Tải bản đầy đủ (.pdf) (102 trang)

Địa vị pháp lý hành chính của công chức xã từ thực tiễn huyện lục nam, tỉnh bắc giang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.09 MB, 102 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NỘI VỤ

…………/…………

……/……

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

LỤC VĂN DUYỆT

ĐỊA VỊ PHÁP LÝ HÀNH CHÍNH CỦA CÔNG CHỨC XÃ
– TỪ THỰC TIỄN HUYỆN LỤC NAM, TỈNH BẮC GIANG

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH
Mã số: 8 38 01 02

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. VŨ ĐỨC ĐÁN

HÀ NỘI - 2019


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu
và kết quả trình bày trong luận văn là trung thực, khách quan, không trùng lắp
với các công trình nghiên cứu có liên quan đã công bố. Các thông tin trích dẫn
trong luận văn đều đã được chỉ rõ nguồn gốc.

Hà Nội, ngày ...... tháng ..... năm 2019


Tác giả

LỤC VĂN DUYỆT


LỜI CẢM ƠN

Trước hết, cho phép tôi xin được bày tỏ sự cảm ơn sâu sắc đến người
hướng dẫn khoa học PGS.TS Vũ Đức Đán đã tận tình hướng dẫn và đóng góp
nhiều ý kiến khoa học trong quá trình nghiên cứu và thực hiện luận văn này.
Cũng cho phép tôi xin được chân thành cảm ơn Ban Giám đốc Học viện
Hành chính Quốc gia, Khoa Sau đại học cùng toàn thể các giảng viên các khoa,
phòng thuộc Học viện Hành chính Quốc gia đã nhiệt tình giảng dạy và tạo điều
kiện cho tôi hoàn thành nhiệm vụ học tập của mình.
Cuối cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất tới tất các thầy giáo, cô
giáo, gia đình, bạn bè, đồng chí và đồng nghiệp. Sự động viên giúp đỡ của các
thầy giáo, cô giáo, gia đình, bạn bè và đồng nghiệp là nguồn động viên quý báu
cho tôi hoàn thành luận văn này!

Hà Nội, ngày .... tháng .... năm 2019
Tác giả

LỤC VĂN DUYỆT


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

CB,CC

Cán bộ, công chức


HĐND

Hội đồng nhân dân

UBND

Ủy ban nhân dân

KT-XH

Kinh tế - xã hội


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐỊA VỊ PHÁP LÝ HÀNH
CHÍNH CỦA CÔNG CHỨC CẤP XÃ ............................................................. 9
1.1. Khái quát chung về chính quyền cấp xã và công chức cấp xã ...................... 9
1.2. Những vấn đề chung về địa vị pháp lý hành chính của công chức cấp xã .. 18
1.3. Những yếu tố bảo đảm địa vị pháp lý hành chính của công chức cấp xã.... 24
Chương 2. THỰC TRẠNG ĐỊA VỊ PHÁP LÝ HÀNH CHÍNH CỦA CÔNG
CHỨC XÃ TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN LỤC NAM, TỈNH BẮC GIANG ........ 30
2.1. Thực trạng pháp luật về địa vị pháp lý hành chính của công chức cấp xã .. 30
2.2. Đặc điểm kinh tế - xã hội của huyện Lục Nam tác động đến địa vị pháp lý
hành chính của công chức xã ở huyện Lục Nam ............................................... 36
2.3. Thực trạng thể hiện địa vị pháp lý hành chính của công chức xã trên địa bàn
huyện Lục Nam ................................................................................................ 39
Chương 3. PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM, PHÁT HUY ĐỊA VỊ

PHÁP LÝ HÀNH CHÍNH CỦA CÔNG CHỨC XÃ – TỪ THỰC TIỄN
HUYỆN LỤC NAM, TỈNH BẮC GIANG ....................................................... 62
3.1. Phương hướng bảo đảm, phát huy địa vị pháp lý hành chính đội ngũ công
chức xã ............................................................................................................. 62
3.2. Giải pháp bảo đảm, phát huy địa vị pháp lý hành chính của công chức xã . 66
KẾT LUẬN...................................................................................................... 91
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................ 93


DANH MỤC HÌNH VẼ, BẢNG BIỂU

Hình 2.2.1. Sơ đồ vị trí địa lý huyện Lục Nam – tỉnh Bắc Giang ...................... 35
Bảng 2.3.1a: Số lượng công chức xã huyện Lục Nam năm 2016 ..................... 39
Bảng 2.3.1b: Cơ cấu độ tuổi và giới tính của công chức xã huyện Lục Nam năm
2016 ................................................................................................................. 40
Bảng 2.3.2a: Trình độ học vấn, trình độ chuyên môn, trình độ tin học và trình độ
lý luận của công chức xã huyện Lục Nam giai đoạn 2014-2016 ...................... 41
Bảng 2.3.2b: Trình độ quản lý nhà nước của công chức xã năm 2016 .............. 43


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong hệ thống chính quyền bốn cấp hoàn chỉnh của Nhà nước ta, chính
quyền cấp xã có một vị trí quan trọng, là “cầu nối” giữa nhân dân với Đảng và
Nhà nước. Chính quyền cấp xã mạnh hay yếu, việc làm của chính quyền tốt hay
không tốt, đúng hay sai đều có tác động trực tiếp đến hiệu lực, hiệu quả của việc
thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước, ảnh
hưởng đến sự vững mạnh của chính quyền. Do đó, ở bất cứ thời kỳ lịch sử nào
của công cuộc xây dựng đất nước, Việt Nam đã, đang và sẽ quan tâm đến việc
xây dựng chính quyền cơ sở vững mạnh. Các công việc của chính quyền cấp xã

