Tải bản đầy đủ (.pdf) (22 trang)

Quy chế pháp lý hành chính của viên chức nhà nước – Phần 2 docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (220.28 KB, 22 trang )

Quy chế pháp lý hành chính của viên
chức nhà nước – Phần 2


5. Trách nhiệm pháp lý của viên chức nhà nước trong trong hoạt động công
vụ
a) Quan niệm về trách nhiệm pháp lý của viên chức
Một đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp quyền là giữa Nhà nước và cá nhân công
dân có trách nhiệm qua lại. Viên chức Nhà nước vì vậy, có trách nhiệm trước nhân
dân về mọi quyết định và hành vi hành chính của mình.
Trách nhiệm viên chức được xem xét dưới hai bình diện khác nhau: trách nhiệm
tích cực (chủ động) và trách nhiệm tiêu cực (bị động).
Trách nhiệm chủ động
Trách nhiệm chủ động là trách nhiệm, bổn phận, nghĩa vụ của viên chức, phải
thực hiện trước nhà nước, trước nhân dân trên cơ sở qui định của pháp luật và
các nguyên tắc của quản lý hành chính nhà nước.
Bản chất Nhà nước ta là "Nhà nước của dân, do dân và vì dân. "Tuy nhiên, Nhà
nước cần làm những gì mà công dân không thể thực hiện được, nhằm đáp ứng, bảo
đảm sự ổn định phát triển xã hội. Chẳng hạn như: bảo vệ trật tự trị an, an toàn xã
hội, hoạch định chính sách phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, y tế, giáo dục, giao
thông - vận tải, an ninh - quốc phòng và thực hiện các dịch vụ hành chính. Trách
nhiệm của Nhà nước cũng chính là trách nhiệm của các nhà chính trị, các cán bộ
quản lý, viên chức. Khi không thực hiện các nghĩa vụ, bổn phận của mình, họ phải
chịu trách nhiệm chính trị, trách nhiệm đạo đức trước nhân dân, cộng đồng xã hội.
Hoạt động công vụ do các viên chức Nhà nước thực hiện khác với các lao động xã
hội khác, mang tính quyền lực Nhà nước, bắt nguồn từ quyền lực công, hoặc phục
vụ cho việc ban hành các quyết định quản lý Nhà nước, đáp ứng các dịch vụ của
dân. Nó tác động tới mọi mặt đời sống xã hội, trực tiếp hay gián tiếp động chạm
tới quyền, tự do, lợi ích công dân, hay cả cộng đồng. Khi thực thi công vụ, viên
chức phải lấy lợi ích của công dân, nhà nước, xã hội làm mục tiêu, căn cứ, tiêu
chuẩn cho hành vi của mình.


Ðể thực hiện công vụ, viên chức được trao những quyền hạn nhất định tương ứng
với chức vụ do họ đảm nhiệm. Những quyền hạn của họ là phương tiện công vụ
,tuy nhiên chức vụ không là đặc quyền của viên chức. ở khía cạnh tích cực, viên
chức Nhà nước có những nghĩa vụ sau:
- Giữ gìn kỷ luật cơ quan, kỷ luật Nhà nước, tôn trọng và chấp hành nghiêm chỉnh
pháp luật.
- Hoàn thành và chịu trách nhiệm cá nhân về chất lượng, khối lượng công việc của
mình, nâng cao hiệu quả công vụ.
- Bảo vệ công sản Nhà nước, tiết kiệm, chống lãng phí.
- Giữ gìn bí mật công vụ, bí mật Nhà nước.
- Ðấu tranh chống mọi biểu hiện vi phạm kỷ luật, pháp luật trong bộ máy Nhà
nước và ngoài xã hội.
- Chống mọi căn bệnh thường xảy ra của nền hành chính, tệ quan liêu, cửa quyền,
vô trách nhiệm, thờ ơ né tránh công việc, tham nhũng, bè phái
- Không được từ chối thực hiện các dịch vụ hành chính đối với công dân, cơ quan,
tổ chức mà không có căn cứ pháp lý.
- Không thực hiện những hoạt động mà pháp luật cấm thực hiện (công chức, thẩm
phán không được lập doanh nghiệp )
Tóm lại, ở khía cạnh tích cực, trách nhiệm của viên chức là yếu tố nội tâm, bên
trong, thái độ, tình cảm của họ đối với hoạt động công vụ.
Ðể nâng cao ý thức trách nhiệm trong công vụ của viên chức, cần tăng cường công
tác giáo dục chính trị, trao đổi, nâng cao trình độ văn hoá, pháp lý đối với họ, đồng
thời hoàn thiện pháp luật về công vụ, viên chức, công chức.
* Trách nhiệm thụ động
Khi các cơ quan Nhà nước, viên chức không thực hiện trách nhiệm tích cực, vi
phạm pháp luật gây thiệt hại cho công dân, tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế, họ
bước vào một quan hệ pháp luật mới và phải chịu những hậu quả bất lợi nhất định
về vật chất hoặc tinh thần. Ơớ khía cạnh thụ động trách nhiệm công vụ là sự phản
ứng của Nhà nước, cơ quan Nhà nước đối với cá nhân viên chức khi thực hiện một
hành vi trong quá trình thực thi công vụ trái pháp luật, hoặc quyết định của cơ

