Tải bản đầy đủ (.pdf) (95 trang)

Tổ chức giáo dục pháp luật cho sinh viên chuyên ngành mỹ thuật ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (636.38 KB, 95 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NỘI VỤ

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

DƢƠNG THỊ MINH THƢ

TỔ CHỨC GIÁO DỤC PHÁP LUẬT
CHO SINH VIÊN CHUYÊN NGÀNH MỸ THUẬT
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG

\

HÀ NỘI, 2019


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NỘI VỤ

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

DƢƠNG THỊ MINH THƢ

TỔ CHỨC GIÁO DỤC PHÁP LUẬT
CHO SINH VIÊN CHUYÊN NGÀNH MỸ THUẬT
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY


LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ CÔNG
Chuyên ngành: Quản lý công
Mã số: 8 34 04 03

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. NGUYỄN THỊ VÂN HÀ

HÀ NỘI - 2019


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu
nêu trong luận văn là trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chƣa
từng đƣợc ai công bố trong bất kỳ công trình nào.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Dƣơng Thị Minh Thƣ


LỜI CẢM ƠN
Tôi xin bày tỏ lòng cảm ơn đến:
Ban Giám đốc Học viện Hành chính Quốc gia, các thày giáo, cô giáo
khoa Sau đại học và các phòng khoa của Học viện Hành chính Quốc gia đã
tạo mọi điều kiện thuận lợi và giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và nghiên
cứu khoa học.
Đặc biệt, tôi xin chân thành cảm ơn TS. Nguyễn Thị Vân Hà đã tận
tình hƣớng dẫn, giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn.
Tuy bản thân đã có nhiều nỗ lực, cố gắng song luận văn không tránh
khỏi những hạn chế, tôi kính mong nhận đƣợc sự đóng góp, chỉ bảo của các
thày giáo, cô giáo và đồng nghiệp.

Tôi xin chân thành càm ơn!
TÁC GIẢ

Dƣơng Thị Minh Thƣ


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

GDPL
TCGDPL

Giáo dục pháp luật
Tổ chức giáo dục pháp luật

NCKH

Nghiên cứu khoa học

HTQT

Hợp tác quốc tế

XHCN

Xã hội chủ nghĩa


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ............................................................................................... 1
CHƢƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TỔ CHỨC GIÁO DỤC PHÁP LUẬT

CHO SINH VIÊN CHUYÊN NGÀNH MỸ THUẬT ...................................... 6
1.1. Quan điểm về tổ chức giáo dục pháp luật cho sinh viên chuyên chuyên
ngành mỹ thuật .................................................................................................. 6
1.2. Hoạt động tổ chức giáo dục pháp luật cho sinh viên chuyên ngành mỹ
thuật ................................................................................................................. 24
Tiểu kết chƣơng 1............................................................................................ 36
CHƢƠNG 2. THỰC TRẠNG TỔ CHỨC GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO
SINH VIÊN CHUYÊN NGÀNH MỸ THUẬT Ở VIỆT NAM HIỆN NAY . 37
2.1. Khái quát chung các trƣờng cao đẳng, đại học đào tạo chuyên ngành mỹ
thuật ở Việt Nam ............................................................................................. 37
2.2. Thực tiễn tổ chức giáo dục pháp luật cho sinh viên chuyên ngành mỹ
thuật ở Việt Nam ............................................................................................. 39
2.3. Đánh giá chung về tổ chức giáo dục pháp luật cho sinh viên chuyên
ngành mỹ thuật ở Việt Nam hiện nay ............................................................. 59
Tiểu kết chƣơng 2............................................................................................ 66
CHƢƠNG 3. PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI TỔ CHỨC
GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO SINH VIÊN CHUYÊN NGÀNH MỸ
THUẬT ........................................................................................................... 67
3.1. Quan điểm đảm bảo tổ chức giáo dục pháp luật cho sinh viên chuyên
ngành mỹ thuật ở Việt Nam hiện nay ............................................................. 67
3.2. Giải pháp đổi mới tổ chức giáo dục pháp luật cho sinh viên chuyên ngành
mỹ thuật ở Việt Nam ....................................................................................... 70
Tiểu kết chƣơng 3 ........................................................................................... 84
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 85
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... 87


