyết định xử phạt VPHC để quá trình giải quyết công việc đạt
hiệu quả [34, tr. 122]. Như vậy, biện pháp xử lý hành chính chính là nhóm các
biện pháp được các cơ quan, cá nhân có thẩm quyền áp dụng trong quá trình
xử lý hành chính đối với cá nhân, tổ chức có hành vi trái pháp luật trong quản
lý nhà nước theo trình tự, thủ tục pháp luật quy định. Trong đó, biện pháp xử
phạt VPHC và các biện pháp xử lý hành chính được xem là những biện pháp
cưỡng chế chính, trung tâm.
Xét về phương diện lí luận:
Cưỡng chế hành chính là tổng hợp các biện pháp do luật hành chính
quy định mà Nhà nước áp dụng để tác động một cách trực tiếp hoặc gián tiếp
lên tâm lý, tư tưởng và hành vi của cá nhân hoặc tổ chức, buộc các chủ thể đó
phải thực hiện các nghĩa vụ pháp lý nhằm mục đích phòng ngừa, ngăn chặn
hoặc xử lý những hành vi trái pháp luật, đảm bảo trật tự và kỉ luật trong quản
lý nhà nước [55, tr. 474].
Tính cưỡng chế của các biện pháp xử lý hành chính được thể hiện ở
chỗ cơ quan, người có thẩm quyền sẽ áp dụng những biện pháp có tính chất

10


nghiêm khắc, buộc người vi phạm phải gánh chịu những hậu quả bất lợi hạn
chế quyền tự do cá nhân trong một thời gian nhất định hoặc lên án, giáo dục
về mặt tinh thần, nhân cách. Khi bị áp dụng các biện pháp xử lý hành chính,
cá nhân đó sẽ buộc phải học tập, lao động, chữa bệnh… dưới sự giám sát của
cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong một thời hạn nhất định hoặc bị tước
bỏ một phần nhất định quyền sở hữu tài sản của người VPHC (trong trường
hợp bị phạt hành chính). Việc áp dụng các biện pháp xử lý hành chính do các

chủ thể có thẩm quyền áp dụng. Các chủ thể có thẩm quyền ở đây phải được
trao quyền lực nhà nước, nhân danh Nhà nước để thực hiện việc tổ chức và áp
dụng các biện pháp xử lý hành chính đối với người VPHC. Quyết định áp
dụng các biện pháp xử lý hành chính được ban hành đơn phương, nhưng có
tính bắt buộc thi hành đối với người bị áp dụng và được Nhà nước bảo đảm
thi hành. Với tư cách là một biện pháp cưỡng chế hành chính, biện pháp xử lý
hành chính được phân biệt với các biện pháp cưỡng chế pháp lý khác chủ yếu
ở các phương diện nội dung cưỡng chế, mục đích cưỡng chế, chủ thể bị
cưỡng chế, thủ tục và thẩm quyền áp dụng.
Các biện pháp xử lý hành chính của Luật xử lý VPHC năm 2012 được
kế thừa từ quy định các biện pháp xử lý hành chính khác được quy định trong
Pháp lệnh xử lý VPHC năm 2002. Trong đó Pháp lệnh xử lý VPHC năm 2002
quy định 5 biện pháp gồm: giáo dục tại xã, phường, thị trấn; đưa vào trường
giáo dưỡng; đưa vào cơ sở giáo dục; đưa vào cơ sở chữa bệnh; quản chế hành
chính. Thực chất các biện pháp này có nguồn gốc ban đầu là biện pháp cưỡng
chế hành chính đặc biệt, xuất phát từ Nghị quyết 49 năm 1961 của Ủy ban
Thường vụ Quốc hội. Nghị quyết này quy định việc đưa vào các trung tâm
giáo dục cải tạo đối với người có hành động nguy hại cho xã hội, được giáo
dục nhiều lần, nhưng không hối cải, Chủ tịch tỉnh ra quyết định và Bộ trưởng
Công an duyệt với thời hạn 3 năm mà không cần thông qua việc xét xử của cơ