thực hiện chủ yếu thông qua đội ngũ công chức cấp xã. Công chức cấp xã là
những người thường xuyên, trực tiếp quan hệ với nhân dân, trực tiếp tổ chức
triển khai thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và thi hành pháp luật
của Nhà nước tại cơ sở, là tấm gương để nhân dân học tập, làm theo và có tác
động trực tiếp đến lòng tin của nhân dân với Đảng và Nhà nước.
Công cuộc đổi mới đất nước ta trải qua hơn 30 năm qua đã đạt được
những thành tựu quan trọng cả về chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội, an ninh,
quốc phòng, nhất là ở cơ sở. Trong những thành tựu đó có sự đóng góp tích cực
của đội ngũ công chức cấp xã. Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước, hội nhập quốc tế, đặc biệt là yêu cầu tăng cường pháp chế, xây dựng Nhà
nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa đòi hỏi đội ngũ công chức nói
chung, trong đó có đội ngũ công chức cấp xã phải biết được vị trí, vai trò, quyền
lợi, nghĩa vụ, trách nhiệm của mình để ngày càng nâng cao, hoàn thiện chất
lượng công việc cũng như ngày càng nâng cao lý luận chính trị của bản thân từ
đó đạt được nhiều thành tựu góp phần phát triển xã nhà ngày càng vững mạnh.
Đội ngũ công chức cấp xã có vai trò hết sức quan trọng trong xây dựng và
hoàn thiện bộ máy chính quyền cơ sở, trong hoạt động thi hành công vụ. Hiệu
lực, hiệu quả của bộ máy chính quyền cấp xã nói riêng và hệ thống chính trị nói

1


chung, xét đến cùng được quyết định bởi phẩm chất, năng lực và hiệu quả công
tác của đội ngũ cán bộ, công chức cơ sở. Có thể nói, đây là vấn đề đặc biệt quan
trọng đã được Đảng và Nhà nước quan tâm trong suốt quá trình từ khi xây dựng
Nhà nước dân chủ nhân dân đến nay. Cấp cơ sở là cấp trực tiếp thực hiện mọi
chủ trương đường lối của Đảng và pháp luật của nhà nước trong thực tế. Pháp
luật của Nhà nước có được thực thi tốt hay không, có hiệu quả hay không hiệu
quả, một phần quyết định là ở cơ sở. Cấp cơ sở trực tiếp gắn với quần chúng; tạo
dựng các phong trào cách mạng quần chúng. Công chức cấp xã góp phần quyết

định sự thành bại của chủ trương đường lối và nhiệm vụ chính trị của Đảng và
Nhà nước, không có đội ngũ công chức cơ sở vững mạnh thì dù đường lối, chủ
trương chính trị có đúng đắn cũng khó biến thành hiện thực. Công chức cấp xã
là những người gần dân nhất, sát dân nhất. Trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ
của mình, họ là những người trực tiếp truyền tải pháp luật đến với nhân dân
thông qua giải quyết các công việc liên quan tới quyền và lợi ích của nhân dân,
đồng thời cũng là người thấu hiểu nhất những tâm tư nguyện vọng của nhân dân,
những vướng mắc, bất cập của chính sách, pháp luật khi áp dụng chúng trong
thực tế. Chủ trương, chính sách, pháp luật dù có đúng đắn đến mấy nhưng sẽ
khó có được hiệu lực, hiệu quả cao nếu như không được triển khai thực hiện bởi
một đội ngũ công chức xã có năng lực pháp luật tốt. Tuy nhiên, trên thực tế, do
nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan, năng lực pháp luật của công chức
cơ sở nhìn chung còn hạn chế; một số công chức chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu
của nhiệm vụ, nhất là trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, mở
rộng dân chủ và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do
dân và vì dân. Chính vì đội ngũ công chức cấp xã có vai trò quan trọng như vậy
nên việc xây dựng đội ngũ công chức cấp xã vững vàng về chính trị, có đạo đức
trong sạch về lối sống, có trí tuệ, kiến thức và trình độ năng lực để thực hiện các
nhiệm vụ được giao luôn là mối quan tâm hàng đầu của Đảng và Nhà nước ta.
Nghị quyết 3 Trung ương 5 khóa IX đã nhấn mạnh vai trò quan trọng của hệ
thống chính trị và đội ngũ công chức xã đối với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
2


đại hóa phát triển đất nước. Đầu tư xây dựng đội ngũ công chức cấp xã có phẩm
chất, đạo đức và năng lực ngang tầng sự nghiệp đổi mới mang ý nghĩa như sự
đầu tư cho hạ tầng cơ sở trong công tác cán bộ. Do vậy, nâng cao năng lực cho
công chức cấp xã là một yêu cầu bức thiết nhằm góp phần xây dựng đội ngũ
công chức cấp xã trong sạch, vững mạnh, đủ khả năng thực thi chức năng,
nhiệm vụ theo đúng pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ

chức, để thực hiện trọng trách là “công bộc” của nhân dân.
Huyện Lục Nam là một huyện miền núi của tỉnh Bắc Giang, với diện tích
598,16km2, địa hình phức tạp. Mặc dù tình hình chính trị-an ninh, trật tự xã hội
tương đối ổn định, kinh tế tăng trưởng với tốc độ cao, song nhìn chung nền kinh
tế của huyện chủ yếu vẫn là nông nghiệp, nguồn thu ngân sách hạn hẹp, GDP
bình quân đầu người thấp hơn nhiều so với bình quân chung của cả nước. Nhiệm
vụ phát triển kinh tế - xã hội của huyện đặt ra yêu cầu ngày càng cao đối với đội
ngũ công chức nói chung, đặc biệt đối với công chức cấp xã nói riêng, bởi lẽ đây
là đội ngũ công chức của hệ thống chính trị ở cơ sở trực tiếp lãnh đạo, tổ chức
thực hiện các chỉ thị, nghị quyết của Đảng; chính sách, pháp luật của Nhà nước
trên địa bàn huyện.
Tuy nhiên, một thực tế khách quan đội ngũ công chức xã của huyện hiện
nay chất lượng còn thấp (đặc biệt đối với các xã miền núi) chưa tương xứng với
vai trò, vị trí của họ cũng như chức trách của các chức danh do nhà nước quy
định. Điều này đã gây ảnh hưởng không nhỏ tới hiệu lực, hiệu quả hoạt động
của chính quyền cơ sở nói riêng và của Đảng và nhà nước nói chung; tình trạng
bất ổn cục bộ ở một số địa phương, làm suy giảm niềm tin của người dân đối với
Đảng và Nhà nước. Để có một đội ngũ công chức cấp xã trên địa bàn tỉnh có
chất lượng, đảm bảo “vừa hồng, vừa chuyên” hết lòng phụng sự nhân dân, giữ
gìn đoàn kết ở cơ sở, “có năng lực tổ chức và vận động quần chúng nhân dân
thực hiện đường lối của Đảng, pháp luật của nhà nước, công tâm, thạo việc, tận
tụy với dân, biết phát huy sức dân, không tham nhũng, không ức hiếp dân”, tăng
uy tín của Đảng và nhà nước với nhân dân đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước
3


pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân đã đặt ra nhiều vấn đề lí luận, pháp
lý cần phải giải đáp thấu đáo, có căn cứ khoa học và thực tiễn. Vì vậy, việc
nghiên cứu đề tài: “Địa vị pháp lý hành chính của công chức xã - từ thực tiễn
huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang” là yêu cầu tất yếu khách quan, cấp thiết cả về

lí luận và thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu
Vấn đề công chức cấp xã là vấn đề được sự quan tâm của nhiều nhà
nghiên cứu, nhiều nhà quản lý. Có thể kể một số công trình nghiên cứu có những
liên quan nhất định đến nội dung của đề tài như sau:
- PGS. TS. Nguyễn Phú Trọng, Trần Xuân Sầm (2001), Luận cứ khoa học
cho việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
- Lê Thị Lý (2003), Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức xã trước yêu cầu
đổi mới, Luận văn thạc sĩ Luật học, Đại học Quốc gia, Hà Nội.
- TS. Nguyễn Minh Phương (2003), “Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức
cơ sở đáp ứng yêu cầu của thời kỳ mới”, Tạp chí Lý luận chính trị, (số 7).
- Nguyễn Hữu Đức (2003), “Từ đặc điểm, tính chất đội ngũ cán bộ, công
chức cơ sở để xây dựng chế độ, chính sách phù hợp”, Tạp chí Tổ chức Nhà
nước, (số 8).
- Lê Đình Vĩ (2005), Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức
chính quyền cấp xã miền núi đặc biệt khó khăn trên địa bàn tỉnh Bắc Giang hiện
nay, Luận văn thạc sĩ Luật học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà
Nội.
- TS. Nguyễn Minh Sản (2009), Pháp luật về cán bộ, công chức chính
quyền cấp xã ở Việt Nam hiện nay – những vấn đề lý luận và thực tiễn, Sách
chuyên khảo, Nxb Chính trị - Hành chính, Hà Nội.
- Châu Nam Trung (2009), Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã ở
tỉnh Cà Mau hiện nay, Luận văn thạc sĩ Luật học, Học viện Chính trị Hành
chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
4


- Nguyễn Thanh Tuyền (2009), Chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức
chính quyền cấp xã trên địa bàn tỉnh Điện Biên hiện nay, Luận văn thạc sĩ Luật

học, Học viện Chính trị Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
- Nguyễn Thị Phương Thảo (2010), Chất lượng cán bộ, công chức cấp xã
của tỉnh Tuyên Quang, Luận văn thạc sĩ Luật học, Học viện Chính trị Hành
chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
- Trần Thị Hạnh (2017), Pháp luật về công chức cấp xã ở Việt Nam hiện
nay”, Luận án tiến sĩ Luật học, Học viện khoa học xã hội. Viện Hàn lâm khoa
học xã hội Việt Nam.
Những công trình nghiên cứu trên đã có những đóng góp về mặt lý luận
và thực tiễn đối với đề tài. Tuy nhiên, học viên thấy rằng đến nay chưa có đề tài
nào đi sâu nghiên cứu về địa vị pháp lý hành chính của công chức cấp xã nói
chung và địa vị pháp lý hành chính hành chính của công chức xã gắn với địa
phương cụ thể là huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang. Do đó đề tài: “Địa vị pháp lý
hành chính của công chức xã - từ thực tiễn huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang”
là một đề tài không trùng lặp, mang tính lý luận và thực tiễn cao, đòi hỏi cần
được nghiên cứu một cách có hệ thống và đầy đủ hơn.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu cơ sở lý luận về địa vị pháp lý hành chính qua thực trạng địa
vị pháp lý hành chính của công chức xã ở huyện Lục Nam. Đề xuất phương
hướng, giải pháp bảo đảm, phát huy địa vị pháp lý hành chính của công chức xã
nói chung và của huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang nói riêng.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện được mục đích trên đây, đề tài có nhiệm vụ:
- Hệ thống hóa, phân tích làm rõ những vấn đề lý luận về địa vị pháp lý
hành chính của công chức cấp xã.
- Phân tích, đánh giá thực trạng thể hiện địa vị pháp lý hành chính của
công chức xã ở huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang để chỉ ra những ưu điểm, hạn
5



chế, nguyên nhân, những yếu tố ảnh hưởng đến địa vị pháp lý hành chính của
công chức nói chung, địa vị pháp lý hành chính của công chức xã trên địa bàn
huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang nói riêng.
- Đề xuất phương hướng và giải pháp cơ bản nhằm bảo đảm, phát huy địa
vị pháp lý hành chính của công chức xã nói chung và địa vị pháp lý hành chính
của công chức xã ở huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những quy định của pháp luật thể hiện
địa vị pháp lý hành chính của công chức cấp xã, làm rõ hệ thống các chức danh,
chức trách, nhiệm vụ, quyền hạn, trình độ năng lực, khả năng công tác trên cơ
cở đó đề xuất các giải pháp đảm bảo và phát huy địa vị pháp lý hành chính của
công chức xã.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Thời gian nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu giai đoạn từ năm
2012 đến năm 2017
- Về nội dung: Những quy định của pháp luật về vị trí, tính chất, chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn của công chức cấp xã.
- Về không gian: Nghiên cứu trên địa bàn huyện Lục Nam, tỉnh Bắc
Giang
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh và quan điểm, chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam về “Đổi mới
và nâng cao địa vị pháp lý của hệ thống chính trị ở cơ sở”. Luận văn có kế thừa
và phát triển những giải pháp bảo đảm và phát huy địa vị pháp lý của công chức
ở cơ sở của các công trình khoa học có liên quan.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu bằng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật
6