quan cấp trên gây thiệt hại, xâm phạm tới quyền, tự do, lợi ích hợp pháp của công
dân. Trách nhiệm thụ động thể hiện ở việc phải chịu áp dụng các chế tài pháp luật
tương ứng mà hậu quả là cơ quan, cá nhân viên chức gánh chịu những hậu quả
bất lợi, thiệt hại về vật chất, tinh thần do Toà hành chính có thẩm quyền thực hiện.
Tài phán hành chính là một chế định dựa trên cơ sở chế độ trách nhiệm của Nhà
nước trước công dân, có loại trừ chế độ đặc quyền, miễn trừ trách nhiệm của Nhà
nước trong các quyết định của mình trong phạm vi trách nhiệm công vụ của viên
chức nhà nước.
Tài phán hành chính là một hoạt động mang tính quyền lực Nhà nước do cơ quan
Nhà nước có thẩm quyền thực hiện, phán xét những khiếu kiện của công dân, tổ
chức kinh tế, tổ chức xã hội đối với cơ quan hành chính đã có những quyết định,
hoặc hành vi mà công dân cho là trái pháp luật hoặc xâm phạm tới quyền, tự do lợi
ích hợp pháp của họ.
Hoạt động xét xử của Toà án hành chính nhằm bảo vệ quyền, tự do, lợi ích hợp
pháp của công dân, bảo vệ pháp chế, trật tự pháp luật, bảo vệ những hành vi công
vụ của viên chức đúng pháp luật trong quá trình giải quyết các tranh chấp hành
chính giữa công dân với cơ quan hành chính Nhà nước.
6. Ðặc điểm của trách nhiệm viên chức trong hoạt động công vụ
Nếu trách nhiệm hình sự, trách nhiệm dân sự, trách nhiệm hành chính, trách nhiệm
lao động là các loại trách nhiệm được quy định rõ ràng trong các bộ luật, đạo luật;
thì trách nhiệm công vụ của viên chứ nói riêng hay trách nhiệm công vụ nói chung
không được quy định như vậy. Trách nhiêm công vụ được quy định trong nhiều
văn bản thuộc Luật hành chính. Luật hành chính là một ngành luật gồm tổng thể
các quy phạm pháp luật, nằm trong nhiều đạo luật và văn bản pháp quy (xét về số
lượng) trên các lĩnh vực quản lý khác nhau, nên hoạt động của các viên chức nhà
nước trong mỗi lĩnh vực quản lý Nhà nước rất khác nhau trong hoạt động công vụ.
Do đó, hiện tại chưa thể có một bộ luật hành chính để quy định, chế định pháp luật
về trách nhiệm công vụ.
+ Cơ sở của trách nhiệm viên chức trong hoạt động công vụ là hành vi vi phạm
pháp luật, gây thiệt hại trực tiếp về vật chất, quyền tự do, lơi ích hợp pháp của

công, tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế. Còn cơ sở của trách nhiệm hình sự là tội
phạm, cơ sở của trách nhiệm kỷ luật là vi phạm nội quy, quy chế, điều lệ, kỷ luật
+ Các biện pháp trách nhiệm viên chức trong hoạt động công vụ áp dụng theo thủ
tục hành chính hoặc tố tụng hành chính do cơ quan hành chính hoặc Tòa án hành
chính áp dụng.
+ Sử dụng các biện pháp hành chính để tác động buộc thực hiện để đảm bảo thực
hiện các biện pháp trách nhiệm viên chức trong công vụ (không sử dụng bộ máy
cưỡng chế chuyên trách của Nhà nước)
+ Các biện pháp trách nhiệm công vụ khác với các biện pháp trách nhiệm hình sự,
dân sự, kỷ luật và hành chính ở mục đích, đặc điểm và mức độ tác động.
+ Trách nhiệm viên chức trong hoạt động công vụ có mục đích chung là loại trừ
những vi phạm pháp luật trong lĩnh vực quản lý Nhà nước, bảo vệ pháp chế, kỷ
luật và trật tự pháp luật trong quản lý Nhà nước. Các biện pháp trách nhiệm công
vụ là phương tiện bảo vệ các quan hệ xã hội chủ nghĩa trước hành vi trái pháp luật,
góp phần bảo vệ trật tự kỷ cương, nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước.
+ Hành vi hành chính có rất nhiều loại từ hành vi lập quy của các cơ quan có thẩm
quyền đến các quyết định hành chính cá biệt cụ thể. Từ hành vi hành chính cụ thể
của viên chức khi thi hành công vụ đến hoạt động chỉ đạo điều hành của các cơ
quan hành chính Nhà nước. Như vậy, có rất nhiều loại hành vi hành chính khác
nhau, nhưng chỉ những hành vi nào trực tiếp gây thiệt hại, xâm phạm quyền tự do,
lợi ích của công dân, tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế (quyết định hành chính cụ thể,
hành vi hành chính cụ thể) mới là đối tượng khiếu kiện hành chính của công dân
và thuộc thẩm quyền phán xét của cơ quan tài pháp hành chính.
¨ Những hành vi của viên chức có thể bị coi là hành vi chịu trách nhiệm công vụ
gồm (Hành vi hành chính chịu trách nhiệm công vụ có thể là hành động hoặc
không hành động trái pháp luật).
- Hành vi hành chính trái pháp luật của Nhà nước hoặc các quyết định của cấp
trên.
- Hành vi hành chính vô quyền.
- Hành vi hành chính lạm quyền.

- Hành vi từ chối không thực hiện các công việc hành chính theo quy định của
pháp luật.
- Hành vi chậm trể trong công vụ gây thiệt hại cho công dân, tổ chức.
¨ Lỗi trong trách nhiệm công vụ :
Hoạt động của con người là hoạt động có ý thức. Khi hành động, một người bình
thường đều nhận thức được tính nguy hại cho xã hội của hành vi và thấy được hậu
quả của hành vi, hoặc theo quy định của pháp luật đều phải nhìn thấy trước hoặc
có thể nhìn thấy trước. Tất cả mọi hành vi hành chính do cơ quan hành chính, viên
chức Nhà nước thực hiện. Do vậy mọi hành vi vi phạm pháp luật trong quá trình
thi hành công vụ đều là hành vi có lỗi.
Có hai hình thức lỗi là : cố ý và vô ý.
Trách nhiệm công vụ là loại trách nhiệm xảy ra trong quá trình thực thi công vụ để
phục vụ cho lợi ích toàn xã hội, lợi ích nhà nước, công dân. Ðể bảo vệ cho lợi ích
toàn xã hội có thể gây thiệt hại cho một công dân, một nhóm công dân cụ thể nào
đó vì lợi ích cộng đồng, lợi ích xã hội, viên chức vẫn thực hiện hành vi hành chính
đó.
Về phía công dân bị thiệt hại họ có thể khiếu kiện tới cơ quan tài phán hành chính.
Cơ quan tài phán hành chính dựa vào các tình tiết cụ thể, căn cứ vào pháp luật để
đánh giá hành vi cụ thể đó, rút ra kết luận có vi phạm hay không vi phạm. Trong
trường hợp hành vi hành chính trái pháp luật, hoặc trái quyết định của cơ quan cấp
trên hoặc không đúng thẩm quyền gây thiệt hại cho công dân thì Tòa án hành
chính yêu cầu người có hành vi vi phạm phải chịu trách nhiệm công vụ, bồi
thường vật chất cho công dân nếu có.
Cần phân biệt lỗi của viên chức và lỗi của cơ quan hành chính.
+ Khi thực hiện công vụ, vì mục đích vụ lợi, hoặc mục đích khác mà viên chức có
hành vi hành chính trái pháp luật thì đó là lỗi của cá nhân viên chức, gọi là lỗi tách
rời công vụ, không liên quan đến việc thi hành công vụ. Cá nhân viên chức gây
thiệt hại cho công dân, thì phải chịu trách nhiệm trước pháp luật. Cũng có trường
hợp khi thi hành công vụ, không vì mục đích vụ lợi, nhưng vì do sơ suất, không
nắm vững pháp luật, có hành vi hành chính gây thiệt hại cho công dân thì cần xác