11


quan tư pháp - Tòa án. Những biện pháp này giành cho những người chống
đối chế độ biểu hiện qua những hành vi như: gián điệp, mật thám, ngụy quân,
ngụy quyền, cốt cán đảng phái phản động… Biện pháp tập trung giáo dục cải
tạo, ngoài những đối tượng nói trên, cũng được áp dụng cho những người có
những hành tội phạm như lưu manh, trộm cắp, lừa đảo.
Theo Điều 1 Pháp lệnh Xử lý VPHC năm 2002 quy định: "Các biện

pháp xử lý hành chính khác được áp dụng đối với cá nhân có hành vi VPPL
về an ninh, trật tự, an toàn xã hội nhưng chưa đến mức truy cứu trách nhiệm
hình sự được quy định tại các điều 23, 24, 25, 26 của Pháp lệnh này" [50].
Luật xử lý VPHC vẫn giữ nguyên quan điểm về nhóm này nhưng chỉ lược bớt
từ “khác” trong nội dung của khái niệm để đảm bảo tính thống nhất về thuật
ngữ. Đồng thời Luật xử lý VPHC năm 2012 đã quy định lại một số biện pháp
xử lý hành chính trong đó đã bỏ biện pháp quản chế hành chính và thay đổi
đối tượng, tên gọi của 2 biện pháp là đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc và cơ
sở giáo dục bắt buộc, các biện pháp này gồm: giáo dục tại xã, phường, thị
trấn; đưa vào trường giáo dưỡng; đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc; và đưa vào
cơ sở cai nghiện bắt buộc. Như vậy, biện pháp xử lý hành chính đưa vào vào
trường giáo dưỡng vẫn được giữ nguyên như trước kia.
Các biện pháp xử lý hành chính được xem là biện pháp cưỡng chế hành
chính đặc biệt, sở dĩ được xem là đặc biệt vì nó khác các biện pháp cưỡng chế
hành chính thông thường khác như đã phân tích trên và nó mang những đặc
trưng về mức độ nghiêm khắc cao hơn so với các biện pháp cưỡng chế hành
chính thông thường. Về thực chất biện pháp xử lý hành chính hạn chế quyền
tự do cá nhân trong một giai đoạn nhất định với hình thức như đưa vào trường
giáo dưỡng, đưa vào cơ sở giáo dục, đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc,
không thua kém các biện pháp tư pháp hình sự về tính chất khắc nghiệt, trừng
phạt; hoặc biện pháp có tính chất tác động xã hội cao như giáo dục tại xã,

12


phường, thị trấn. Nhóm biện pháp này có đặc trưng là thời gian cưỡng chế dài
từ ba tháng đến hai năm, người bị áp dụng phải chịu sự giám sát và quản lý
chặt chẽ của các cơ quan hành chính nhà nước, tổ chức xã hội, các đoàn
thể…Đối tượng bị áp dụng các biện pháp này cũng đa dạng và đặc biệt hơn.
Các biện pháp xử lý hành chính có các đặc điểm chung của biện pháp

cưỡng chế hành chính Nhà nước: Tính pháp lý: Các biện pháp xử lý hành
chính cũng như các biện pháp cưỡng chế hành chính được pháp luật hành
chính quy định cụ thể về loại biện pháp, thẩm quyền, trường hợp, đối tượng,
thủ tục và phạm vi áp dụng. Các biện pháp xử lý hành chính do các cơ quan
quản lý nhà nước có thẩm quyền theo quy định của pháp luật áp dụng. Các
biện pháp xử lý hành chính áp dụng trong cả trường hợp có VPHC hoặc chưa
đủ dấu hiệu cấu thành VPHC nhưng vì mục đích ngăn chặn, phòng ngừa, giáo
dục. Các biện pháp xử lý hành chính được áp dụng theo thủ tục hành chính
chặt chẽ, công khai, minh bạch do các quy phạm thủ tục hành chính quy định.
Các biện pháp xử lý hành chính có các đặc điểm riêng:
Thứ nhất: Đối tượng bị áp dụng các biện pháp xử lý hành chính là cá
nhân - công dân Việt Nam có hành vi VPPL về an ninh trật tự, an toàn xã hội
trên lãnh thổ Việt Nam nhưng chưa đến mức phải xử lý hình sự, nhằm giáo
dục ý thức chấp hành pháp luật, ngăn ngừa nguy cơ tái phạm và tạo điều kiện
cho họ trở thành công dân có ích. Các biện pháp xử lý hành chính hạn chế
quyền nhân thân của cá nhân, vì vậy không thể áp dụng với tổ chức VPPL.
Thứ hai: Các biện pháp xử lý hành chính do chủ tịch Uỷ ban nhân dân
(UBND) các cấp có thẩm quyền quyết định và Tòa án áp dụng khi đối tượng
có đủ điều kiện nhất định. Theo quy định của Pháp lệnh xử lý VPHC năm
2002 thì biện pháp này đều do Chủ tịch UBND áp dụng. Tuy nhiên, Luật xử
lý vi phạm hành chính (XLVPHC) năm 2012 đã thay đổi theo hướng, quy
định các biện pháp như đưa vào trường giáo dưỡng, đưa vào cơ sở giáo dục

