BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ NỘI VỤ
…………/…………
……/……
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
TRẦN TRUNG HIẾU
PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT
CỦA CƠ QUAN CHUYÊN MÔN THUỘC
UBND TỈNH ĐẮK LẮK
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH
ĐẮK LẮK – NĂM 2020
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
…………/…………
BỘ NỘI VỤ
……/……
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
TRẦN TRUNG HIẾU
PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT
CỦA CƠ QUAN CHUYÊN MÔN THUỘC
UBND TỈNH ĐẮK LẮK
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH
Chuyên ngành: LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH
Mã số: 60 38 01 02
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. NGUYỄN THẾ TÀI
ĐẮK LẮK – NĂM 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu,
kết quả nêu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích
dẫn đầy đủ theo quy định.
Tác giả luận văn
Trần Trung Hiếu
LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình thực hiện và hoàn thiện luận văn, tôi đã nhận được nhiều
sự quan tâm giúp đỡ, hướng dẫn và động viên từ quý Thầy, Cô giáo của Học
viện Hành chính Quốc gia và Phân viện khu vực Tây Nguyên; của PGS.TS.
Lương Thanh Cường, PGS.TS. Lê Thị Hương đã định hướng tên đề tài khoa
học cho tôi; các giáo viên chủ nhiệm, quý Thầy Cô giảng dạy tại lớp, cũng
như các anh, chị, em là học viên của lớp, gia đình và các đồng chí đồng
nghiệp.
Đặc biệt, xin trân trọng cảm ơn TS.Nguyễn Thế Tài, người trực tiếp
hướng dẫn khoa học đã tận tình quan tâm, giúp đỡ và định hướng để tôi hoàn
thành tốt công trình khoa học của mình.
Xin trân trọng cảm ơn Hội đồng Đánh giá Luận văn quan tâm xem xét,
nghiên cứu và cho ý kiến góp ý về những thiếu sót để tôi kịp thời sửa đổi, bổ
sung nhằm hoàn thiện đề tài khoa học.
Để tỏ lòng kính trọng và biết ơn, xin kính chúc quý Thầy, Cô, các anh
chị em học viên của lớp, các đồng nghiệp dồi dào sức khỏe, hạnh phúc và
thành đạt!
Tác giả luận văn
Trần Trung Hiếu
MỤC LỤC
Trang
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PH
IẾN, GIÁO
C PHÁP LUẬT CỦA CƠ QUAN CHUYÊN MÔN THUỘC
U N CẤP TỈNH
9
1.1. Khái quát chung về P G PL của cơ quan chuyên môn
thuộc UBND cấp tỉnh
9
1.2. Chủ thể, đối tượng PBGDPL của cơ quan chuyên môn
thuộc UBND cấp tỉnh
17
1.3. Nội dung, hình thức, phương pháp PBGDPL của cơ quan
chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh
21
1.4 Các yếu tố ảnh hưởng đến PBGDPL của các cơ quan chuyên
môn thuộc UBND tỉnh Đắk Lắk.
29
Chương 2: THỰC TRẠNG PBGDPL CỦA CÁC CƠ QUAN
CHUYÊN MÔN THUỘC U N TỈNH ĐẮK LẮK (TỪ 2015-2019)
35
2.1. Thực trạng hoạt động PBGDPL của các cơ quan chuyên
môn thuộc UBND tỉnh Đắk Lắk (từ 2015-2019)
35
2.2. Đánh giá chung về hoạt động P G PL của các cơ quan
chuyên môn thuộc UBND tỉnh Đắk Lắk
Chương 3: QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP
63
ẢO ĐẢM HOẠT ĐỘNG
P G PL CỦA CÁC CƠ QUAN CHUYÊN MÔN THUỘC U N
TỈNH ĐĂK LẮK
82
3.1. Quan điểm bảo đảm hoạt động PBGDPL của các cơ quan
chuyên môn thuộc U N tỉnh Đắk Lắk
82
3.2. Giải pháp bảo đảm hoạt động PBGDPL của các cơ quan
chuyên môn thuộc U N tỉnh Đắk Lắk
KẾT LUẬN
85
98
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
PBGDPL
Phổ biến, giáo dục pháp luật
HĐN
Hội đồng nhân dân
UBND
Uỷ ban nhân dân
QPPL
Quy phạm pháp luật
Sở LĐ,T &XH
Sở Lao động, Thương binh và Xã hội
Sở NN&PTNT
Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
Sở VH,TT& L
Sở Văn hóa, Thể thao và u lịch
Sở GT&VT
Sở Giao thông và Vận tải
Sở G &ĐT
Sở Giáo dục và Đào tạo
Sở TN&MT
Sở Tài nguyên và Môi trường
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Phổ biến giáo dục pháp luật (P G PL) là khâu đầu tiên trong hoạt
động thực thi pháp luật, là phương tiện để chuyển tải những đường lối, chính
sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước tới toàn thể cán bộ và nhân dân. Đặc
biệt, trong công cuộc đổi mới, xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam của
nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân hiện nay, công tác này càng có vai trò
quan trọng về nhiều mặt. Xuất phát từ vai trò, ý nghĩa quan trọng này, trong
rất nhiều văn kiện của Đảng đã xác định rõ công tác P G PL là một bộ phận
của công tác giáo dục chính trị tư tưởng, là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị
trong đó Nhà nước giữ vai trò nòng cốt, phải được tiến hành thường xuyên,
liên tục với nhiều hình thức phong phú, đa dạng và sáng tạo nhằm nâng cao ý
thức chấp hành pháp luật của cán bộ và nhân dân, góp phần thúc đẩy kinh tế
phát triển, giữ vững ổn định chính trị và trật tự xã hội.