biện chứng và duy vật lịch sử cùng các phương pháp cụ thể khác như phương
pháp hệ thống, phân tích, tổng hợp, so sánh, gắn lý luận với thực tiễn và dự báo
để chọn lọc tri thức khoa học cũng như kinh nghiệm thực tiễn về địa vị pháp lý
hành chính của công chức cấp xã.
6. Những đóng góp và ý nghĩa của luận văn
- Làm rõ khái niệm, đặc điểm, vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn và nghĩa vụ của chức xã; hệ thống các chức danh, chức trách, cơ cấu, trình
độ năng lực của công chức xã; các yếu tố ảnh hưởng đến địa vị pháp lý hành
chính của công chức cấp xã;
- Đánh giá thực trạng công chức xã qua thực tế huyện Lục Nam, tỉnh Bắc
Giang giai đoạn từ năm 2012-2016. Với những kết quả nghiên cứu bước đầu về
địa vị pháp lý hành chính của công chức xã để đề xuất phương hướng và giải
pháp nhằm bảo đảm, phát huy địa vị pháp lý hành chính của công chức xã nói
chung và ở huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang nói riêng, góp phần vào công cuộc
cải cách hành chính của huyện như:
+ Biên chế đủ số lượng công chức cấp xã đáp để ứng yêu cầu công việc;
+ Có chế độ lương, phụ cấp và các chính sách ưu tiên, ưu đãi đối với công
chức xã đặc biệt là đối với các đơn vị vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó
khăn;
+ Xây dựng bộ tiêu chuẩn (trên cơ sở tiêu chuẩn chung của nhà nước)
+ Thực hiện luân chuyển công chức về làm việc tại xã;
+ Có chính sách thu hút người có trình độ đại học trở lên và người trẻ tuổi
về làm việc ở cấp xã, đồng thời hỗ trợ đối với các công chức chưa đạt chuẩn;
mạnh dạn giải quyết chế độ đối với công chức xã có năng lực, trình độ, sức khỏe
không đảm bảo thực hiện nhiệm vụ của địa phương;
+ Xây dựng chiến lược, quy hoạch công chức xã đảm bảo khoa học, hợp
lý, phù hợp với thực tiễn của tỉnh;
+ Đào tạo, đào tạo lại, bồi dưỡng đối với công chức xã nâng cao trình độ

và kỹ năng đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao.

7


Từ những hạn chế, bất cập về địa vị pháp lý hành chính của công chức xã
ở huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang hiện hành, luận văn đã chỉ ra và phân tích kỹ
các nguyên nhân để làm cơ sở cho việc đề xuất các giải pháp hoàn thiện.
Các kết quả nghiên cứu của luận văn cũng có thể được sử dụng làm tài
liệu tham khảo cho học tập và nghiên cứu, cho các cơ quan quản lý nhà nước,
cho các tổ chức và cá nhân.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, luận văn được chia thành 3 chương:
Chương 1. Những vấn đề lý luận về địa vị pháp lý hành chính của công
chức cấp xã.
Chương 2. Thực trạng địa vị pháp lý hành chính của công chức xã trên địa
bàn huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang.
Chương 3. Phương hướng và giải pháp bảo đảm, phát huy địa vị pháp lý
hành chính của công chức cấp xã trong giai đoạn hiện nay.

8


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐỊA VỊ PHÁP LÝ HÀNH CHÍNH
CỦA CÔNG CHỨC CẤP XÃ
1.1. Khái quát chung về chính quyền cấp xã và công chức cấp xã
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm, vị trí, vai trò của chính quyền cấp xã trong
hệ thống chính quyền nhà nước
1.1.1.1. Khái niệm về chính quyền cấp xã

Theo quy định của pháp luật hiện hành, các đơn vị hành chính lãnh thổ của
nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam được phân định như sau: Theo
Điều 110 Hiến pháp 2013: “Các đơn vị hành chính của nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam được phân định như sau: Nước chia thành tỉnh, thành phố
trực thuộc trung ương; Tỉnh chia thành huyện, thị xã và thành phố thuộc tỉnh;
thành phố trực thuộc trung ương chia thành quận, huyện, thị xã và đơn vị hành
chính tương đương; Huyện chia thành xã, thị trấn; thị xã và thành phố thuộc
tỉnh chia thành phường và xã; quận chia thành phường”.
Như vậy, các đơn vị hành chính lãnh thổ của Việt Nam được chia thành
bốn cấp: cấp trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã. Thuật ngữ cấp xã được sử
dụng chung cho cả xã, phường, thị trấn. Cấp xã là cấp chính quyền địa phương
thấp nhất trong hệ thống chính quyền địa phương ở nước ta hiện nay, nhưng có
vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng, là nền tảng của bộ máy Nhà nước, là chỗ dựa,
là công cụ sắc bén để thực hiện và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, làm cơ
sở cho chiến lược ổn định và phát triển đất nước, là yếu tố chi phối mạnh mẽ,
trực tiếp đến đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của cộng đồng dân cư
trên địa bàn. Có thể nói, cấp xã có vai trò đặc biệt quan trọng không chỉ trong cơ
cấu tổ chức quyền lực Nhà nước mà còn là yếu tố chi phối mạnh mẽ đời sống
chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của các cộng đồng dân cư và toàn thể người
dân trong xã; là cầu nối giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân, là mắt xích quan
trọng trong cơ chế thực hiện quyền lực nhân dân. Mọi chủ trương, chính sách,

9


pháp luật của Đảng và Nhà nước đều phải thực hiện ở cấp xã. Vì thế, chính
quyền xã là nơi trực tiếp thực hiện và kiểm nghiệm sự đúng đắn của mọi chủ
trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Khi và chỉ khi
chính quyền xã tổ chức tốt việc thực hiện chủ trương, chính sách thì các chính
sách, pháp luật mới đi vào cuộc sống, mới phát huy được hiệu lực, hiệu quả.