13


bắt buộc, đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc đều phải do Tòa án áp dụng đối
với các đối tượng có đủ điều kiện. Điều này để đảm bảo tốt hơn quyền con
người của đối tượng bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính. Trong quá trình
hạn chế các quyền của con người khi áp dụng biện pháp xử lý hành chính Tòa

án sẽ đảm bảo tốt hơn quyền của họ như sẽ tiến hành phiên họp công khai,
người bị áp dụng có thể đưa ra ý kiến bảo vệ quyền và lợi ích của mình khi bị
áp dụng biện pháp đó, họ có quyền kháng cáo…. Điều này thay đổi về quy
trình và nội dung áp dụng biện pháp xử lý hành chính.
Thứ ba: Các biện pháp xử lý hành chính được áp dụng theo một thủ tục
đặc thù, có sự kết hợp giữa thủ tục hành chính và thủ tục tư pháp. Đây là quan
điểm khác biệt lớn nhất về trình tự thủ tục áp dụng biện pháp xủ lý hành chính
của Luật XLVPHC năm 2012 so với Pháp lệnh năm 2002. Theo Pháp lệnh
năm 2002 thì thủ tục áp dụng biện pháp xử lý hành chính được tiến hành theo
thủ tục hành chính. Tuy nhiên, trong quá trình áp dụng biện pháp xử lý hành
chính theo Luật XLVPHC năm 2012 thì trình tự thủ tục mang tính pha trộn
giữa thủ tục hành chính và thủ tục tư pháp. Bởi lẽ, việc chuẩn bị hồ sơ, để đề
nghị áp dụng biện pháp xử lý hành chính sẽ có các cơ quan hành chính ở địa
phương tiến hành và thực hiện thủ tục đề nghị Tòa án có thẩm quyền quyết
định có áp dụng biện pháp xử lý hành chính với đối tượng hay không. Do đó,
thẩm quyền cuối cùng có hay không áp dụng biện pháp này là do Tòa án, được
tiến hành công khai tại phiên họp áp dụng theo trình tự thủ tục tư pháp được
quy định trong Pháp lệnh trình tự, thủ tục xem xét, quyết định áp dụng các
biện pháp xử lý hành chính tại TAND.
Thứ tư: Kết quả áp dụng các biện pháp xử lý hành chính được thể hiện
bằng quyết định áp dụng các biện pháp xử lý và đối tượng bị áp dụng chịu sự
quản lý và hạn chế trực tiếp một số quyền tự do nhất định. Thực chất việc áp
dụng các biện pháp xử lý hành chính là quá trình xem xét, truy cứu trách

14


nhiệm hành chính nhằm xác định những hậu quả pháp lý bất lợi mà các cá
nhân vi phạm phải gánh chịu trước Nhà nước.
Xuất phát từ lập luận trên, có thể định nghĩa về các biện pháp xử lý

hành chính như sau: Biện pháp xử lý hành chính là một loại biện pháp cưỡng
chế hành chính đặc biệt được áp dụng đối với công dân Việt Nam có hành vi
VPPL về an ninh, trật tự, an toàn xã hội nhưng chưa đến mức phải xử lý hình
sự, theo thẩm quyền, thủ tục được pháp luật hành chính quy định.
1.1.2. Khái niệm, đặc điểm của biện pháp xử lý hành chính đưa vào
trường giáo dưỡng
Đối tượng áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng đó chính là
người chưa thành niên VPPL do đó trước hết chúng ta cần xác định khái niệm
người chưa thành niên VPPL.
1.1.2.1. Khái niệm và đặc điểm của người chưa thành niên
Hiện nay đối với khái niệm người chưa thành niên ở nước ta được quy
định tại nhiều văn bản pháp luật khác nhau, với những tên gọi khác chủ yếu là
“người chưa thành niên”, “trẻ em” và “vị thành niên”. Để làm rõ thêm những
khái niệm này giống và khác nhau như thế nào người viết xin đưa ra một số
dẫn chứng như:
Từ điển tiếng Việt (Viện ngôn ngữ học, 2014) ghi nhận “thanh niên”
là người ở độ tuổi được pháp luật công nhận với đầy đủ các quyền và nghĩa
vụ, “vị thành niên” là chưa đến tuổi được pháp luật công nhận với đầy đủ
các quyền và nghĩa vụ [53, tr.442].
Theo từ điển luật học (nhà xuất bản Bách khoa, Hà Nội 1999), không
đưa ra khái niệm “thành niên” trước mà đưa ra khái niệm “vị thành niên” và
chú giải người chưa thành niên là người chưa đến tuổi được pháp luật coi là
có đủ khả năng để sử dụng quyền, làm nghĩa vụ và chịu trách nhiệm. Theo đó
người chưa đủ 18 tuổi là “vị thành niên” [45, tr.287]. Từ điển luật học đưa ra