định trách nhiệm công vụ thuộc về nền hành chính, cơ quan hành chính phải đứng
ra bồi thường thiệt hại cho dân. Ðồng thời, cơ quan hành chính có viên chức vi
phạm phải truy cứu trách nhiệm kỷ luật, trách nhiệm bồi thường vật chất hạn chế
đối với người viên chức đó theo quy định của pháp luật.
+ Ðối với trường hợp không thể xác định được lỗi của viên chức cụ thể nào đó, thì
đó là lỗi của cơ quan hành chính ra quyết định hành chính cá bệt cụ thể, việc thực
hiện quyết định đó gây thiệt hại cho công dân, nhưng quá trình xây dựng và ban
hành quyết định đó có rất nhiều cá nhân, cơ quan tham gia từ khâu thu nhập, xử lý
thông tin, khâu xây dựng dự thảo, trình dự thảo, thông qua dự thảo ở cơ quan làm
việc theo chế độ tập thể. Tuy nhiên, có trường hợp lỗi do các chủ trương, chính
sách, pháp luật quy định (lỗi của Nhà nước).
+ Ðó là căn cứ để xác định trách nhiệm bồi thường là do cá nhân viên chức, cơ
quan hành chính hay Nhà nước.
Trong Nhà nước pháp quyền, Nhà nước các cơ quan Nhà nước nói chung, mọi
viên chức đều phải tuân thủ pháp luật, đặt mình dưới pháp luật, và phải chịu trách
nhiệm pháp lý về những hành vi hành chính, quyết định của mình. Nhà nước, viên
chức Nhà nước không thể hiện lý do đang thi hành công vụ để được miễn trừ trách
nhiệm pháp lý hay trốn lẫn trách nhiệm khi gây thiệt hại cho công dân, tổ chức xã
hội, tổ chức kinh tế.
Khi thi hành công vụ, vì lợi ích Nhà nước, lợi ích cộng đồng, người viên chức có
thể gây thiệt hại đối với công dân, tổ chức cụ thể, nhưng hành vi đó phù hợp với
pháp luật, chủ trương của cơ quan, quyết định của cấp trên, thì cơ quan đó phải
đứng ra bồi thường cho công dân. Việc quy định trách nhiệm viên chức thuộc cơ
quan tạo ra khả năng tích cực của người viên chức trong hoạt động công vụ.
Ðối với trường hợp không thuộc lỗi cơ quan mà thuộc lỗi của cá nhân viên chức
khi thi hành công vụ bị công dân khiếu kiện, thì cơ quan tài phán hành chính cần
phối hợp với cơ quan người viên chức đó phân tích, xác định rõ rệt lỗi của người
viên chức tách rời công vụ, để truy cứu trách nhiệm bồi thường về dân sự do Tòa
dân sự phán quyết.
Trong đời sống hàng ngày có những rủi ro xảy ra như bão lụt, hỏa hoạn, đắm tàu,

vỡ đê mà trách nhiệm cứu trợ thuộc về cơ quan Nhà nước có chức năng.
+ Những công dân tự nguyện tham gia cứu hộ, chẳng may bị thiệt hại, họ có thể
yêu cầu cơ quan Nhà nước bồi thường thiệt hại đó. Cơ quan tài phán hành chính
có thể chấp nhận và yêu cầu cơ quan hành chính có trách nhiệm bồi thường.
+ Những hoạt động vì lợi ích công cộng xã hội, khi xảy ra rủi ro, làm thiệt hại cho
một công dân (hoặc một số công dân) không thể chỉ quy định trách nhiệm cho một
viên chức hoặc một cơ quan, mà trong nhiều trường hợp, là trách nhiệm của một
quy định, một chủ trương thuộc các đạo luật, các nghị quyết Do vậy, cần phân
biệt lỗi cá nhân viên chức, lỗi cơ quan, lỗi Nhà nước. Việc xác định rõ trách nhiệm
dẫn đến một hệ quả : ai phải gánh chịu rủi ro khi xảy ra. Chẳng hạn, Nhà nước
thành lập quỹ bình ổn giá cà phê, khi giá cà phê xuống thấp gây thiệt hại cho
người trồng và người mua bán cà phê, thì Nhà nước dùng quỹ đó để bồi thường
cho dân. Hoặc khi dân đóng thuế Nhà nước trích một phần thuế đưa vào quỹ bảo
hiểm, khi rủi ro mất mùa dùng quỹ đó bồi thương cho dân.
+ Khi thực thi công vụ, cơ quan Nhà nước nào có lỗi gây thiệt hại thì bồi thường
lấy từ công quỹ, người bị rủi ro được đền bù.
Hành vi bị truy cứu trách nhiệm công vụ phải là hành vi gây thiệt hại thực tế. Thiệt
hại trong trách nhiệm công vụ tương tự giống khái niệm thiệt hại trong trách
nhiệm dân sự, đó là thiệt hại thực tế chứ không phải thiệt hại suy đoán. Do đó, một
hành vi hành chính vi phạm pháp luật gây thiệt hại thực tế cho công dân cụ thể thì
phải bồi thường. Công dân khiếu kiện không phải nhằm lên án cơ quan, cá nhân
viên chức thi hành công vụ, mà chủ yếu đòi bồi thường thiệt hại cho họ.
Tóm lại, trách nhiệm pháp lý của viên chức nhà nước phát sinh khi viên chức nhà
nước thực hiện những hành vi vi phạm pháp luật hoặc không hoàn thành nhiệm vụ
được cơ quan giao cho. Những hình thức trách nhiệm pháp lý có thể được áp dụng
đối với viên chức nhà nước bao gồm: trách nhiệm hình sự, trách nhiệm dân sự,
trách nhiện kỷ luật, trách nhiệm vật chất, trách nhiệm hành chính.
a. Trách nhiệm hình sự
Trách nhiệm này phát sinh khi viên chức nhà nước thực hiện những hành vi nguy
hiểm cho xã hội mà bộ luật hình sự quy định đó là tội phạm và được tòa án xác