Điều 2 Luật P G PL (Luật) đã quy định công dân có quyền được
thông tin về pháp luật, Nhà nước bảo đảm, tạo điều kiện cho công dân thực
hiện quyền được thông tin về pháp luật và tại Khoản 1 Điều 3 của Luật quy
định về chính sách của Nhà nước về P G PL như sau: “P GDPL là trách
nhiệm của toàn bộ hệ thống chính trị, trong đó Nhà nước giữ vai trò nòng
cốt”. Tại Khoản 2 Điều 6 Luật quy định về trách nhiệm quản lý nhà nước đối
với công tác P G PL như sau:“Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về
PBGDPL; Bộ Tư pháp chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý
nhà nước về PBGDPL; Bộ, cơ quan ngang bộ trong phạm vi nhiệm vụ, quyền
hạn của mình có trách nhiệm phối hợp với Bộ Tư pháp thực hiện quản lý nhà
nước về PBGDPL”.
Ở đơn vị hành chính cấp tỉnh, hoạt động này được Chính phủ giao cho
Ủy ban nhân dân (U N ) cấp tỉnh quản lý, triển khai thực hiện và tại Khoản
1
3, Điều 4, Nghị định số 24/2014/NĐ-CP ngày 04/4/2014 của Chính phủ quy
định về tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc U N
tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương có quy định cơ quan chuyên môn thuộc U N
cấp tỉnh có
nhiệm vụ “Phổ biến giáo dục pháp luật về các lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý
nhà nước được giao”, đồng thời, tại Khoản 2, Điều 8, Nghị định số
24/2014/NĐ-CP cũng có quy định “Sở Tư pháp tham mưu, giúp UBND cấp
tỉnh quản lý nhà nước về công tác phổ biến giáo dục pháp luật” trên địa bàn
đơn vị hành chính cấp tỉnh.
Trong những năm qua, công tác P G PL nhìn chung đã được cấp ủy
Đảng, chính quyền tỉnh Đắk Lắk quan tâm; đã có những hoạt động phong
phú, nội dung, hình thức cũng như phương pháp từng bước được đổi mới; thu
được một số kết quả bước đầu đáng ghi nhận. Hoạt động P G PL đã góp
phần từng bước nâng cao nhận thức và ý thức tuân thủ pháp luật, hình thành
dần thói quen “Sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật” trong cán bộ
và nhân dân trên địa bàn tỉnh, đưa pháp luật vào các hoạt động quản lý nhà
nước và đời sống xã hội.
Mặc dù vậy, công tác P G PL trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk vẫn còn bộc
lộ không ít khó khăn, hạn chế ở nhiều mặt: về nhận thức; về kinh phí, cơ sở
vật chất; về nhân lực; về nội dung, hình thức thực hiện; hiệu quả đạt được...
đặc biệt là trách nhiệm, vai trò của các cơ quan quản lý nhà nước có thẩm
quyền trong việc triển khai thực hiện công tác này trên địa bàn tỉnh đang đặt
cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương cũng như đội ngũ làm công tác
P G PL của tỉnh trước những băn khoăn, trăn trở. Xuất phát từ mục đích đó,
tôi chọn nội dung “PBGDPL của các cơ quan chuyên môn thuộc UBND
tỉnh Đắk Lắk” làm đề tài luận văn.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn:
P G PL trong giai đoạn hiện nay luôn nhận được sự quan tâm của
2
mọi cấp, mọi ngành trong cả nước. Vấn đề P G PL qua các giai đoạn đã
được nhiều nhà khoa học, nhiều tác giả tìm hiểu, nghiên cứu với nhiều góc độ
khác nhau, ở nhiều địa bàn khác nhau với các hình thức như: Sách chuyên
khảo, đề tài khoa học, luận án, luận văn, khóa luận tốt nghiệp... Đáng chú ý có
các công trình sau:
i) Những công trình nghiên cứu về PBGDPL cho một đối tượng cụ thể:
- Nguyễn Quốc Sửu (2011), “Giáo dục pháp luật cho đội ngũ cán bộ,
công chức trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam”, Nxb. Chính trị Quốc gia - Sự thật. Cuốn sách này đã phân tích,
làm rõ về phương diện lý luận, thực tiễn vấn đề giáo dục pháp luật cho đội
ngũ cán bộ, công chức, thực trạng và nguyên nhân của thực trạng, đề xuất
những giải pháp hữu hiệu nhằm nâng cao chất lượng giáo dục pháp luật cho
đội ngũ cán bộ, công chức ở nước ta hiện nay.
- Trần Công Lý (2009), Giáo dục ý thức pháp luật cho cán bộ, công
chức ở Việt Nam hiện nay, Luận án Tiến sỹ Quản lý hành chính công, Hà nội.
Luận án này được hoàn thành tại Học viện Hành chính (Học viện Chính trị Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh), trong đó tác giả luận bàn về giáo dục ý
thức pháp luật, chứ không phải giáo dục pháp luật. Mặc dù cũng bàn đến các
vấn đề về chủ thể, đối tượng, nội dung, phương pháp, hình thức giáo dục ý
thức pháp luật gắn với đối tượng cán bộ, công chức; song về thực chất chúng
đều dựa trên nền của giáo dục pháp luật.
ii) Những công trình nghiên cứu về PBGDPL gắn với một đối tượng cụ
thể và ở một địa bàn nhất định
Vấn đề P G PL gắn với một đối tượng cụ thể ở một địa bàn nhất định
cũng là đề tài nghiên cứu của nhiều luận văn thạc sỹ luật học. Có thể điểm
qua một số luận văn được bảo vệ trong thời gian gần đây:
- Nguyễn Thanh Tùng (2011), Giáo dục pháp luật cho đồng bào công
3
giáo ở tỉnh Đồng Nai hiện nay, Luận văn Thạc sỹ luật học, Hà Nội. Tác giả đã
tập trung phân tích một số vấn đề lý luận về giáo dục pháp luật cho đồng bào
công giáo ở tỉnh Đồng Nai và nguyên nhân của thực trạng đó; trên cơ sở đó,
đề xuất phương hướng, giải pháp nhằm tăng cường công tác giáo dục pháp
luật cho đồng bào công giáo ở tỉnh Đồng Nai hiện nay.