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong sự phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia giáo dục và đào tạo

có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, đƣợc coi là vấn đề then chốt và có vai trò quyết
định đối với sự phát triển của mỗi dân tộc. Giáo dục hiện nay không chỉ chú
trọng phát triển trí tuệ và thể lực mà còn quan tâm đến giáo dục nhân cách,
trong đó nhấn mạnh ý thức tôn trọng pháp luật của thế hệ trẻ. Để thực hiện
mục tiêu trên, giáo dục pháp luật cho sinh viên đƣợc chú trọng, góp phần
quan trọng vào sự phát triển toàn diện của giáo dục Việt Nam và xây dựng
Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Xuất phát từ vai trò quan trọng của giáo dục pháp luật, Đảng và Nhà
nƣớc ta đã ban hành nhiều chủ trƣơng, đƣờng lối, chính sách nhằm triển
khai thực hiện công tác giáo dục pháp luật cho sinh viên: Văn kiện Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ VII cũng nhấn mạnh: “Coi trọng công tác giáo dục
tuyên truyền, giải thích giáo dục pháp luật, đƣa việc dạy pháp luật vào hệ
thống các trƣờng của Đảng, của Nhà nƣớc (kể cả các trƣờng phổ thông, đại
học) của các đoàn thể nhân dân” [1]. Trên tinh thần ấy, các cơ quan chức
năng đã phối hợp để đƣa việc tổ chức giáo dục pháp luật vào các trƣờng học
thuộc hệ thống giáo dục quốc dân. Trong các chƣơng trình chính khóa giáo
dục pháp luật trong nhà trƣờng đƣợc thực hiện thông qua việc dạy và học các
môn học pháp luật; hoặc lồng ghép, tích hợp vào các môn học có liên quan.
Ngoài ra, tổ chức giáo dục pháp luật cho sinh viên còn đƣợc nhà trƣờng thực
hiện thông qua các hoạt động ngoại khóa. Tổ chức giáo dục pháp luật cho
sinh viên tại các trƣờng đại học cao đẳng nói chung và khối các trƣờng mỹ
thuật nói riêng đã góp phần đào tạo nguồn nhân lực không chỉ giỏi chuyên
môn nghiệp vụ mà còn có tri thức pháp luật và tuân thủ pháp luật, đáp ứng
nhu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nƣớc.
1


Tuy nhiên, bên cạnh những sinh viên chuyên ngành mỹ thuật có ý chí
vƣơn lên trong học tập, tuân thủ pháp luật thì còn tồn tại một bộ phận không
nhỏ những sinh viên chƣa có cách nhìn đúng đắn về cuộc sống, về quyền lợi

và nghĩa vụ của mình. Nhiều sinh viên coi môn học pháp luật trong nhà
trƣờng chỉ là môn học phụ, một số sinh viên còn biểu hiện lối sống thực dụng,
vi phạm luật giao thông, cờ bạc, rƣợu chè. Tình trạng sinh viên đạo nhái, sao
chép, ăn cắp các tác phẩm nghệ thuật, vi phạm bản quyền... dẫn đến các hành
vi nguy hiểm cho xã hội là vấn đề đáng báo động hiện nay. Những hành vi ấy
là hậu quả của việc giáo dục không đồng bộ giữa nhà trƣờng, gia đình và xã
hội.
Những hạn chế nêu trên do nhiều nguyên nhân khác nhau nhƣng trong
đó nguyên nhân chủ yếu phải kể đến đó là việc nhận thức về vai trò, vị trí,
tầm quan trọng của công tác tổ chức giáo dục pháp luật ở các trƣờng mỹ thuật
chƣa đúng mức. Chƣơng trình nội dung GDPL cho sinh viên còn dàn trải,
chƣa thống nhất, chƣa đáp ứng đƣợc nhu cầu cho sinh viên chuyên ngành mỹ
thuật; quản lý đội ngũ giảng viên giảng dạy còn nhiều khiếm khuyết; hình
thức và phƣơng pháp giảng dạy còn đơn điệu, chậm đổi mới. Cơ chế phối hợp
giữa các chủ thể TCGDPL còn thiếu đồng bộ.
Những lý do nêu trên đã thể hiện công tác tổ chức giáo dục pháp luật cho
sinh viên chuyên ngành mỹ thuật ở Việt Nam còn nhiều bất cập. Với mong
muốn vận dụng những kiến thức và kinh nghiệm của bản thân, góp phần nâng
cao ý thức pháp luật cho sinh viên chuyên ngành mỹ thuật, tác giả chọn đề tài
nghiên cứu “Tổ chức giáo dục pháp luật cho sinh viên chuyên ngành mỹ
thuật ở Việt Nam hiện nay”.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn
Việc nghiên cứu về tổ chức giáo dục pháp luật nói chung và GDPL đối
với từng đối tƣợng nói riêng không còn là vấn đề mới nhƣng luôn là đề tài có
tính thời sự và cũng không kém phần phức tạp. Tổ chức giáo dục pháp luật là
2


nội dung đƣợc nhiều nhà khoa học đi sâu nghiên cứu, tìm tòi, khảo sát, đến
nay đã có nhiều công trình nghiên cứu đƣợc công bố dƣới những khía cạnh,