định.
Cần phân biệt những tội phạm có tính chất đặc thù của viên chức nhà nước với
những tội phạm thông thường khác. Những tội phạm có tính chất đặc thù của viên
chức nhà nước là những tội phạm về chức vụ. Chủ thể là viên chức theo quan điểm
của luật hình sự, nghĩa là bất cứ người nào đảm nhận một công việc do nhà nước
ủy nhiệm với tư cách là một đại diện cho nhà nước. Các trường hợp này được quy
định tại các điều 220, 221, 224, 225, 226 Bộ luật Hình sự Việt Nam.
Những tội phạm thông thường khác là những tội phạm không liên quan đến chức
vụ nhà nước. Trong trường hợp viên chức nhà nước phạm phải thì người viên chức
nhà nước đó phải chịu trách nhiệm hình sự như các công dân khác.
b. Trách nhiệm dân sự
Trách nhiệm dân sự của viên chức nhà nước phát sinh trong trường hợp viên chức
nhà nước thực hiện các hành vi bất hợp pháp hoặc thiếu tinh thần trách nhiệm khi
thực hiện nhiệm vụ được giao gây thiệt hại về tài sản cho nhà nước, tập thể hoặc
cá nhân, vi phạm các điều khoản được bộ luật dân sự quy định.
- Trách nhiệm dân sự của viên chức đối với tài sản nhà nước được áp dụng khi
viên chức gây thiệt hại cho tài sản của nhà nước. Ðó là những viên chức:
+ Cố ý hay thiếu tinh thần trách nhiệm làm thiệt hại đến tài sản nhà nước;
+ Những viên chức gây thiệt hại cho tài sản nhà nước không phải trong trường hợp
thi hành nhiệm vụ được giao;
+ Những viên chức gây thiệt hại cho tài sản nhà nước không phải trong trường hợp
được quyền sử dụng tài sản;
Về nguyên tắc, viên chức vi phạm có trách nhiệm bồi thường toàn bộ thiệt hại về
tài sản mà họ đã gây ra đối với nhà nước. Tuy nhiên, các cơ quan có thẩm quyền
xử lý cần cân nhắc, căn cứ vào các yếu tố như lỗi, mục đích, mức độ thiệt hại để
xem xét việc đền bù cụ thể.
Trong trường hợp thiệt hại xảy ra do điều kiện khách quan không thể lường trước
được hoặc vượt quá sức khắc phục của con người như thiên tai, chiến tranh mà
người viên chức đã làm hết sức mình để đề phòng hoặc hạn chế thiệt hại thì họ
không phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại.