-
ương Thị Thu Hiền (2013), PBGDPL trên địa bàn huyện Bố Trạch,
tỉnh Quảng Bình - Thực trạng và giải pháp, Luận văn Thạc sỹ luật học, Khoa
Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội. Trong luận văn này tác giả đã tập trung làm
sáng tỏ về mặt lý luận các khái niệm về PBGDPL và hoạt động PBGDPL;
phân tích, đánh giá đặc điểm và thực trạng hoạt động PBGDPL cho cán bộ và
nhân dân huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng ình; đề xuất những giải pháp khả thi
nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động PBGDPL cho cán bộ và nhân dân huyện
Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình.
- Nguyễn Xuân Hòa (2016), Tổ chức thực hiện giáo dục pháp luật
thông qua hoạt động xét xử của Tòa án ân dân tỉnh Đắk Lắk, Luận văn Thạc
sỹ luật học, Học viện Hành chính Quốc gia. Tác giả đã tập trung phân tích vấn
đề lý luận về tổ chức thực hiện giáo dục pháp luật thông qua hoạt động xét xử
của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk; đánh giá thực trạng, nguyên nhân, chỉ ra
những nét đặc thù của công tác này để trên cơ sở đó đề xuất các giải pháp
nâng cao hiệu quả công tác tổ chức thực hiện giáo dục pháp luật thông qua
hoạt động xét xử của Tòa án từ thực tiễn tỉnh Đắk Lắk.
Đặc điểm chung của các luận văn, luận án đã thực hiện là đề cập đến lý
luận chung về P G PL hoặc lý luận, thực tiễn hoạt động PBGDPL theo lĩnh
vực, ở một đơn vị hành chính hoặc của một chủ thể, một đối tượng nhất định.
Mỗi công trình nghiên cứu chọn cách tiếp cận ở những góc độ khác nhau, tuy
nhiên, chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu và phân tích lý luận, thực tiễn
về hoạt động PBGDPL của một chủ thể đặc thù là cơ quan chuyên môn thuộc
4
UBND cấp tỉnh trên một địa bàn cụ thể là tỉnh Đắk Lắk.
Vì vậy, tác giả sẽ kế thừa về lý luận của hoạt động P G PL từ các đề
tài đã nghiên cứu và nghiên cứu những điểm mới về lý luận cũng như thực
tiễn về hoạt động “PBGDPL của các cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh
Đắk Lắk” – là chủ thể thực hiện chức năng quản lý nhà nước về ngành, lĩnh
vực trên địa bàn cấp tỉnh, có trách nhiệm tham mưu U N cấp tỉnh thực hiện
công tác PBGDPL trên địa bàn cấp tỉnh, cụ thể là trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk,
do đó, việc nghiên cứu đề tài “PBGDPL của các cơ quan chuyên môn thuộc
UBND tỉnh Đắk Lắk” là không trùng lặp với các đề tài được nghiên cứu trước
đó.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
- Mục đích:
Trên cơ sở lý luận về P G PL của cơ quan chuyên môn thuộc U N
cấp tỉnh; đánh giá thực trạng về hoạt động P G PL của cơ quan chuyên môn
thuộc U N
tỉnh Đắk Lắk. Qua đó, đề xuất giải pháp nâng cao chất lượng
P G PL của cơ quan chuyên môn thuộc U N
tỉnh Đắk Lắk trong điều
kiện hiện nay.
- Nhiệm vụ: Để thực hiện mục đích đó, luận văn tập trung giải quyết
các nhiệm vụ sau:
- Phân tích cơ sở lý luận về P G PL nói chung và P G PL của cơ
quan chuyên môn thuộc U N cấp tỉnh.
- Phân tích thực trạng P G PL của một số cơ quan chuyên môn thuộc
U N
tỉnh Đắk Lắk, chỉ ra những kết quả đạt được và tồn tại, hạn chế về
P G PL của các cơ quan chuyên môn thuộc U N tỉnh Đắk Lắk trong thời
gian qua.
- Đề xuất quan điểm và giải pháp bảo đảm hoạt động P G PL của cơ
quan chuyên môn thuộc U N tỉnh Đắk Lắk trong điều kiện hiện nay.
5
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là vấn đề lý luận và thực tiễn hoạt
động P G PL của cơ quan chuyên môn thuộc U N tỉnh Đắk Lắk.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: lý luận và thực tiễn hoạt động P G PL của cơ quan
chuyên môn thuộc U N tỉnh Đắk Lắk.
- Về không gian, luận văn nghiên cứu hoạt động PBGDPL của một số
cơ quan chuyên môn thuộc U N tỉnh Đắk Lắk. Cụ thể là 12 Sở có số lượng
công việc chuyên môn nhiều liên quan đến PBGDPL, gồm: Sở Tư pháp; an
ân tộc; Sở Nội vụ; Sở Giáo dục và Đào tạo; Sở Tài nguyên và Môi trường;
Sở Công thương; Sở Xây dựng; Sở Lao động, Thương binh và Xã hội; Sở
Văn hóa, Thể thao và
u kịch; Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn; Sở
Giao thông vận tải; Sở Y tế.
- Về thời gian, trong thời gian 05 năm, từ năm 2015 đến năm 2019.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện
chứng của học thuyết Mác – Lênin; quan điểm của Đảng và Nhà nước về
công tác PBGDPL. Luận văn cũng kế thừa những kết quả nghiên cứu của các
nhà khoa học liên quan đến P G PL.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện luận văn, tác giả có sử dụng các phương pháp
sau:
- Phương pháp khảo cứu tài liệu, phân tích, suy luận: dùng cho Chương
I để nghiên cứu các vấn đề về cơ sở lý luận của hoạt động P G PL của cơ
quan chuyên môn thuộc U N cấp tỉnh .