mức độ, hình thức thể hiện khác nhau:
- Vai trò của pháp luật trong quá trình hình thành nhân cách, NXB Tƣ
pháp, Hà Nội, 2005.
- Chuyên đề khoa học xét xử: Pháp luật về thủ tục giải quyết tranh chấp
sở hữu trí tuệ tại tòa án nhân dân, Tòa án nhân dân tối cao, Viện Khoa học
xét xử, 2010.
- Giáo dục pháp luật cho học viên ở trường bồi dưỡng nghiệp vụ công
an nhân dân, Luận văn thạc sỹ của Nguyễn Tiến Công, 2013.
- Chất lượng giáo dục pháp luật cho học viên ở trường sỹ quan lục quân 1
Quân đội nhân dân Việt Nam, Luận văn thạc sỹ của Trịnh Văn Hƣng, 2014.
- Bảo hộ quyền tác giả tác phẩm tạo hình, mỹ thuật ứng dụng – nhìn từ
khía cạnh pháp lý và thực tiễn, Phạm Kim Oanh, Trang thông tin điện tử Cục
Bản quyền tác giả, 2014.
- Xây dựng thị trường tranh trong nước, Nguyễn Phƣơng Liên, Báo
Nhân dân, 2014.
- Quyền tác giả trong không gian ảo, Nguyễn Thị Hồng Nhung, 2015.
- Tổ chức thực hiện giáo dục pháp luật cho sinh viên trường đại học, cao
đẳng trên địa bàn tỉnh Lào Cai, Luận văn thạc sỹ của Mai Thị Lan Hƣơng, 2018.
- Thực trạng và giải pháp bảo bệ quyền tác giả “tác phẩm mỹ thuật ứng
dụng ở trường đại học Mỹ thuật Công nghiệp’’, đề tài nghiên cứu khoa học
Trần Nguyên Cƣờng, 2018.
Nhƣ vậy, đã có rất nhiều đề tài nghiên cứu xung quanh vấn đề tổ chức
thực hiện giáo dục pháp luật cho sinh viên. Mỗi đề tài nghiên cứu đều có cách
tiếp cận và mục tiêu khác nhau. Tuy nhiên, chƣa có công trình khoa học nào
nghiên cứu về tổ chức giáo dục pháp luật cho sinh viên chuyên ngành mỹ
thuật ở Việt Nam hiện nay. Vì vậy, tác giả đã nghiên cứu về tổ chức giáo dục
3


pháp luật cho sinh viên chuyên ngành mỹ thuật, làm rõ thực trạng và đề xuất

các biện pháp nhằm nâng cao chất lƣợng giáo dục pháp luật và ý thức pháp
luật cho sinh viên chuyên ngành mỹ thuật.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích của luận văn
- Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn tổ chức giáo dục pháp luật cho
sinh viên chuyên ngành mỹ thuật, từ đó đề xuất các giải pháp cơ bản đổi mới
TCGDPL nhằm nâng cao chất lƣợng đào tạo sinh viên chuyên ngành mỹ thuật
ở Việt Nam hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
- Phân tích cơ sở lý luận tổ chức giáo dục pháp luật.
- Nghiên cứu những đặc thù của tổ chức giáo dục pháp luật trong các
trƣờng mỹ thuật.
- Phân tích, đánh giá thực trạng tổ chức giáo dục pháp luật trong các
trƣờng mỹ thuật hiện nay. Từ đó rút ra nguyên nhân và bài học chủ yếu của
thực trạng trên.
- Đề xuất các quan điểm, giải pháp cơ bản nâng cao chất lƣợng tổ chức
giáo dục pháp luật cho sinh viên chuyên ngành mỹ thuật ở Việt Nam hiện
nay.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn.
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Tổ chức giáo dục pháp luật cho sinh viên chuyên ngành mỹ thuật ở Việt
Nam.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu tổ chức giáo dục pháp luật cho sinh viên chuyên
ngành mỹ thuật ở một số trƣờng đại học trọng điểm: Đại học Mỹ thuật công
nghiệp; đại học Mỹ thuật Việt Nam; đại học Mỹ thuật Thành phố Hồ Chí
Minh; đại học Mỹ thuật Huế; 5 năm trở lại đây.
4



5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Phương pháp luận
Luận văn đƣợc thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin,
tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về nhà nƣớc và pháp luật, đƣờng lối đổi mới của Đảng
trên lĩnh vực nhà nƣớc và pháp luật, đặc biệt là các quan điểm đổi mới về giáo
dục, TCGDPL.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng kết hợp nhiều phƣơng pháp nghiên cứu: Phƣơng pháp
thống kê; Phƣơng pháp quan sát; Phƣơng pháp phân tích; Phƣơng pháp tổng
hợp; Phƣơng pháp so sánh…
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Làm rõ một số vấn đề lý luận có liên quan đến hoạt động tổ chức giáo
dục pháp luật cho sinh viên chuyên ngành mỹ thuật, đặc thù của giáo dục
pháp luật cho sinh viên chuyên ngành mỹ thuật.
- Luận văn có giá trị tham khảo đối với các trƣờng đại học, cao đẳng
trong chỉ đạo và tổ chức thực hiện giáo dục pháp luật cho sinh viên.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục và tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 3 chƣơng:
Chƣơng 1: Cơ sở lý luận về tổ chức giáo dục pháp luật cho sinh viên
chuyên ngành mỹ thuật
Chƣơng 2: Thực trạng tổ chức giáo dục pháp luật cho sinh viên chuyên
ngành mỹ thuật ở Việt Nam
Chƣơng 3: Phƣơng hƣớng và giải pháp giáo dục pháp luật cho sinh viên
chuyên ngành mỹ thuật