Trên cơ sở đó, chính quyền xã đề ra các biện pháp tổ chức thực hiện sao cho phù
hợp với đặc điểm của địa phương mình, góp phần thực hiện thành công chủ
trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Đồng thời cấp xã có vai trò quyết định trong việc đảm bảo thực hiện dân
chủ, đảm bảo Nhà nước ta là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân
dân. Đây cũng chính là địa bàn lý tưởng để thực hiện phương châm: “Dân biết,
dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” một cách đơn giản nhất, song lại dễ làm, dễ
nhận biết và kiểm tra. Là cấp chính quyền trực tiếp liên hệ với dân, giải quyết
các công việc của dân, lắng nghe ý kiến, nguyện vọng của dân, gắn bó với đời
sống nhân dân, nên chính quyền xã có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc phát
huy dân chủ của nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “Cấp xã là gần
gũi dân nhất, là nền tảng của hành chính. Cấp xã làm được việc thì mọi việc đều
xong xuôi” [23,tr 371]. Về phương diện lý luận cũng như thực tiễn, hiệu quả và
sức mạnh của Nhà nước không chỉ phụ thuộc vào cách thức tổ chức quyền lực
Nhà nước ở trung ương mà còn phụ thuộc rất nhiều vào cách thức tổ chức, thực
thi quyền lực ở chính quyền cấp cơ sở nói chung cũng như chính quyền xã nói
riêng.
1.1.1.2. Vị trí, vai trò, đặc điểm của chính quyền cấp xã
Chính quyền cấp xã là cầu nối, là nơi giao lưu trực tiếp giữa Nhà nước và
nhân dân, đồng thời cấp cơ sở là nơi biểu hiện tập trung nhất, rõ nhất những ưu
việt hay hạn chế của chế độ xã hội chủ nghĩa. Hồ Chí Minh đã dạy: “Cấp xã là
cấp gần dân nhất, là nền tảng của hành chính. Cấp xã làm được thì mọi việc đều
xong xuôi”[23,tr 371]. Chính vì vậy, chất lượng hoạt động của chính quyền cấp
xã ảnh hưởng trực tiếp đến uy tín, lòng tin của nhân dân với Đảng và Nhà nước.
10


Chính quyền cấp xã là nơi thể hiện tính hiệu lực, hiệu quả của chủ trương,
đường lối, chính sách pháp luật của Đảng và Nhà nước. Đây là nơi trực tiếp thực
thi, kiểm nghiệm và phản ánh tính hiệu lực, hiệu quả của hệ thống thể chế, chính

sách. Do đó, chất lượng của hệ thống thể chế chính sách phụ thuộc vào chất
lượng hoạt động của chính quyền cấp xã.
Chính quyền cấp xã trực tiếp quản lý các hoạt động kinh tế - xã hội của
địa phương. Những vấn đề của địa phương mà chính quyền cấp xã có thẩm
quyền giải quyết thì chính quyền cấp xã đại diện cho nhân dân địa phương trực
tiếp giải quyết.
Chính quyền cấp xã là nơi thể hiện đồng thời phản ánh tâm tư nguyện
vọng và lợi ích của nhân dân địa phương. Mọi chủ trương, đường lối, chính sách
đều được xuất phát từ cơ sở và hướng về cơ sở. Không ai khác ngoài chính
quyền cấp xã hiểu rõ và đảm nhận vai trò thu thập, phản ánh tâm tư nguyện
vọng của nhân dân địa phương; đồng thời giúp Nhà nước đề ra các biện pháp tổ
chức, quản lý phù hợp với đặc điểm của một địa phương, đảm bảo quyền và lợi
ích hợp pháp của nhân dân địa phương.
1.1.2. Khái niệm, đặc điểm, vị trí, vai trò của công chức cấp xã
Để đưa ra khái niệm về công chức cấp xã, trước hết cần phải tiếp cận nó
như một bộ phận cấu thành của hệ thống công chức Nhà nước. Hay nói cách
khác, cần phải tìm hiểu quan niệm về công chức nói chung. Công chức là khái
niệm mang tính chính trị - pháp lý, mỗi quốc gia, hay ở mỗi thời kỳ phát triển
của một quốc gia nhất định cũng có quan niệm khác nhau về công chức. Mặc dù
chế độ công vụ đã tồn tại và phát triển đã trên 3 thế kỷ tính từ thời điểm xuất
hiện thuật ngữ công chức vào năm 1859 ở Anh nhưng cho đến nay vẫn chưa có
một quan niệm thống nhất về công chức cho tất cả các quốc gia trên thế giới. Sự
khác nhau này bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân khác nhau như: lịch sử sự tồn tại
và phát triển của nền hành chính quốc gia; điều kiện kinh tế - xã hội mà trên đó
pháp luật được hình thành; quan điểm của các nhà lập pháp trong việc đánh giá
sử dụng các thành tựu của khoa học pháp lý...
11


Ở các quốc gia khác nhau, phạm vi công chức cũng được xác định không

thống nhất, như tại Hoa Kỳ, các thẩm phán, các nghị sĩ không thuộc phạm vi
công chức [35, tr.16]; tại Pháp, các thẩm phán thường lại thuộc hệ thống công
chức [38, tr.371].
Công chức là những người làm công tác chuyên môn nghiệp vụ trong bộ
máy hành chính của các bộ thuộc Chính phủ. Như vậy, những đối tượng khác
tuy làm việc ở bộ nhưng không trực tiếp làm công tác chuyên môn nghiệp vụ
theo chức năng quản lý của bộ thì không phải là công chức và cũng theo quan
niệm về công chức như vậy thì những người làm việc trong bộ máy của chính
quyền địa phương cũng không phải là công chức (Anh, Thái -lan, Xin-ga-po...);
Công chức không chỉ là những người thực hiện các hoạt động chuyên
môn nghiệp vụ quản lý trong bộ máy hành chính của các bộ (trung ương) mà
còn bao gồm cả những người làm công tác chuyên môn nghiệp vụ quản lý trong
bộ máy hành chính thuộc chính quyền của các địa phương (Nga, Trung Quốc,
Ba Lan, Hung-ga-ri...);
Khác với các quan niệm đã nêu trên, một số nước xác định phạm vi công
chức bao gồm cả những người thực thi công vụ tại các tổ chức cung ứng dịch vụ
công hoặc cả ngành lập pháp, tư pháp (Đức, Hà Lan, Tây Ban Nha...).
Ở Việt Nam, trong khoa học pháp lý hiện nay có khá nhiều quan điểm về
công chức, chẳng hạn như: “công chức là những người làm việc trong cơ quan
nhà nước” [35, tr.11], hoặc “công chức là những người làm việc trong các cơ
quan Nhà nước hoặc các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội được
hưởng lương từ ngân sách nhà nước” [32, tr.58-59] và có quan điểm cho rằng
"công chức là người đại diện cho Nhà nước để thực thi quyền hành pháp" [41,
tr.16]. Trong các quy định pháp luật Việt Nam mỗi thời kỳ quan niệm về công
chức cũng có điểm khác nhau:
Quan niệm về công chức đã được xác định lần đầu tiên tại Sắc lệnh 76/SL
ngày 20-5-1950 về Quy chế công chức. Lời nói đầu của Sắc lệnh 76 đã quan
niệm công chức là "những công dân giữ một nhiệm vụ trong bộ máy Nhà nước
12