6
- Phương pháp thống kê, điều tra xã hội học, tổng hợp, đánh giá: dùng
cho Chương II để nghiên cứu các vấn đề về thực trạng hoạt động PBGDPL
của cơ quan chuyên môn thuộc U N tỉnh Đắk Lắk.
- Phương pháp phân tích, suy luận: dùng cho Chương III để nghiên cứu
về các quan điểm, giải pháp bảo đảm hoạt động P G PL của cơ quan chuyên
môn thuộc U N tỉnh Đắk Lắk.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn là công trình chuyên khảo phân tích một cách hệ thống và
tương đối toàn diện các vấn đề lý luận và thực tiễn về PBGDPL cuả các cơ
quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh Đắk Lắk. Qua đó, luận văn cung cấp, bổ
sung thêm các căn cứ lý luận và thực tiễn, góp phần làm phong phú và hoàn
thiện thêm lý luận về PBGDPL nói chung và PBGDPL của cơ quan chuyên
môn thuộc UBND cấp tỉnh nói riêng.
Với những kết quả đạt được, luận văn góp phần bảo đảm hoạt động
PBGDPL của cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh và góp phần quan
trọng vào mục tiêu nâng cao nhận thức và ý thức chấp hành pháp luật cho cán
bộ và nhân dân trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk, là cơ sở khoa học và thực tiễn giúp
tỉnh Đắk Lắk nói riêng và các địa phương cấp tỉnh nói chung nâng cao chất
lượng công tác P G PL.
Các giải pháp đề ra trong luận văn có thể được áp dụng trong thực hiện
công tác PBGDPL trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk trong thời gian tới; làm tài liệu
tham khảo phục vụ việc học tập, nghiên cứu của sinh viên, học viên cao học
chuyên ngành Luật Hành chính, Luật Hiến pháp và cho những ai quan tâm.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về P G PL của các cơ quan chuyên
7
môn thuộc U N cấp tỉnh.
Chương 2: Thực trạng P G PL của các cơ quan chuyên môn thuộc
U N tỉnh Đắk Lắk.
Chương 3: Quan điểm và giải pháp bảo đảm hoạt động P G PL của
các cơ quan chuyên môn thuộc U N tỉnh Đắk Lắk.
8
Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT
CỦA CƠ QUAN CHUYÊN MÔN THUỘC UBND CẤP TỈNH
1.1. Khái quát chung về PBGDPL của cơ quan chuyên môn thuộc
UBND cấp tỉnh
1.1.1. Khái niệm PBGDPL của cơ quan chuyên môn thuộc UBND
cấp tỉnh
1.1.1.1 Khái niệm về phổ biến, giáo dục pháp luật
PBGDPL là một vấn đề đang được Đảng, Nhà nước, các cấp, các
ngành và toàn xã hội quan tâm, trong khoa học pháp lý hiện nay, có nhiều
quan điểm, quan niệm khác nhau về khái niệm PBGDPL. Sự khác nhau về
quan điểm, quan niệm đó sẽ dẫn đến những lựa chọn khác nhau về nội dung,
hình thức và phương pháp thực hiện. Vì vậy, việc tiếp cận khái niệm
PBGDPL một cách đúng đắn, khoa học sẽ giúp cho việc lựa chọn nội dung,
hình thức và phương pháp PBGDPL phù hợp.
Trên thực tế, P G PL ít được đề cập đến như một khái niệm mang
tính học thuật. Trong các tài liệu khoa học, thuật ngữ thường được sử dụng là
giáo dục pháp luật. Tuy nhiên, trong hầu hết các văn kiện của Đảng, các văn
bản quy phạm pháp luật của Nhà nước, các văn bản hướng dẫn nghiệp vụ
chuyên môn liên quan, PBGDPL được sử dụng một cách phổ biến. Vì vậy,
trong phạm vi nghiên cứu của luận văn này, tác giả sử dụng thuật ngữ
PBGDPL với ý nghĩa chung đó.
Theo từ điển Tiếng Việt (NX Đà Nẵng năm 1997) hay Từ và ngữ Hán
Việt (NX
Từ điển
ách Khoa - 2002) thì “Phổ biến là làm cho đông đảo
mọi người biết đến một vấn đề, một tri thức bằng cách truyền đạt trực tiếp
hay thông qua hình thức nào đó hoặc làm cho mọi người đều biết đến”. [1,
tr785]
9
Phổ biến pháp luật có đối tượng tác động rộng rãi, mang ý nghĩa xã hội
và nhân văn sâu sắc, bởi trong lịch sử đã có lúc pháp luật được ban hành
nhưng không được phổ biến công khai mà chỉ được coi là một công cụ để nhà
nước dùng để trị dân.
ên cạnh đó phổ biến pháp luật còn mang tính tác
nghiệp, truyền đạt nội dung pháp luật cho các đối tượng cụ thể. Ở những mức
độ khác nhau, phổ biến pháp luật còn nhằm làm cho các đối tượng cụ thể hiểu
thấu suốt các quy định của pháp luật để thực hiện pháp luật trên thực tế. Phổ
biến pháp luật thường được thực hiện thông qua các hội nghị, các cuộc tập
huấn...
Theo Từ điển Từ và ngữ Hán - Việt “Giáo dục là quá trình hoạt động
có ý thức, có mục đích, có kế hoạch, có tổ chức nhằm bồi dưỡng cho con
người những phẩm chất đạo đức và những tri thức cần thiết để người ta có
khả năng tham gia mọi mặt của đời sống xã hội”. [1, tr785]
So với phổ biến thì giáo dục cũng nhằm nâng cao nhận thức, tình cảm
song nội dung rộng hơn, phương thức tiến hành chặt chẽ hơn, đối tượng xác
định hơn, mục đích lớn hơn. Xét dưới góc độ nhất định thì phổ biến chính là
các phương thức giáo dục cụ thể.