5


CHƢƠNG 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TỔ CHỨC GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO
SINH VIÊN CHUYÊN NGÀNH MỸ THUẬT
1.1. Quan điểm về tổ chức giáo dục pháp luật cho sinh viên chuyên
chuyên ngành mỹ thuật
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm, mục đích, vai trò của tổ chức GDPL cho
sinh viên chuyên ngành mỹ thuật
1.1.1.1.Khái niệm tổ chức giáo dục pháp luật cho sinh chuyên ngành mỹ
thuật
Khái niệm giáo dục pháp luật
Theo từ điển Từ và ngữ Hán – Việt “giáo dục là quá trình hoạt động có ý
thức, có mục đích, có kế hoạch, có tổ chức nhằm bồi dƣỡng cho con ngƣời
những phẩm chất đạo đức và những tri thức cần thiết để ngƣời ta có khả năng
tham gia mọi mặt của đời sống xã hội’’[24,tr3]
Theo từ điển Tiếng Việt thì “giáo dục là hoạt động nhằm tác động một
cách có hệ thống đến sự phát triển tinh thần, thể chất của một đối tƣợng nào
đó làm cho đối tƣợng ấy dần dần có đƣợc những phẩm chất năng lực nhƣ yêu
cầu đặt ra”[23,tr394]
Theo cách hiểu chung nhất về giáo dục pháp luật có hai nghĩa:
+ Theo nghĩa hẹp: GDPL là việc truyền bá pháp luật cho đối tƣợng
nhằm nâng cao tri thức, tình cảm, niềm tin pháp luật cho đối tƣợng từ đó nâng
cao ý thức tôn trọng pháp luật, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật của đối
tƣợng.
+ Theo nghĩa rộng: GDPL là một khâu của hoạt động tổ chức thực hiện
pháp luật, là hoạt động định hƣớng có tổ chức, có chủ định thông qua các hình
thức giáo dục, thuyết phục, nêu gƣơng, nhằm mục đích hình thành ở đối

6


tƣợng tri thức pháp lý, tình cảm, và hành vi xử sự phù hợp với các đòi hỏi của

hệ thống pháp luật hiện hành với các hình thức, phƣơng tiện, phƣơng pháp
đặc thù.
Trong phạm vi nghiên cứu của luận văn, tác giả cho rằng: “GDPL là
hoạt động có định hướng, có tổ chức, có dự định của chủ thể, GDPL tác động
lên đối tượng GDPL một cách có hệ thống và thường xuyên, nhằm mục đích
hình thành ở họ tri thức pháp lý, tình cảm và hành vi phù hợp với các đòi hỏi
của các quy định pháp luật hiện hành”.
So với các dạng giáo dục khác thì GDPL là quá trình tác động thƣờng
xuyên, liên tục, lâu dài hơn chứ không phải tác động một lần của chủ thể lên
đối tƣợng giáo dục. Vì thế, GDPL trở thành hoạt động thƣờng xuyên trong các
hoạt động gia đình, trƣờng học, tập thể lao động, tổ chức Đảng, Nhà nƣớc và
toàn xã hội. Ngƣời đƣợc giáo dục là ngƣời chịu tác động có tổ chức, có định
hƣớng của các thông tin pháp luật. Một vấn đề đặt ra là ngƣời giáo dục phải
hiểu biết đƣợc trình độ, đặc điểm của ngƣời đƣợc giáo dục, biết cách truyền tải
nó và phải là tấm gƣơng, là hình mẫu trong việc thực hiện pháp luật.
Trên cơ sở phân tích có thể hiểu GDPL cho sinh viên trƣờng mỹ thuật là
hoạt động có định hướng, có tổ chức, có chủ định của chủ thể GDPL, tác
động một cách có hệ thống và thường xuyên tinh thần, nội dung pháp luật
nhằm mục đích giúp cho sinh viên các trường mỹ thuật hiểu và hình thành ở
họ tri thức pháp luật, tình cảm pháp lý và hành vi phù hợp với các đòi hỏi của
các quy định pháp luật hiện hành.
Giáo dục pháp luật với ý nghĩa là một dạng giáo dục đặc thù, có vị trí
độc lập tƣơng đối, đƣợc hiểu là hoạt động cung cấp tri thức pháp luật, bồi
dƣỡng tình cảm, thái độ đúng đắn với pháp luật một cách có định hƣớng, có
tình cảm, có chủ định lên mỗi thành viên của xã hội, nhằm hình thành một
cách bền vững ý thức pháp luật và những thói quen tích cực trong mọi hành vi
ứng xử của công dân trong đời sống xã hội.
7