của chính quyền nhân dân, dưới sự lãnh đạo tối cao của Chính phủ". Điều 1 Sắc
lệnh 76 đã đưa ra định nghĩa về công chức như sau: "Những công dân Việt Nam
được chính quyền nhân dân tuyển để giữ một chức vụ thường xuyên trong các
cơ quan Chính phủ, ở trong hay ở ngoài nước, đều là công chức theo Quy chế
này, trừ những trường hợp riêng biệt do Chính phủ định". Với cách hiểu như
vậy thì công chức được xác định chủ yếu dựa vào yếu tố: giữ một nhiệm vụ nhất
định trong cơ quan của Chính phủ. Như vậy là phạm vi công chức so với quy
định ngày nay là rất hẹp.
Ngày 13/11/2008, Quốc hội Việt Nam đã thông qua Luật Cán bộ, công
chức, tại khoản 2 của Điều 4 quy định: “Công chức là công dân Việt Nam, được
tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch, chức vụ, chức danh trong cơ quan của Đảng
Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương, cấp tỉnh,
cấp huyện; trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân mà không phải là sĩ
quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng; trong cơ quan, đơn vị
thuộc Công an nhân dân mà không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp và
trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập của Đảng Cộng
sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội (sau đây gọi chung là đơn vị
sự nghiệp công lập), trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước; đối
với công chức trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập thì
lương được bảo đảm từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định
của pháp luật”.
Khái niệm “công chức” trên đây được Luật Cán bộ, công chức 2008 phân
biệt với khái niệm “công chức cấp xã”. Tại Khoản 3, Điều 4 của Luật Cán bộ,
công chức năm 2008 quy định: “Công chức cấp xã là công dân Việt Nam được
tuyển dụng giữ một chức danh chuyên môn, nghiệp vụ thuộc Ủy ban nhân dân
cấp xã, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước”.
Từ khái niệm trên, có thể nhận diện công chức cấp xã qua các đặc điểm
sau đây:
Thứ nhất, là công dân Việt Nam. Theo quy định của Luật Quốc tịch, công

13


dân Việt Nam là người mang quốc tịch Việt Nam.
Thứ hai, con đường hình thành: được tuyển dụng giữ một chức danh
chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân. Nghị định số 92/2009/NĐ-CP ngày
22/10/2009 của Chính phủ “Về chức danh, số lượng, một số chế độ, chính sách
đối với cán bộ, công chức ở xã, phường, thị trấn và những người hoạt động
không chuyên trách ở cấp xã”, thì công chức cấp xã gồm bẩy chức danh cụ thể
sau : Trưởng Công an; Chỉ huy trưởng Quân sự; Văn phòng – thống kê; Địa
chính - xây dựng - đô thị và môi trường (đối với phường, thị trấn) hoặc địa
chính - nông nghiệp - xây dựng và môi trường (đối với xã); Tài chính - kế toán;
Tư pháp - hộ tịch; Văn hóa - xã hội.
Thứ ba, về tính chất công việc của công chức: Công chức là người làm
việc thường xuyên trong các cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội nhất định và có
tính chuyên môn nghiệp vụ rõ rệt. Tính thường xuyên thể hiện ở việc tuyển dụng
là không giới hạn về thời gian. Khi đã được tuyển dụng vào một ngạch, chức
danh, chức vụ thì một người là công chức sẽ làm việc thường xuyên, liên tục,
không gián đoạn về mặt thời gian.Tính chuyên môn nghiệp vụ được thể hiện là
công chức được xếp vào một ngạch. Ngạch là tên gọi thể hiện thứ bậc về năng
lực và trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của công chức. Ngạch công chức bao
gồm: chuyên viên cao cấp và tương đương; chuyên viên chính và tương đương;
chuyên viên và tương đương; cán sự và tương đương; nhân viên.
Thứ tư, về nguồn trả lương: công chức là những người trong biên chế và
hưởng lương từ ngân sách nhà nước.
Từ khái niệm và đặc điểm công chức cấp xã theo quy định pháp luật hiện
hành, có thể thấy có hai vấn đề nảy sinh:
Một là, nếu so sánh các khái niệm “công chức cấp xã” và “công chức” thì
thấy về cơ bản là có các dấu hiệu giống nhau, chỉ khác về đơn vị hành chính lãnh thổ mà họ công tác. Việc xác định cụ thể các chức danh của công chức cấp
xã cũng như tách biệt thuật ngữ cán bộ với công chức là một bước tiến của pháp