- Trách nhiệm dân sự của viên chức nhà nước đối với tài sản công dân.
Nếu viên chức nhà nước gây thiệt hại cho tài sản của công dân thì viên chức đó
phải bồi thường cho công dân theo quy định của luật dân sự. Việc bồi thường đó
được tiến hành theo hai bước:
+ Cơ quan nhà nước nơi viên chức phục vụ bồi thường thiệt hại cho người bị thiệt
hại.
+ Viên chức gây ra thiệt hại hoàn trả khoản tiền mà cơ quan nhà nước đã bồi
thường cho người bị thiệt hại.
Sau khi đã bồi thường cho người bị thiệt hại, thủ trưởng cơ quan quản lý viên chức
gây ra thiệt hại thành lập hội đồng xét giải quyết việc hoàn trả bồi thường thiệt hại.
Viên chức nhà nước gây ra thiệt hại phải hoàn trả khoản tiền bồi thường cho cơ
quan mình theo phương thức hoàn trả một lần bằng tài sản riêng của mình trong
thời hạn 30 ngày kể từ ngày có quyết định hoàn trả hoặc trừ dần vào thu nhập
nhưng không dưới 10% và không vượt quá 30% tổng thu nhập từ tiền lương và
phụ cấp hàng tháng. Trong trường hợp có nhiều người cùng gây thiệt hại thì họ
phải liên đới chịu trách nhiệm trên cơ sở lỗi của mỗi người.
c. Trách nhiệm vật chất
Trách nhiệm vật chất là trách nhiệm đặc thù của viên chức nhà nước, do cơ quan
chủ quản áp dụng đối với người vi phạm. Quy định của pháp luật về trách nhiệm
vật chất của viên chức nhà nước có nội dung như sau:
- Phạm vi thi hành của chế độ trách nhiệm vật chất chỉ được áp dụng để giải quyết
những vụ thiệt hại tài sản nhà nước do công nhân viên chức gây ra trong quá trình
sản xuất, công tác.
- Viên chức có thể gây ra thiệt hại cho tài sản nhà nước khi vi phạm kỷ luật lao
động hoặc thiếu tinh thần trách nhiệm. Trong trường hợp viên chức nhà nước gây
thiệt hại nghiêm trọng cho tài sản nhà nước do thiếu tinh thần trách nhiệm thì bị
xử lý theo chế độ trách nhiệm dân sự và có thể bị truy tố về mặt hình sự.
- Về mức bồi thường trong trách nhiệm vật chất:
+ Ðối với những trường hợp làm hư hỏng tài sản nhà nước thì tùy tình hình cụ thể,
căn cứ vào mức độ lỗi, điều kiện, hoàn cảnh của người vi phạm mà xí nghiệp, cơ

quan quyết định người vi phạm phải bồi thường một phần hay toàn bộ thiệt hại.
+ Ðối với những trường hợp làm mất tài sản nhà nước thì về nguyên tắc viên chức
phải đền bù toàn bộ tài sản. Nếu việc làm mất tài sản có lý do chính đáng và được
xác minh rõ ràng thì có thể quyết định mức bồi thường thấp hơn mức thiệt hại.
d. Trách nhiệm kỷ luật
Trách nhiệm kỷ luật của viên chức nhà nước phát sinh khi viên chức vi phạm kỷ
luật lao động. Kỷ luật lao động thường được quy định trong nội quy do thủ trưởng
cơ quan, đơn vị ban hành. Kỷ luật này gọi là kỷ luật nội bộ cơ quan. Nó chỉ áp
dụng đối với viên chức nhà nước khi cơ quan chủ quản xác định được lỗi của
người đó.
e. Trách nhiệm hành chính
Trách nhiệm hành chính của viên chức nhà nước phát sinh khi viên chức có hành
vi vi phạm hành chính.
Có những hành vi vi phạm hành chính chỉ có thể được thực hiện bởi viên chức nhà
nước. Những vi phạm hành chính đó mang tính chất đặc thù của viên chức nhà
nước, gắn với một số chức vụ nhất định. Trong trường hợp viên chức nhà nước
thực hiện hành vi vi phạm hành chính thông thường không gắn với chức vụ thì
viên chức nhà nước sẽ chịu trách nhiệm hành chính như mọi công dân khác.
Ví dụ: hành vi đánh nhau hoặc xúi giục người khác đánh nhau.
IV. PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ VIÊN CHỨC VÀ
CÔNG VỤ NHÀ NƯỚC.
1. Ðường lối cán bộ của Ðảng ta trong giai đoạn hiện nay
Ðể đưa đất nước đi lên công nghiệp hóa, hiện đại hóa thì vấn đề xây dựng đội ngũ
cán bộ đóng một vai trò cần thiết. Ðể có được một đội ngũ viên chức nhà nước
hùng mạnh, đủ năng lực, Ðảng ta đã đề ra một số chủ trương như sau:
- Tiếp tục đổi mới công tác cán bộ, xây dựng cho được đội ngũ vững mạnh, có
năng lực bao gồm cán bộ lãnh đạo chính trị, cán bộ quản lý nhà nước, quản lý kinh
doanh và các chuyên gia.
- Tiến hành tiêu chuẩn hóa cho từng loại, từng chức danh cán bộ ở các cấp, các
ngành và căn cứ vào đó để đào tạo bố trí, sử dụng cán bộ, chấm dứt tình trạng sử