- Khái niệm tổ chức giáo dục pháp luật cho sinh viên các trường mỹ thuật
Tổ chức đƣợc hiểu theo hai nghĩa khác nhau:
+ Tổ chức là một hệ thống: “Tổ chức là một cơ cấu liên kết những cá
nhân trong một hệ thống nhằm thực hiện những mục tiêu của hệ thống dựa
trên những nguyên tắc và quy tắc nhất định” [17,tr.178].
+ Tổ chức là một hoạt động quản lý: Trong bốn chức năng quản lý, tổ
chức là chức năng quan trọng nhất. Tổ chức là một quá trình sắp xếp, tác
động và điều khiển các nhiệm vụ và nguồn lực để đạt đƣợc mục tiêu đã đề ra
[15,tr. 178]
Trong luận văn này tổ chức đƣợc dùng với tƣ cách là một hoạt động
quản lý.
Các trƣờng mỹ thuật là một bộ phận của hệ thống giáo dục Việt Nam.
Trong thực tế giáo dục mỹ thuật đóng vai trò rất quan trọng bởi giáo dục mỹ
thuật không chỉ khuyến khích sự sáng tạo của sinh viên mà còn bởi giáo dục
mỹ thuật giúp phát triển đặc điểm và năng lực xã hội của sinh viên, khuyến
khích sinh viên tƣ duy sáng tạo và phát triển nhận thức. Giúp các em tự do
phát triển năng khiếu, tạo ra những ý tƣởng riêng, tƣ duy theo nhiều góc độ.
Ngày nay cái đẹp đã trở thành một trong những nhu cầu thiết yếu của cuộc
sống con ngƣời, tất cả phục vụ cho con ngƣời đều cần đẹp cả về hình thức và
mầu sắc. Khi cuộc sống ngày càng đƣợc nâng cao thì cái đẹp lại càng trở lên
quan trọng. Có thể nói mỹ thuật đóng góp một phần đáng kể vào sự phát triển
của nền kinh tế quốc dân. Với vai trò giúp cho sinh viên phát triển toàn diện
về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và cả kỹ năng cơ bản, phát triển năng
lực cá nhân, tính năng động và sáng tạo, hình thành nhân cách con ngƣời Việt
Nam xã hội chủ nghĩa, xây dựng tƣ cách và trách nhiệm công dân, giáo dục
thẩm mỹ có mục tiêu là phát triển năng lực, thẩm mỹ cho mỗi thành viên
trong xã hội, góp phần quan trọng vào việc hình thành con ngƣời mới, sự phát
triển năng lực thẩm mỹ sẽ giúp con ngƣời biết nhận thức và đánh giá, biết vận
8



động sáng tạo theo quy định cái đẹp. Giáo dục mỹ thuật nhằm đào tạo ra các
thế hệ nghệ sỹ và những ngƣời chuyên làm nghề mỹ thuật giúp họ vận dụng
cái đẹp vào cuộc sống hàng ngày, góp phần nâng cao năng lực quan sát, khả
năng tƣ duy hình tƣợng sáng tạo, bồi dƣỡng phƣơng pháp làm việc khoa học.
Nhằm hình thành ở sinh viên phẩm chất con ngƣời lao động mới đáp ứng yêu
cầu đòi hỏi xã hội ngày càng cao. Để thực hiện tốt các chức năng đó thì không
chỉ có năng khiếu, sự cảm nhận tƣ duy về cái đẹp mà cần phải có cả năng lực
về pháp luật. Vì vậy, sinh viên chuyên ngành mỹ thuật ở Việt Nam cần phải
đƣợc GDPL một cách thƣờng xuyên, liên tục, tạo điều kiện cho họ nắm vững
và tự giác chấp hành pháp luật trong quá trình học tập, trong đời sống hàng
ngày và đặc biệt khi tham gia các hoạt động xã hội.
Đối với sinh viên mỹ thuật thì công tác TCGDPL đƣợc coi là bộ phận
của công tác giáo dục chính trị, tƣ tƣởng, nhằm xây dựng thái độ động cơ, bản
lĩnh chính trị, ý thức pháp luật cho mỗi công dân. Thông qua hoạt động
TCGDPL để mọi sinh viên nắm đƣợc các quy định của pháp luật, từ đó điều
chỉnh hành vi xử sự của mình phù hợp với các yêu cầu của pháp luật.
Từ những đặc điểm và thực tiễn hoạt động TCGDPL trong sinh viên
chuyên ngành mỹ thuật chúng ta có thể hiểu: TCGDPL cho sinh viên chuyên
ngành mỹ thuật là hoạt động có tính định hướng được tổ chức chặt chẽ, khoa
học theo một hệ thống thống nhất, cung cấp kiến thức pháp luật, bồi dưỡng
tình cảm và hành vi hợp pháp nhằm hình thành cho sinh viên chuyên ngành
mỹ thuật ý thức pháp luật, tình cảm pháp luật đúng đắn, tuân thủ pháp luật
và tuyên truyền, vận động nhân dân chấp hành pháp luật.
Đặc điểm sinh viên chuyên ngành mỹ thuật
Sinh viên là ngƣời học tập tại các trƣờng đại học, cao đẳng. Ở đó họ
đƣợc truyền đạt kiến thức một cách bài bản về một ngành nghề nhất định. Sau
thời gian đào tạo họ đƣợc cấp bằng và đƣợc xã hội công nhận thông qua bằng
cấp của mình. Có thể hiểu sinh viên chuyên ngành mỹ thuật là những ngƣời
9