luật Việt Nam. Tuy nhiên, việc pháp luật có sự phân tách thành hai khái niệm:
14


công chức và công chức cấp xã liệu có cần thiết không? Luật Cán bộ, công chức
2008 xây dựng riêng hai khái niệm công chức và công chức cấp xã, đồng thời
quy định tại Chương IV Công chức ở trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện và
Chương V: Cán bộ, công chức cấp xã đã thể hiện sự phân hóa hai nhóm đối
tượng riêng biệt. Nếu quy định như vậy, công chức cấp xã sẽ nằm ngoài hệ
thống công chức nói chung. Đồng thời cũng thể hiện sự phân biệt trong “đối xử”
giữa hai nhóm này. Lâu nay trong quan niệm xã hội, trong hệ thống công chức
thì công chức cấp xã vẫn có sự nhìn nhận là “kém” hơn công chức cấp huyện,
tỉnh, trung ương cả về chất lượng và vị thế. Về mặt lý luận và thực tiễn là không
phù hợp. Bởi lẽ những đặc điểm chung nhất thì công chức và công chức đều
tương đồng, chỉ khác về địa bàn công tác. Trong tư duy xã hội và tư duy quản lý
cần có sự nhìn nhận lại vai trò, vị trí và yêu cầu đối với công chức cấp xã. Vì
vậy, cần hợp nhất hai khái niệm công chức và công chức cấp xã thành một sẽ
tránh được sự phân biệt giữa hai nhóm đối tượng này, đồng thời góp phần hình
thành tư duy mới trong nhìn nhận vị trí, vai trò của công chức cấp xã.
Hai là, từ khái niệm công chức cấp xã theo Luật Cán bộ, công chức năm
2008, chúng ta có thể thấy công chức cấp xã là người được hình thành thông qua
con đường tuyển dụng. Tuy nhiên, theo Nghị quyết số 735/2009/NQ-UBTVQH
do Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành ngày 16 tháng 01 năm 2009 về việc
Điều chỉnh nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ương và quy định nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức bộ
máy của Ủy ban nhân dân huyện, quận, phường nơi không tổ chức Hội đồng
nhân dân huyện, quận, phường thì chức vụ: Chủ tịch, các Phó Chủ tịch Ủy ban
nhân dân phường nơi không tổ chức Hội đồng nhân dân do Chủ tịch Ủy ban
nhân dân cấp huyện bổ nhiệm có thời hạn thường là 5 năm chứ không theo
nhiệm kỳ. Tại Điểm b, Khoản 2, Điều 6 của Nghị định số 06/2010/NĐ-CP ngày

25 tháng 01 năm 2010 quy định công chức trong cơ quan hành chính ở cấp tỉnh,
cấp huyện gồm: “Chủ tịch, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân quận, huyện, Chánh
văn phòng, Phó Chánh văn phòng và người làm việc trong văn phòng Ủy ban
15


nhân dân quận, huyện nơi thí điểm không tổ chức Hội đồng nhân dân”. Như vậy,
Chủ tịch, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện là công chức do họ được bổ
nhiệm có thời hạn. Tương tự như vậy thì Chủ tịch, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân
dân cấp xã nơi không tổ chức Hội đồng nhân dân cũng phải là công chức. Như
vậy, con đường hình thành công chức cấp xã không chỉ thông qua tuyển dụng
mà còn có cả bổ nhiệm.
Xuất phát từ vị trí quan trọng của cấp xã trong bộ máy Nhà nước hiện
nay, vai trò của đội ngũ công chức cấp xã càng được chú trọng hơn bao giờ hết.
Bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Đảng ta luôn xác
định, con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển kinh tế - xã
hội. Trong đó, “Cán bộ là nhân tố quyết định đến sự thành bại của cách mạng
gắn liền với vận mệnh của Đảng, của đất nước, của chế độ, là khâu then chốt
trong công tác xây dựng Đảng” [11,tr 269] .
Thực tế cho thấy, đội ngũ cán bộ cơ sở có vai trò rất quan trọng trong việc
thực hiện chức năng làm cầu nối giữa Đảng với nhân dân, giữa công dân với
Nhà nước. Sở dĩ như vậy vì họ là những cán bộ trực tiếp tuyên truyền. phổ biến,
vận động và tổ chức nhân dân thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của
Đảng, pháp luật của Nhà nước trên địa bàn dân cư, giải quyết mọi nhu cầu của
dân cư, bảo đảm sự phát triển kinh tế của địa phương, duy trì trật tự, an ninh, an
toàn xã hội trên địa bàn cấp xã. Do tính chất công việc của cấp xã, họ vừa giải
quyết những công việc hàng ngày, vừa phải quán triệt các Nghị quyết, Chỉ thị
của cấp trên, lại phải nắm tình hình thực tiễn ở địa phương để từ đó đề ra kế
hoạch, chủ trương, biện pháp đúng đắn, thiết thực, phù hợp. Nhiệm vụ của họ rất
nặng nề, vai trò của họ có tính then chốt xét cả trong quan hệ giữa Đảng với dân,

giữa công dân với Nhà nước. Thực tế đã chứng minh, đội ngũ công chức cấp xã
có vai trò quan trọng trong việc phát huy sức mạnh của hệ thống chính trị, tạo
dựng các phong trào cách mạng của quần chúng, góp phần thực hiện thắng lợi
các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương. Sức mạnh của
hệ thống chính trị, sự ổn định của xã hội, sự phát triển sâu rộng và hiệu quả của
16


phong trào cách mạng của quần chúng luôn gắn liền với năng lực, phẩm chất
đạo đức của đội ngũ công chức cấp xã. Họ có khả năng tổ chức, tập hợp và huy
động mọi nguồn lực ở địa phương để thực hiện thắng lợi các mục tiêu phát triển
kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng ở cơ sở. Họ giữ vai trò quyết định năng lực
lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng, năng lực lãnh đạo và quản lý
của chính quyền cơ sở. Mọi đường lối chủ trương, chính sách, pháp luật của
Đảng và Nhà nước có thể thành hiện thực hay không nhất thiết phải thông qua
phong trào cách mạng của quần chúng. Tuy nhiên, các phong trào của quần
chúng nếu không có sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước rất dễ hoặc là
chệch định hướng chính trị hoặc là hiệu quả không cao do mang tính chất tự
phát. Do vậy, để phong trào hoạt động có hiệu quả, đội ngũ công chức cấp xã
phải thực sự là “thủ lĩnh”, có khả năng tổ chức, lôi cuốn, phát động phong trào,
có khả năng theo dõi, kiểm tra và nhân rộng các phong trào tốt, những cá nhân
điển hình, tiên tiến, biết khai thác tối đa nguồn lực vật chất, tinh thần nội lực ở
cơ sở. Hiệu lực của bộ máy quyền lực ở cơ sở cũng tùy thuộc trước hết vào năng
lực của đội ngũ cán bộ này.
Tóm lại, vai trò của công chức cấp xã được thể hiện qua các mối quan hệ
với đường lối, chính sách và pháp luật; với bộ máy chính quyền; với công việc
và với quần chúng nhân dân, cụ thể ở các điểm cơ bản sau:
- Đội ngũ công chức cấp xã góp phần quyết định sự thành bại của đường
lối và nhiệm vụ chính trị của Đảng và Nhà nước, là cầu nối giữa Đảng, Chính
phủ và quần chúng nhân dân.