Trong quá trình nghiên cứu, quản lý và trực tiếp thực hiện các hoạt
động P G PL tại địa phương, tác giả rất tâm đắc với quan niệm “PBGDPL
là hoạt động có định hướng, có tổ chức, có chủ định của chủ thể PBGDPL
được thực hiện bằng nhiều hình thức, phương pháp nhằm tác động đến đối
tượng được PBGDPL giúp họ nắm được các quy định của pháp luật và hình
thành ở họ tri thức pháp luật, tình cảm pháp lý và từ đó có những hành vi phù
hợp với các yêu cầu của pháp luật”.
1.1.1.2 Khái niệm về cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh
Theo Điều 3, Nghị định số 24/2014/NĐ-CP ngày 04/4/2014 của Chính
phủ quy định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc U N
10
tỉnh, thành phố
trực thuộc trung ương, thì “Các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân
cấp tỉnh gồm có sở và cơ quan ngang sở (sau đây gọi chung là sở). Sở là cơ
quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh, thực hiện chức năng tham mưu, giúp
UBND cấp tỉnh quản lý nhà nước về ngành, lĩnh vực ở địa phương theo quy
định của pháp luật và theo phân công hoặc ủy quyền của UBND cấp tỉnh,
Chủ tịch UBND cấp tỉnh” [2].
Theo Điều 8 của Nghị định này, về cơ bản thì U N
cấp tỉnh có tất cả
17 cơ quan chuyên môn, bao gồm: Sở Nội vụ, Sở Tư pháp, Sở Kế hoạch và
Đầu tư, Sở Tài chính, Sở Công thương, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn (NN&PTNT), Sở Giao thông vận tải, Sở Xây dựng, Sở Tài nguyên và
Môi trường, Sở Thông tin và Truyền thông, Sở Lao động, Thương binh và Xã
hội (LĐ,T &XH), Sở Văn hóa, Thể Thao và u lịch (VH,TT& L), Sở Khoa
học và Công nghệ, Sở Giáo dục và Đào tạo, Sở Y tế, Thanh tra tỉnh, Văn
phòng U N
U N
tỉnh. Ngoài ra, tùy vào tình hình thực tế của địa phương,
tỉnh có thể thành lập thêm các cơ quan đặc thù là Sở Ngoại vụ, an
ân tộc, Sở Quy hoạch – Kiến trúc.[2]
Như vậy, ở đơn vị hành chính cấp tỉnh, khác với cơ quan có thẩm quyền
chung là U N cấp tỉnh thực hiện chức năng quản lý nhà nước trên mọi lĩnh
vực của đời sống xã hội ở địa bàn cấp tỉnh, thì cơ quan chuyên môn thuộc
U N
cấp tỉnh được lập ra nhằm giúp U N
cấp tỉnh - cơ quan có thẩm
quyền chung, quản lý về chuyên môn, nghiệp vụ thuộc một ngành hoặc lĩnh
vực nhất định.
1.1.1.3 Khái niệm về PBGDPL của cơ quan chuyên môn thuộc
UBND cấp tỉnh
Từ khái niệm về P G PL và khái niệm của cơ quan chuyên môn thuộc
U N cấp tỉnh, tác giả cho rằng có thể hiểu khái niệm PBGDPL của cơ quan
chuyên môn thuộc U N
cấp tỉnh là “hoạt động có định hướng, có tổ chức,
11
có chủ định do cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh thực hiện bằng
nhiều hình thức, phương pháp nhằm tác động đến đối tượng được PBGDPL
trên địa bàn cấp tỉnh, giúp họ nắm được các quy định của pháp luật và hình
thành ở họ tri thức pháp luật, tình cảm pháp lý và từ đó có những hành vi phù
hợp với các yêu cầu của pháp luật”.
1.1.2 Đặc điểm về PBGDPL của cơ quan chuyên môn thuộc UBND
cấp tỉnh
Hoạt động, P G PL của cơ quan chuyên môn thuộc U N
cấp tỉnh có
những đặc điểm sau:
Một là, PBGDPL của cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh là
trách nhiệm, nhiệm vụ liên quan đến hoạt động quản lý nhà nước của các cơ
quan này.
Tại Khoản 3, Điều 4, Nghị định số 24/2014/NĐ-CP của Chính phủ quy
định cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh có nhiệm vụ “Phổ biến, giáo
dục pháp luật về các lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý nhà nước được giao”.
Cụ thể hơn, tại các Thông tư hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan
chuyên môn thuộc U N
cấp tỉnh đều có quy định về nhiệm vụ “Phổ biến,
giáo dục pháp luật về các lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý nhà nước” của các
cơ quan này.