đang học tập, nghiên cứu khoa học và sáng tác mỹ thuật tại các trƣờng đại
học, cao đẳng.
Trong hệ thống các trƣờng mỹ thuật thì các trƣờng đại học là nơi trực
tiếp đào tạo bồi dƣỡng nguồn nhân lực mỹ thuật đáp ứng yêu cầu của thời đại:
cung cấp nguồn nhân lực có trình độ đại học, sau đại học chất lƣợng cao cho
sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nƣớc và hội nhập quốc tế.
Sau khi ra trƣờng họ sẽ trở thành những ngƣời họa sỹ làm việc trong
các cơ quan tổ chức của xã hội, hoặc hoạt động tự do. Họ luôn phải tuân thủ
pháp luật của Nhà nƣớc. Vì vậy, ngay khi còn ngồi trên ghế nhà trƣờng sinh
viên khối ngành này cần đƣợc giáo dục ý thức pháp luật, thái độ tích cực, chủ
động trong thực hiện, chấp hành các quy định của pháp luật.
Từ khái niệm sinh viên các trƣờng mỹ thuật nhƣ trên, xét dƣới góc độ
đối tƣợng để giáo dục pháp luật thì sinh viên các trƣờng mỹ thuật là một bộ
phận của sinh viên nói chung và có các đặc điểm cơ bản sau:
Một là, sinh viên hầu hết có động cơ học tập, rèn luyện đúng đắn và xu
hƣớng nghề nghiệp rõ ràng, có khả năng nhận thức nhanh.
Để đƣợc học tập, rèn luyện tại các trƣờng mỹ thuật mỗi sinh viên phải
trải qua sự lỗ lực phấn đấu, đƣợc lựa trọn và trải qua thi tuyển nghiêm túc,
chặt chẽ. Những thí sinh có đủ điểm trúng tuyển đƣợc gọi nhập học và đƣợc
công nhận là sinh viên theo mô hình mục tiêu đào tạo của từng trƣờng. Sinh
viên nhận thức đầy đủ giá trị của sự phấn đấu của bản thân, từ đó xây dựng
động cơ, thái độ trách nhiệm học tập, rèn luyện đúng đắn, xác định xu hƣớng
nghề nghiệp rõ ràng, mong muốn góp sức xây dựng quê hƣơng đất nƣớc.
Hơn nữa kết quả học tập rèn luyện của sinh viên các trƣờng mỹ thuật sẽ
liên quan trực tiếp đến công việc khi tốt nghiệp ra trƣờng. Do vậy, mỗi sinh
viên đều có động lực mạnh mẽ, trực tiếp thôi thúc họ học để làm việc, trở
thành ngƣời có ích. Mặt khác sinh viên các trƣờng mỹ thuật hiện nay đƣợc
lớn lên trong điều kiện đất nƣớc đổi mới theo định hƣớng XHCN, mở cửa hội