15


định nghĩa cụ thể hơn, theo đó “người chưa thành niên” là người dưới 18 tuổi.
Tuy nhiên theo định nghĩa này thì chưa thành niên sẽ không được pháp luật

coi là có đủ khả năng để sử dụng quyền, làm nghĩa vụ và chịu trách nhiệm,
nhưng mỗi ngành luật đều có những quy định khác nhau căn cứ vào đặc điểm
tâm lý của người chưa thành niên, ý thức của họ khi tham gia vào quan hệ của
xã hội bị điều chỉnh bới những vi phạm của ngành luật đó cụ thể.
Luật trẻ em năm 2016 quy định: "trẻ em quy định trong luât này là công
dân Việt Nam dưới 16 tuổi" [41]. Trong khi đó, Công ước của Liên hợp quốc
về Quyền trẻ em (20/11/1989) được Việt Nam phê chuẩn năm 1990 lại xác
định trẻ em là người dưới 18 tuổi, trừ trường hợp pháp luật áp dụng với trẻ em
đó quy định tuổi thành niên sớm hơn (Điều 1) [33]. Như vậy, nếu theo công
ước của Liên hợp quốc, thì nhóm tuổi vị thành niên theo quan điểm mà chúng
ta vẫn thường hiểu xưa nay hoàn toàn có thể được xếp vào nhóm trẻ em.
Bộ luật Dân sự Nước Cộng Hòa XHCN Việt Nam cũng quy định rằng:
“…Người chưa đủ 18 tuổi là người chưa thành niên”: Điều 20 quy định năng
luật hành vi dân sự của người chưa thành niên là người từ đủ 6 tuổi đến chưa
đủ 18 tuổi và đồng thời cũng lại quy định trường hợp người từ đủ 15 tuổi đến
chưa đủ 18 tuổi có tài sản riêng đủ để bảo đảm việc thực hiện nghĩa vụ [40].
Như vậy, có thể thấy rằng việc xác định độ tuổi người chưa thành niên
là rất khó, việc đồng nhất khái niệm “chưa thành niên”, “vị thành niên” và
“trẻ em” là không hợp lý. Nhìn chung, các ý kiến đều thống nhất cho rằng
không nhất thiết phải có một khái niệm cụ thể về người chưa thành niên, chỉ
cần xác định người chưa thành niên bao gồm những người ở lứa tuổi nào, hợp
lý nhất là những người ở độ tuổi từ 12 đến dưới 18 tuổi bởi đây là giai đoạn
mà theo tâm lý học là giai đoạn có những biến đổi cơ bản nhất, ở độ tuổi này
người chưa thành niên chưa phát triển hoàn thiện về thể chất và tinh thần,
chưa có đầy đủ các quyền và nghĩa vụ pháp lý như người đã thành niên. Mặc