o đó, đối chiếu quy định trên với quy định tại Điều 8, Nghị
định số 24/2014/NĐ-CP của Chính phủ quy định về số lượng các cơ quan
chuyên môn thuộc U N
cấp tỉnh thì tác giả có thể khẳng định rằng: các cơ
quan chuyên môn thuộc U N
cấp tỉnh có trách nhiệm tham mưu cho
U N cấp tỉnh tiến hành hoạt động P G PL về hầu hết các ngành, lĩnh vực
trong đời sống kinh tế - xã hội trên địa bàn cấp tỉnh, từ các quy định của pháp
luật về lĩnh vực đất đai, xây dựng thuộc phạm vi quản lý của Sở Tài Nguyên
và Môi trường, Sở Xây dựng đến các quy định về lĩnh vực y tế, giáo dục, an
toàn giao thông thuộc phạm vi quản lý của Sở Y tế, Sở Giáo dục và Đào tạo,
12
Sở Giao thông – Vận tải …và Sở Tư pháp có nhiệm vụ P G PL về các lĩnh
vực thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Sở Tư pháp, đồng thời, Sở Tư pháp
được giao thêm chức năng làm “đầu mối”, giúp U N tỉnh quản lý nhà nước
về công tác P G PL tại địa bàn cấp tỉnh. [2]
Từ các quy định trên có thể hiểu, PBGDPL của cơ quan chuyên môn
thuộc U ND cấp tỉnh là một trong những nhiệm vụ để thực hiện chức năng
quản lý nhà nước thuộc lĩnh vực, ngành được giao và trách nhiệm thực hiện
hoạt động này được quy định tại Nghị định, các Thông tư hướng dẫn về chức
năng, nhiệm vụ của các cơ quan chuyên môn thuộc U N
tỉnh và tại Luật
PBGDPL. Đây là hoạt động của các cơ quan hành chính để thực hiện chức
năng quản lý nhà nước nên được bố trí bộ máy, con người cũng như kinh phí
để tổ chức thực hiện và được thể chế hóa trong các văn bản quy phạm pháp
luật nên có nhiều điểm khác biệt so với hoạt động PBGDPL của các tổ chức
khác như: hoạt động P G PL của các tổ chức Đảng, đoàn thể thường mang
tính tuyên truyền, vận động hay hoạt động P G PL của cơ quan báo chí,
truyền thông là do các cơ quan này “tự nguyện” thực hiện.
Hai là, cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh đóng vai trò “nòng
cốt” trong việc thực hiện công tác PBGDPL trên địa bàn cấp tỉnh.
Điều 2, Luật P G PL quy định về quyền được thông tin về pháp luật
và trách nhiệm tìm hiểu, học tập pháp luật của công dân đã nêu rõ: “Công dân
có quyền được thông tin về pháp luật và có trách nhiệm chủ động tìm hiểu,
học tập pháp luật. Nhà nước bảo đảm, tạo điều kiện cho công dân thực hiện
quyền được thông tin về pháp luật”. Để đảm bảo thực hiện quyền này, Điều 3,
Luật P G PL quy định về chính sách của Nhà nước về phổ biến, giáo dục
pháp luật là “Phổ biến, giáo dục pháp luật là trách nhiệm của toàn bộ hệ thống
chính trị, trong đó Nhà nước giữ vai trò nòng cốt”. Nhà nước bảo đảm nguồn
lực cần thiết cho công tác phổ biến, giáo dục pháp luật và thực hiện xã hội
13
hóa công tác phổ biến, giáo dục pháp luật; khuyến khích và có chính sách hỗ
trợ, tạo điều kiện đối với cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân tham gia
thực hiện phổ biến, giáo dục pháp luật; huy động các nguồn lực xã hội đóng
góp cho công tác phổ biến, giáo dục pháp luật.[3]
Quan điểm này có thể hiểu công dân có trách nhiệm tìm hiểu pháp luật
và Nhà nước bảo đảm, tạo điều kiện cho công dân thực hiện quyền được
thông tin về pháp luật bằng cách huy động hệ thống chính trị gồm cơ quan
Đảng, cơ quan Nhà nước, cơ quan Đoàn thể… và khuyến khích, huy động sự
tham gia của các tổ chức, cá nhân trong đó Nhà nước giữ vai trò “nòng cốt”
thực hiện công tác P G PL. Ở đơn vị hành chính cấp tỉnh, UBND cấp tỉnh
giữ vai trò “nòng cốt” trong các cơ quan nhà nước ở cấp tỉnh, trong khi đó,
các cơ quan chuyên môn thuộc U N
giúp U N
cấp tỉnh là các cơ quan “nòng cốt”
cấp tỉnh thực hiện công tác quản lý nhà nước tại địa phương,
trong đó, công tác PBGDPL là một trong các chức năng, nhiệm vụ của hoạt
động quản lý nhà nước, cho nên theo tác giả, có thể khẳng định rằng cơ quan
chuyên môn thuộc U N
cấp tỉnh đóng vai trò “nòng cốt” trong việc thực
hiện công tác P G PL trên địa bàn cấp tỉnh.
Ba là, PBGDPL của các cơ quan chuyên môn cấp tỉnh là tiền đề đẩy
mạnh hoạt động PBGDPL ở cấp huyện và cấp xã trên địa bàn cấp tỉnh.
Theo Điều 4, Nghị định 24/2014/NĐ-CP thì cơ quan chuyên môn thuộc
UBND cấp tỉnh là cơ quan giúp U N
cấp tỉnh quản lý nhà nước về các
ngành, lĩnh vực trên toàn địa bàn cấp tỉnh. Các cơ quan này có thẩm quyền
hướng dẫn về chuyên môn nghiệp vụ, kiểm tra các hoạt động chuyên môn
thuộc ngành, lĩnh vực quản lý được thực hiện tại cấp huyện và cấp xã. Như
vậy, hoạt động cơ quan chuyên môn thuộc U N cấp tỉnh có ảnh hưởng lớn,
trực tiếp đến việc triển khai các hoạt động của U N
o đó, một khi cơ quan chuyên môn thuộc U N
14
cấp huyện và cấp xã.
cấp tỉnh đẩy mạnh hoạt
động PBGDPL sẽ tạo động lực, nền tảng cho U N cấp huyện và U N cấp
xã trên địa bàn tỉnh nghiêm túc triển khai hoạt động PBGDPL ở địa phương.