10


nhập kinh tế quốc tế, có thuận lợi để học tập lĩnh hội tri thức, tiếp thu những
kiến thức pháp luật ở trƣờng học cũng nhƣ qua các kênh thông tin, truyền
thông để tiếp cận những vấn đề mới. Khả nặng nhận thức, ý thức tự lập, tự
chủ cao hơn các thế hệ trƣớc. Đó là điều kiện thuận lợi cho việc bồi dƣỡng
GDPL, nâng cao chất lƣợng giáo dục, đào tạo của các trƣờng mỹ thuật.
Hai là, sinh viên chuyên ngành mỹ thuật là một nhóm xã hội dân cƣ có
tính phức hợp rất cao, hàm chứa trong đó là sự đa dạng về tuổi, giới tính, tâm
linh và các mô hình ứng xử và lựa chọn xã hội…Bởi lẽ nó hàm chứa trong đó
những cá thể ở độ tuổi trƣởng thành có nguồn gốc xuất thân từ nhiều vùng
miền, dân tộc, khác nhau, thuộc mọi giai tầng trong xã hội dƣới sự tác động
của nhiều định hƣớng ý thức hệ, tƣ tƣởng, truyền thống, mô hình ứng xử và
với nhiều loại thói quen, tập tục khác nhau. Vì vậy, trong nghiên cứu về giáo
dục pháp luật đối với sinh viên cần phải đặc biệt lƣu ý đến tính phức hợp và
tính đa dạng cao của hóm xã hội – dân cƣ này, đồng thời phải luôn luôn đặt
nhóm đó trong mối liên hệ với các nhóm xã hội – dân cƣ, hoặc các cộng đồng
dân cƣ khác nhau để xem xét.
Thứ ba, tuổi trẻ, năng động, ƣa thử nghiệm, dễ phạm sai lầm và xung đột
với thế hệ đi trƣớc là đặc điểm của sinh viên nói chung và sinh viên mỹ thuật
cũng không ngoại lệ ở mọi thời đại, mọi quốc gia, dân tộc. Cái chung, cái
thống nhất cơ bản nhất của “sinh viên’’ chính là ở tuổi trẻ, ở độ tuổi “thanh
niên”. Trong cuộc đời của mỗi con ngƣời thì tuổi sinh viên có ý nghĩa vô
cùng quan trọng. Xét từ góc độ tâm sinh lý thì đây là giai đoạn con ngƣời
chuyển biến từ một đứa trẻ thành một ngƣời trƣởng thành với sự hoàn thiện
cơ bản về mặt sinh học và những chuyển biến về tâm sinh lý, tình cảm rất
điển hình của “tuổi dạy thì”. Xét từ góc độ “con ngƣời – xã hội” thì tuổi thanh
niên chính là giai đoạn mỗi con ngƣời chuẩn bị hành trang cho toàn bộ cuộc
đời mình: học vấn, nghề nghiệp, thử nghiệm và lựa chọn văn hóa, kinh

nghiệm, lối sống trên cơ sở định hình dần hệ giá trị của riêng mình, trở thành
11


công dân thực thụ với đầy đủ những quyền lợi và nghĩa vụ do luật định. Tuy
nhiên vì họ là thế hệ của những ngƣời trẻ tuổi, là sản phẩm đích thực của thời
đại mà họ đang sống chứ không phải chỉ là thuần túy sản phẩm đào tạo, bồi
dƣỡng của thế hệ đi trƣớc. Vì vậy họ là lớp ngƣời vô cùng năng động, luôn
luôn chủ động, tích cực trong việc chuẩn bị hành trang cho tƣơng lai của bản
thân mình và của quốc gia – dân tộc. Bên cạnh những gì họ bị ảnh hƣởng do
tiếp nhận những sự trao truyền, giáo dục của thế hệ đi trƣớc thì họ luôn luôn
có sự lựa trọn của riêng mình và thế hệ của mình. Ngoài ảnh hƣởng của chế
độ “cha chú” trong cộng đồng gia đình hay quốc gia – dân tộc, trong thời đại
toàn cầu hóa, họ còn chịu ảnh hƣởng bởi nhiều yếu tố văn hóa, tri thức, kinh
nghiệm, giá trị và lựa trọn của các cộng đồng và cá nhân khác trên thế giới.
Xuất pháp từ lý do này, sinh viên nói chung và sinh viên mỹ thuật thƣờng có
xu hƣớng thử nghiệm nhiều khả năng, nhiều lựa chọn, ngay cả khi họ còn
chƣa đƣợc chuẩn bị đủ tốt cho những thử nghiệm đó, vì đối với họ, dù có
phạm sai lầm, vẫn có thời cơ làm lại, thử nghiệm lại. Hơn nữa, phần đông
sinh viên thƣờng có xu hƣớng kiểm trứng lại những lựa chọn, chế định và
quan niệm của thế hệ đi trƣớc, thậm chí cố tình phủ nhận, làm khác, coi đó
nhƣ một phƣơng thức để khẳng định tƣ cách “ngƣời lớn” của mình. Đó là
nguyên nhân thƣờng dẫn đến những “lệch chuẩn’’ trong suy nghĩ, nhận thức
và hành động của sinh viên.
Bốn là, sinh viên đƣợc học tập, rèn luyện trong môi trƣờng chính quy,
hoạt động trong tổ chức hết sức chặt chẽ. Các trƣờng đại học không chỉ là nơi
đào tạo, bồi dƣỡng thanh niên mà còn là môi trƣờng rèn luyện kỷ luật, xây
dựng nhân cách cho sinh viên. Trong những năm gần đây, các trƣờng mỹ
thuật luôn đƣợc Đảng, Nhà nƣớc, các Bộ ngành chủ quản quan tâm đầu tƣ cơ
sở vật chất, xây dựng hệ thống giảng đƣờng hiện đại; đội ngu cán bộ giảng

viên đƣợc đào tạo cơ bản, trình độ mọi mặt đƣợc nâng cao; nội dung, chƣơng
trình và phƣơng pháp dạy học không ngừng đƣợc đổi mới. Do vậy các trƣờng
12