16


khác, khi nghiên cứu về các biện pháp xử lý VPHC đối với người chưa thành

niên theo Luật xử lý VPHC thì trẻ em và người chưa thành niên từ đủ 12 tuổi
có thể bị áp dụng các biện pháp xử lý hành chính.
Tóm lại, khái niệm người chưa thành niên được xây dựng dựa trên sự
phát triển về mặt thể chất và tinh thần của con người và được cụ thể hóa bằng
giới hạn độ tuổi trong các văn bản pháp luật của từng quốc gia. Theo đó,
người ta quy định cụ thể những quyền và nghĩa vụ cụ thể của người chưa
thành niên. Như vậy, trong pháp luật Việt Nam “trẻ em và người chưa thành
niên là hai khái niệm khác nhau được xác định căn cứ vào độ tuổi. Mặc dầu
các quy định về người chưa thành niên và trẻ em trong các đạo luật ở nước ta
có khác nhau về độ tuổi nhưng giữa “người chưathành niên” và “trẻ em” có
đặc điểm chung trên cơ sở đó là được xây dựng dựa trên sự phát triển về mặc
thể chất và tinh thần của con người được giới hạn bằng độ tuổi; ở lứa tuổi này
nhìn chung “người chưa thành niên” và “ trẻ em” cơ thể chưa phát triển đầy
đủ, kinh nghiệm sống chưa nhiều, tâm sinh lý chưa vững vàng, ổn định do đó
quyền và nghĩa vụ của họ cũng khác với người thành niên. Tuy nhiên, tùy
từng mối quan hệ mà độ tuổi của “người chưa thành niên” và “trẻ em” cũng
được quy định khác nhau với mục đích là bảo đảm cho họ quyền lợi phù hợp
với đặc điểm của họ về mặc thể chất và tinh thần. Nhìn ở các góc độ khác thì
“người chưa thành niên” và “trẻ em” có thể được thể hiện bằng nhiều cách
khác nhau theo lứa tuổi, học sinh tiểu học, trung học phổ thông hoặc đội viên
thiếu nhi, đội viên đội thiếu niên tiền phong, đoàn viên. Trong giới hạn phạm
vi nghiên cứu người viết chỉ nghiên cứu dựa trên những quy định của Luật xử
lý VPHC có hiệu lực ngày 1 tháng 7 năm 2013.
Dưới góc độ tâm lý học, con người phải trải qua rất nhiều giai đoạn
phát triển khác nhau, mà mỗi giai đoạn lại có những đặc điểm tâm sinh lý
riêng, đặc trưng cùng với tác động bên ngoài làm hình thành những những

17



hành vi ứng xử khác nhau. Giai đoạn chưa thành niên là giai đoạn có vị trí đặc
biệt quan trọng trong cả quá trình phát triển và hoàn thiện ấy. Nghiên cứu
người chưa thành niên qua các đặc điểm về tâm lý, sinh lý sẽ giúp chúng ta lý
giải được cơ sở khoa học của những quy định pháp luật nói chung và của Luật
xử lý VPHC nói riêng đối với đối tượng này.
1.1.2.2. Khái niệm biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng
“Đưa vào trường giáo dưỡng” là thuộc nhóm các biện pháp xử lý hành
chính được quy định tại Điều 91, Điều 92 của Luật xử lý VPHC 2012. Biện
pháp này TAND cấp huyện quyết định xử lý, được áp dụng đối với người
chưa thành niên từ đủ 12 tuổi đến dưới 18 tuổi VPPL về an ninh, trật tự, an
toàn xã hội mà không phải là tội phạm, trừ các trường hợp pháp luật có quy
định khác [36].
“Đưa vào trường giáo dưỡng” có lịch sử tồn tại khá lâu. Luật xử lý
VPHC ra đời nhưng vẫn tiếp tục kế thừa và hoàn thiện các quy định pháp luật
về xử lý VPHC, thay thế cho các văn bản trước là Pháp lệnh xử lý VPHC năm
1995, Pháp lệnh xử lý VPHC năm 2002 và Pháp lệnh năm 2002 được sửa đổi
bổ sung các năm 2007, 2008.Các văn bản này là văn bản có giá trị pháp lý
cao giữ gìn, bảo vệ an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội mấy chục năm
qua, Việt Nam đã từng sử dụng một số biện pháp xử lý người VPPL có nội
dung, mục đích giống biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng.
Tính đến thời điểm hiện nay, Luật xử lý VPHC 2012 quy định cụ thể về
áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, Pháp lệnh số 09/2014/
UBTVQH13 Pháp lệnh quy định trình tự thủ tục xem xét, quyết định áp dụng
các biện pháp xử lý hành chính tại TAND có hiệu lực ngày 01/7/2014, và các
Nghị định hướng dẫn chi tiết việc thực hiện những quy định của Luật như:
Nghị định 81/2013/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp xử lý
hành chính ban hành ngày 19/7/2013, Nghị định 02/2014/NĐ-CP quy định chế

18



×