1.1.3. Vai trò PBGDPL của cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp
tỉnh
1.1.3.1. Góp phần cập nhật, nâng cao kiến thức pháp luật cho cán bộ
và nhân dân trên địa bàn cấp tỉnh
Cơ quan chuyên môn thuộc U N
cấp tỉnh có trách nhiệm “PBGDPL
về các lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý nhà nước được giao”, lại là cơ quan
hiểu biết rất rõ các quy định pháp luật thuộc ngành, lĩnh vực mình quản lý, là
chủ thể có rất nhiều thuận lợi về tổ chức bộ máy, kinh phí để tổ chức thực
hiện công tác này so với các chủ thể khác như các tổ chức Đảng, Đoàn thể...
nên có vai trò cung cấp, cập nhật, nâng cao kiến thức pháp luật thuộc phạm vi
quản lý nhà nước của cơ quan mình cho cán bộ và nhân dân, trong đó, chú
trọng trước hết là việc cập nhật những kiến thức pháp luật mới được ban hành
để điều chỉnh, sửa đổi, bổ sung các quan hệ xã hội trong quá trình phát triển
kinh tế -xã hội mới được các cơ quan Trung ương ban hành cho đội ngũ cán
bộ. công chức thuộc phạm vi quản lý để từ đó giúp họ nắm vững, hiểu rõ các
quy định này để tổ chức triển khai thực hiện, đưa pháp luật đi vào cuộc sống.
Đồng thời, cơ quan chuyên môn thuộc U N cấp tỉnh có vai trò, trách nhiệm
trong việc đảm bảo quyền được thông tin về pháp luật của nhân dân đối với
các lĩnh vực quản lý nên có vai trò P G PL cho các tầng lớp nhân dân các
kiến thức pháp luật liên quan đến đời sống hàng ngày nhằm giúp họ hiểu biết,
thực hiện theo đúng các quy định pháp luật.
Thông qua hoạt động P G PL sẽ làm sâu sắc và từng bước mở rộng hệ
thống kiến thức pháp luật của cán bộ và nhân dân. Mục đích này đặc biệt
quan trọng trong điều kiện như nước ta hiện nay, khi mà hiểu biết pháp luật
của công dân còn thấp, còn chịu tư tưởng và nếp sống của người sản xuất nhỏ,
15
nhận thức về quyền và nghĩa vụ của công dân chưa đầy đủ. Mặt khác, hoạt
động PBGDPL chưa được coi trọng dẫn đến tình trạng pháp chế bị buông
lỏng, làm giảm hiệu lực của pháp luật, dẫn đến giảm lòng tin của nhân dân đối
với Đảng và Nhà nước.
1.1.3.2. Góp phần xây dựng, củng cố tình cảm, niềm tin của cán bộ
và nhân dân trên địa bàn tỉnh đối với pháp luật
Pháp luật chỉ có thể được cán bộ và nhân dân thực hiện nghiêm chỉnh
và thực sự phát huy hiệu lực, hiệu quả khi họ tin tưởng vào các nguyên tắc,
quy định của pháp luật. Chỉ khi nào người dân nhận thức đúng đắn, đầy đủ
các nguyên tắc, quy định của pháp luật thì họ mới có thể thực hiện pháp luật
một cách tự giác mà không cần một biện pháp cưỡng chế nào từ phía Nhà
nước. Từ vai trò cung cấp thông tin, nâng cao trình độ kiến thức, hiểu biết
pháp luật cho các tầng lớp nhân dân, PBGDPL góp phần xây dựng, củng cố
niềm tin của cán bộ, nhân dân đối với pháp luật.
Để hoạt động PBGDPL của các cơ quan chuyên môn thuộc U N cấp
tỉnh góp phần xây dựng, củng cố niềm tin của cán bộ, nhân dân đối với pháp
luật thì cần giáo dục tình cảm công bằng, tình cảm trách nhiệm và tình cảm
không khoan nhượng đối với các hành vi phạm pháp, phạm tội. Việc xây
dựng, củng cố niềm tin của cán bộ, nhân dân đối với pháp luật càng có ý
nghĩa đặc biệt quan trọng trong bối cảnh các thế lực phản động, thù địch vẫn
đang thực hiện các hoạt động tuyên truyền, xuyên tạc đường lối, chủ trương
của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước ta, gây chia rẽ giữa các dân
tộc, tôn giáo ở địa phương.
1.1.3.3. Góp phần nâng cao ý thức chấp hành pháp luật cho cán bộ,
nhân dân trên địa bàn tỉnh
Sự hiểu biết pháp luật, nhận thức đúng đắn bản chất, vai trò xã hội của
pháp luật, nắm bắt được các quyền con người, quyền công dân... sẽ là cơ sở,
16
nền tảng để cán bộ, nhân dân trên địa bàn cấp tỉnh thêm tin tưởng vào chính
sách, pháp luật của Nhà nước, sự quản lý, điều hành của các cấp chính quyền
địa phương. Hơn thế nữa, có kiến thức, hiểu biết pháp luật ở một trình độ nhất
định, có niềm tin đối với pháp luật, cán bộ, nhân dân trên địa bàn cấp tỉnh mới
có ý thức tự đánh giá, đối chiếu hành vi của mình với các nguyên tắc, quy
định của pháp luật khi tham gia vào các quan hệ xã hội; tự mình có thể tiếp
cận hoặc bảo vệ quyền con người, quyền công dân một cách hiệu quả, phù
hợp với các nguyên tắc luật định, nâng cao chất lượng cuộc sống của họ.
Hoạt động P G PL của các cơ quan chuyên môn thuộc U N
cấp
tỉnh hiệu quả giúp củng cố niềm tin sâu sắc của cán bộ, nhân dân trên địa bàn
tỉnh vào sự cần thiết phải tuân theo một cách tự nguyện các quy định của pháp
luật là những yếu tố quan trọng làm hình thành hành vi pháp luật tích cực.
Điều đó nói lên một trong những vai trò hết sức quan trọng của hoạt động
Hoạt động P G PL của các cơ quan chuyên môn thuộc U N
cấp tỉnh là
góp phần nâng cao ý thức tự giác chấp hành pháp luật, thực hiện hành vi pháp
luật hợp pháp cho cán bộ, nhân dân trên địa bàn tỉnh.