dụng cán bộ theo kiểu thân quen, cảm tình cá nhân.
- Ðổi mới quan điểm về cán bộ và công tác cán bộ. Thực hiện chính sách đoàn kết,
động viên, phát huy mọi lực lượng cán bộ cả ở trong và ngoài Ðảng.
- Ðổi mới các chính sách, chế độ đối với cán bộ như tiền lương, phụ cấp. Xóa bỏ
các chế độ mang tính bình quân và các quy định tạo ra đặc quyền đặc lợi.
- Tăng cường sự lãnh đạo của Ðảng và trách nhiệm trực tiếp của các cơ quan nhà
nước đối với công tác cán bộ.
2. Phương hướng hoàn thiện pháp luật về công vụ nhà nước
Ngay sau khi giành độc lập dân tộc, Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản pháp
luật về công vụ Nhà nước, sắc lệnh số 76/SL ngày 20/05/1950 của Chủ tịch nước
Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ban hành quy chế công chức. Sắc lệnh này đã quy
định khá đầy đủ các vấn đề tuyển dụng, thuyên chuyển, phân cấp, quản lý cán bộ,
khen thưởng,, ký luật Nhưng do tình hình chiến tranh nên sắc lệnh này trên thực
tế chưa được áp dụng phổ biến.
Trong giai đoạn sau đó, hoạt động viên chức Nhà nước được điều chỉnh chung với
hoạt động lao động sản xuất của công dân. Ðó là những văn bản quan trọng như
Nghị định 195/CP 1964 của Hội đồng Chính phủ ban hành Ðiều lệ về kỷ luật trong
các xí nghiệp, cơ quan Nhà nước, Nghị định 49/CP của Hội đồng Chính phủ
(1968) ban hành chế độ trách nhiệm vật chất của công nhân viên chức đối với tài
sản Nhà nước. Ngoài ra còn có nhiều quy định về tuyển dụng khen thưởng, lương,
biên chế
Từ năm 1980 trở lại đây hoạt động công vụ đã điều chỉnh. Ðó là quyết định
117/HÐBT (1982) ban hành bản danh mục số 1 các chức vụ viên chức Nhà nước,
trong đó có phân loại các chức danh. Trong nhiều ngành kinh tế quốc dân cũng
ban hành các tiêu chuẩn nghiệp vụ cho mỗi loại viên chức.
Tuy vậy, những văn bản pháp luật điều chỉnh hoạt động công vụ vẫn chưa được hệ
thống hóa. Nhiều quy định đã lỗi thời, không còn phù hợp với yêu cầu đổi mới.
Hệ thống hành pháp thống nhất, ổn định và vững chắc đòi hỏi phải có đội ngũ
công chức Nhà nước được đạo tạo, có nghiệp vụ mới bảo đảm được những yêu
cầu đổi mới toàn diện các mặt của đời sống xã hội và đội ngũ đó cần phải hoạt