- Đội ngũ công chức cấp xã là lực lượng “nòng cốt” trong quản lý và tổ
chức công việc ở cấp xã. Năng lực hoạt động của đội ngũ cán bộ, công chức
chính quyền cấp xã góp phần tạo nên sức mạnh và hiệu quả hoạt động của chính
quyền cơ sở.
- Công chức cấp xã là những người gần dân nhất, có vai trò trực tiếp bảo
đảm kỷ cương phép nước tại cơ sở, bảo vệ các quyền tự do dân chủ, quyền con

17


người, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, bảo đảm trật tự xã hội, ngăn
chặn các hành vi vi phạm pháp luật.
1.2. Những vấn đề chung về địa vị pháp lý hành chính của công chức
cấp xã
1.2.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò địa vị pháp lý hành chính của công
chức cấp xã
Công chức cấp xã là chức danh chuyên môn thuộc UBND cấp xã, có trách
nhiệm tham mưu, giúp UBND cấp xã thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn trên địa
bàn theo quy định của pháp luật. Như vậy, có thể hiểu, địa vị pháp lý hành chính
của công chức cấp xã là tổng thể các quy định của pháp luật về vị trí, vai trò,
nhiệm vụ, quyền hạn và nghĩa vụ pháp lý và các bảo đảm thực hiện công tác
chuyên môn được pháp luật quy định.
Địa vị pháp lý hành chính của công chức cấp xã xuất phát từ quy định của
pháp luật về vị trí, vai trò, các quyền lợi, nghĩa vụ, trách nhiệm và các bảo đảm
thực hiện các quyền và nghĩa vụ đó của công chức cấp xã.
Với một khái niệm như vậy, địa vị pháp lý hành chính của công chức cấp
xã được xác định trong hệ thống văn bản quy phạm pháp luật quy định về công
chức nói chung và công chức cấp xã nói riêng do cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền ban hành. Như vậy địa vị pháp lý hành chính của công chức cấp xã sẽ
được quy định trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật có thứ bậc khác nhau do

nhiều chủ thể ban hành. Bên cạnh việc quy định trong các văn bản như Hiến
pháp, Luật Cán bộ, công chức 2008 và các nghị định, thông tư về công chức cấp
xã, địa vị pháp lý hành chính của công chức cấp xã còn chịu sự điều chỉnh của
nhiều ngành luật khác như Luật Lao động điều chỉnh về tiền lương, thời gian
làm việc, Luật Hình sự quy định về xử lý hình sự khi công chức cấp xã vi phạm
pháp luật hình sự…. Ngoài ra còn rất nhiều văn bản dưới luật khác có tính chất
chuyên ngành bởi lẽ công chức cấp xã vừa chịu sự quản lý của Ủy ban nhân dân
về công tác tổ chức, biên chế vừa chịu sự hướng dẫn nghiệp vụ của cơ quan
chuyên môn cấp trên.
18


1.2.2. Hệ thống chức danh công chức cấp xã
Theo quy định tại Điều 4 Luật cán bộ, công chức (2008), Điều 3 Nghị
định 92/2009/NĐ-CP thì công chức xã là công dân Việt Nam được tuyển dụng
giữ một chức danh chuyên môn, nghiệp vụ thuộc Ủy ban nhân dân xã, trong
biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước. Bao gồm: Trưởng Công an,
Chỉ huy trưởng Quân sự, Văn phòng - thống kê, Địa chính - nông nghiệp - xây
dựng và môi trường, Tài chính - kế toán, Tư pháp - hộ tịch, Văn hóa - xã hội.
1.2.3. Chức trách, nhiệm vụ của công chức cấp xã
Hiện tại, việc quy định chức trách, nhiệm vụ của công chức cấp xã tại
Thông tư số 06/2012/TT-BNV ngày 30 tháng 10 năm 2012 của Bộ trưởng Bộ
Nội vụ như sau:
a. Nhiệm vụ của công chức Trưởng Công an xã
- Tham mưu, giúp Ủy ban nhân dân xã tổ chức thực hiện nhiệm vụ, quyền
hạn của Ủy ban nhân dân xã trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội trên
địa bàn theo quy định của pháp luật.
- Trực tiếp thực hiện các nhiệm vụ theo quy định của pháp luật về công an
xã và các văn bản có liên quan của cơ quan có thẩm quyền.
- Thực hiện các nhiệm vụ khác do Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã giao.

b. Nhiệm vụ của công chức Chỉ huy trưởng Quân sự
- Tham mưu, giúp Ủy ban nhân dân cấp xã tổ chức thực hiện nhiệm vụ,
quyền hạn của Ủy ban nhân dân cấp xã trong lĩnh vực quốc phòng, quân sự trên
địa bàn theo quy định của pháp luật.
- Trực tiếp thực hiện các nhiệm vụ theo quy định của pháp luật về dân
quân tự vệ, quốc phòng toàn dân, nghĩa vụ quân sự và các văn bản có liên quan
của cơ quan có thẩm quyền.
- Thực hiện các nhiệm vụ khác do Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã giao.
c. Nhiệm vụ của công chức Văn phòng - Thống kê
- Tham mưu, giúp Ủy ban nhân dân cấp xã tổ chức thực hiện nhiệm vụ,
quyền hạn của Ủy ban nhân dân cấp xã trong các lĩnh vực: Văn phòng, thống kê,
19


×