1.2. Chủ thể, đối tƣợng PBGDPL của cơ quan chuyên môn thuộc
UBND cấp tỉnh
1.2.1 Chủ thể PBGDPL của cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp
tỉnh.
Theo quy định tại Nghị định 24/2014/NĐ-CP, chủ thể PBGDPL của cơ
quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh là các cơ quan chuyên môn thuộc
UBND cấp tỉnh, bao gồm 19 cơ quan chuyên môn: Sở Nội vụ, Sở Tư pháp,
Sở Kế hoạch và Đầu tư, Sở Tài chính, Sở Công thương, Sở Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn (NN&PTNT), Sở Giao thông - Vận tải, Sở Xây dựng, Sở
Tài nguyên và Môi trường, Sở Thông tin và Truyền thông, Sở Lao động,
Thương binh và Xã hội (LĐ,T &XH), Sở Văn hóa, Thể Thao và
17
u lịch
(VH,TT& L), Sở Khoa học và Công nghệ, Sở Giáo dục và Đào tạo, Sở Y tế,
Thanh tra tỉnh, Văn phòng U N
tỉnh; là cán bộ, công chức của 19 cơ quan
này làm nhiệm vụ P G PL [2].Trong đó, Sở Tư pháp có chức năng là cơ
quan “đầu mối” giúp U N cấp tỉnh quản lý nhà nước về công tác P G PL
trên địa bàn cấp tỉnh. Lợi thế của các cơ quan này là luôn có trong tay các loại
thông tin, tài liệu, văn bản QPPL, có đội ngũ cán bộ, công chức đã được đào
tạo bài bản, có kiến thức, hiểu biết pháp luật và có kinh nghiệm trong thực
tiễn đời sống pháp lý của địa phương.
Như vậy, có thể hiểu, tại mỗi cơ quan chuyên môn thuộc U N
cấp
tỉnh thì các bộ phận chuyên môn đều có trách nhiệm thực hiện công tác
PBGDPL thuộc lĩnh vực mình phụ trách, tuy nhiên, để thiết lập bộ máy thực
hiện có hiệu quả công tác này, tại Nghị định số 55/2011/NĐ-CP ngày
04/7/2011 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ
chức bộ máy của tổ chức pháp chế thì tổ chức/cán bộ pháp chế có chức năng,
nhiệm vụ là làm “đầu mối” tham mưu thực hiện các công tác P G PL và các
công tác khác như: xây dựng văn bản QPPL, theo dõi thi hành pháp luật, kiểm
soát thủ tục hành chính....
ên cạnh đó, để chuẩn hóa điều kiện, nâng cao trình độ cho đội ngũ
này, Luật P G PL đã quy định về tiêu chuẩn của người làm công tác
P G PL đó là áo cáo viên pháp luật. Theo đó “ áo cáo viên pháp luật là
cán bộ, công chức, viên chức và sỹ quan trong lực lượng vũ trang nhân dân
được cơ quan có thẩm quyền ra quyết định công nhận để kiêm nhiệm thực
hiện hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật. áo cáo viên pháp luật phải có
đủ các tiêu chuẩn sau: a) Có phẩm chất đạo đức tốt, lập trường tư tưởng vững
vàng, có uy tín trong công tác;b) Có khả năng truyền đạt;c) Có bằng tốt
nghiệp đại học luật và thời gian công tác trong lĩnh vực pháp luật ít nhất là 02
năm; trường hợp không có bằng tốt nghiệp đại học luật, nhưng có bằng tốt
18
nghiệp đại học khác thì phải có thời gian công tác liên quan đến pháp luật ít
nhất là 03 năm.” [3]
Mặt khác, để tạo cơ chế phối hợp giữa các cơ quan nhà nước, cơ quan
đoàn thể thuộc hệ thống chính trị trong việc triển khai thực hiện công tác
P G PL, Điều 7 Luật P G PL đã quy định về việc ban hành cơ chế thành
lập Hội đồng phối hợp phổ biến, giáo dục pháp luật ở cấp tỉnh để làm cơ quan
tư vấn, tham mưu cho U N
cấp tỉnh triển khai công tác phổ biến, giáo dục
pháp luật và huy động nguồn lực cho công tác phổ biến, giáo dục pháp luật,
cụ thể hóa quy định này, Quyết định số 27/2013/QĐ-TTg của Thủ tướng
Chính phủ về thành phần của Hội đồng phối hợp phổ biến, giáo dục pháp luật
ở cấp tỉnh có các cơ quan chuyên môn thuộc U N
cấp tỉnh, trong đó Cơ
quan thường trực Hội đồng phối hợp phổ biến, giáo dục pháp luật của Ủy ban
nhân dân cấp tỉnh là Sở Tư pháp.
Tuy nhiên, chủ thể PBGDPL của cơ quan chuyên môn thuộc UBND
cấp tỉnh có nhược điểm là chủ thể không chuyên nghiệp là những người có
chức năng, nhiệm vụ chính không phải là PBGDPL, mà thông qua hoạt động
chuyên môn, nghiệp vụ của mình hoặc làm việc kiêm nhiệm để thực hiện
nhiệm vụ P G PL.
1.2.2 Đối tƣợng PBGDPL của cơ quan chuyên môn thuộc UBND
cấp tỉnh
Đối tượng PBGDPL của cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh ở
đây chính là cán bộ và nhân dân đang sinh sống, lao động, làm việc trên địa
bàn cấp tỉnh.
o đối tượng PBGDPL của cơ quan chuyên môn thuộc UBND
cấp tỉnh là rất rộng nên nhu cầu tiếp nhận thông tin, kiến thức pháp luật của
họ rất đa dạng tùy thuộc vào địa bàn cư trú, nhóm tuổi, trình độ học vấn, nghề
nghiệp, vị thế xã hội trong cộng đồng, mục tiêu tiếp thu kiến thức pháp luật...
Chính vì vậy, khi tiến hành P G PL, cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp
19