động trên cơ sở đạo luật về công vụ Nhà nước. Từ đó đòi hỏi phải đổi mới công
tác cán bộ. Trước hết, phải hoàn thiện quy chế công chức Nhà nước làm việc tại
các cơ quan hành chính Nhà nước, tạo ra một đội ngũ công chức chuyên nghiệp
được đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ công chức.
Tiếp theo, để hình thành đội ngũ công chức Nhà nước, cần có hình thức quản lý
công chức phù hợp với yêu cầu phân biệt chức năng giữa Ðảng và Nhà nước, giữa
cơ quan Chính phủ với các đơn vị sản xuất kinh doanh, gắn chặt hoạt động quản lý
cán bộ với hoạt động kinh tế. Ơớ Việt Nam, theo quyết định của Chính phủ, đã
thành lập Ban tổ chức và cán bộ của Chính phủ, loại cơ quan quản lý cán bộ như
vậy có thể thấy ở Nga, ở Mỹ, và một số nước khác. Trên cơ sở tổng kết kinh
nghiệm trong và ngoài nước, cần đổi mới Ban tổ chức và cán bộ của Chính phủ.
Phương hướng của cơ quan Nhà nước, chuẩn bị các dự thảo văn bản pháp quy,
điều chỉnh hoạt động công vụ Nhà nước, tuyển chọn và đào tạo công chức.
Một vấn đề hết sức quan trọng và có ý nghĩa lớn đối với việc hình thành công
chức Nhà nước là xây dựng cơ sở pháp luật cho hoạt động công vụ. Trước hết, cần
phải ban hành các văn bản pháp quy về công vụ hành chính Nhà nước. Trong các
văn bản đó cần phân biệt rõ những công chức được bổ nhiệm theo yêu cầu chính
trị và những công chức bổ nhiệm theo tiêu chuẩn chuyên môn. Sau đó, trên cơ sở
các văn bản pháp quy hiện hành kết hợp với tổng kết thực tiễn để dự thảo và ban
hành luật về công vụ Nhà nước.
Nội dung cơ bản của Luật này gồm những điểm sau :
- Thứ nhất, trong luật cần xác định rõ những ai thuộc phạm vi viên chức Nhà
nước. Phạm vi đó gồm tất cả những người tạo thành đội ngũ của bộ máy Nhà nước
bao gồm công chức lãnh đạo và công chức chuyên nghiệp. Từ đó, xác định đối
tượng của luật là những quan hệ về tổ chức công vụ Nhà nước và thực hiện các
chức vụ của viên chức.
- Thứ hai, xác định khái niệm chức vụ và các loại chức vụ. Khái niệm về chức vụ
bao gồm các mặt xã hội, tư và pháp lý, còn chức vụ hiểu theo nghĩa rộng gồm có
các chức vụ trong các cơ quan quyền lực Nhà nước, cơ quan hành chính Nhà
nước, cơ quan toà án, kiểm sát (thẩm phán, kiểm sát viên và các chức vụ khác).

Còn vấn đề tuyển dụng viên chức cần phải đề ra các hình thức thi tuyển đối với
người muốn vào làm việc trong bộ máy Nhà nước và tuyển chọn thông qua hệ
thống đánh giá thường xuyên đối với người đang làm việc trong cơ quan Nhà
nước.
- Thứ ba, xác định địa vị pháp lý của viên chức Nhà nước. Cùng với ghi nhận
trong luật quyền của mọi công dân có đủ điền kiện có thể trở thành viên chức Nhà
nước, cần phải đưa ra các tiêu chuẩn để tiếp nhận và thăng chức. Các tiêu chuẩn
đó phụ thuộc vào tình hình cụ thể của từng giai đoạn phát triển của Nhà nước.
Trong điều kiện chuyển sang kinh tế thị trường, một trong những hạn chế đối với
công chức là họ không được đồng thời là các nhà doanh nghiệp.
- Thứ tư , phân loại viên chức Nhà nước, việc thăng chức đối viên chức thông qua
thi tuyển theo đề nghị của chính viên chức hoặc theo sáng kiến của cơ quan nơi
viên chức làm việc. Việc thăng chức phải căn cứ vào bậc của viên chức phù hợp
với chức vụ tương đương và do luật định.
- Thứ năm , xác định thời hạn phục vụ của các chức vụ. Nhiệm kỳ của một số chức
vụ Nhà nước được pháp luật nhiều nước ghi nhận. Nhưng ở Việt Nam pháp luật
chưa điều chỉnh vấn đề này. Cần phải quy định viên chức lãnh đạo thực thi chức
vụ có thời hạn theo luật định, còn công chức chuyên nghiệp thực thi chức vụ suốt
đời.
- Thứ sau, luật về công vụ cần điều chỉnh các bảo đảm cho hoạt động công vụ Nhà
nước, bảo hiểm cho viên chức đã hoàn thành nghĩa vụ phục vụ hoặc vì những điều
kiện chính đáng phải thôi việc.
- Cuối cùng, pháp luật về công cụ phải quy định tổng thể hàng loạt vấn đề về khen
thưởng, trách nhiệm của công chức Nhà nước.

CÂU HỎI
1. Thế nào là viên chức nhà nước? Hãy phân loại viên chức nhà nước căn cứ vào
tính chất công việc?
2. Công vụ nhà nước là gì? Hãy nêu đặc điểm của công vụ nhà nước?
3. Thế nào là trách nhiệm viên chức trong hoạt động công vụ?

Nói "Trách nhiệm công vụ chỉ có ở viên chức" là đúng hay sai? Giải thích?
4. Phân biệt trách nhiệm chủ động và trách nhiệm thụ động?

×