mỹ thuật càng có điều kiện thuận lợi để bồi dƣỡng GDPL, rèn luyện ý thức
chấp hành giáo dục pháp luật cho sinh viên.
Đặc thù sinh viên các trường mỹ thuật ở Việt Nam
Sinh viên chuyên ngành mỹ thuật gồm cả nam và nữ. Tuy nhiên tỷ lệ nữ
chiếm nhiều hơn nam điển hình nhƣ trƣờng Đại học Mỹ thuật Việt Nam nữ
chiếm khoảng 60%; Đại học Mỹ thuật công nghiệp nữ chiếm khoảng 65%;
Đại học Mỹ thuật thành phố Hồ Chí Minh khoảng 57%; Đại học Mỹ thuật
Huế khoảng 55% (nguồn do Phòng Chính trị và công tác sinh viên các trƣờng
cung cấp); đã trúng tuyển kỳ thi tuyển sinh riêng của các trƣờng tổ chức thi
năng khiếu hàng năm hoặc xét tuyển môn năng khiếu và văn hóa. Thi tuyển
sinh đầu vào các em học sinh phải trải qua kỳ thi năng khiếu thể hiện qua hai
môn bố cục màu và hình họa. Môn bố cục mầu kiểm tra kiến thức cơ bản và
toàn diện nhất của ngƣời vẽ góp phần cơ bản cho sáng tác tạo hình, mỗi tác
phẩm trang trí là một bố cục phong phú kết hợp rất nhiều lớp họa tiết to nhỏ,
vừa đơn giản, lại vừa phức tạp. Chất liệu thể hiện rất phong phú có thể là chì,
than và mầu nƣớc. Môn hình họa kiểm tra thí sinh cách nhìn cách vẽ có căn
cứ khoa học và có phƣơng pháp để dần hƣớng tới phối hợp một cách thống
nhất nhịp nhàng giữa con mắt và bàn tay nhằm diễn tả đƣợc đối tƣợng lên mặt
giấy một cách chân thực và đạt giá trị thẩm mỹ.
Sinh viên trong môi trƣờng mỹ thuật yêu thích khám phá, theo đuổi cái
mới những ý tƣởng độc đáo và có óc sáng tạo để sáng tạo nghệ thuật, sáng tạo
trong các lĩnh vực của cuộc sống. Bên cạnh việc tuân thủ các quy định quy
chế của nhà trƣờng thì sinh viên mỹ thuật có sở thích cá nhân, yêu thích tự do,
làm việc theo cảm hứng nghệ thuật, thể hiện cái tôi của bản thân qua các tác
phẩm của mình.

Quá trình học tập của sinh viên mỹ thuật không chỉ đơn thuần diễn ra
trong các phòng học, giảng đƣờng mà còn diễn ra ở các địa điểm ngoài trời
nhƣ đi vẽ ký họa; hay làm tƣợng, phóng tƣợng; làm trang sức tại các sƣởng,
13


làm sơn mài, làm gốm tại các lò luyện gốm hoặc tại các làng nghề thủ công
mỹ nghệ; các công trình mỹ thuật ứng dụng đòi hỏi sinh viên phải trực tiếp
xuống các nhà máy in ấn hay ra các công trình xây dựng; …. Thông qua các
môn học chung và chuyên ngành rèn luyện sinh viên mỹ thuật phẩm chất và
những kiến thức kỹ năng cơ bản để hoàn thiện về khả năng tƣ duy sáng tạo,
giáo dục lý tƣởng thẩm mỹ cao đẹp và lý tƣởng xã hội chân chính.
Sinh viên trúng tuyển đến từ nhiều vùng miền khác nhau trong cả nƣớc
rất đa dạng về tập quán, truyền thống, do đó thói quen hành vi trong đời sống
xã hội nói chung và đời sống pháp lý nói riêng cũng in đậm các sắc thái văn
hóa riêng của từng vùng miền.
Sinh viên mỹ thuật có trình độ văn hóa cao, năng động thích ứng nhanh
với cơ chế mới đặc biệt là việc tiếp thu khoa học nghệ thuật, công nghệ mới
nhƣ các ngành đồ họa đa phƣơng tiện, các phần mềm hỗ trợ cho nghệ thuật
tạo hình…
Về tƣ tƣởng sinh viên chuyên ngành mỹ thuật ở Việt Nam hiện nay cơ
bản ổn định, có bƣớc chuyển biến mới trong nhận thức và ý thức chính trị.
Sinh viên chuyên ngành mỹ thuật chịu nhiều tác động của các yếu tố nhƣ: môi
trƣờng kinh tế xã hội, văn hóa thủ đô, quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa,
quá trình xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa, đạo đức, nếp
sống, và giá trị truyền thống dân tộc, truyền thống cách mạng, đạo đức nghề
nghiệp…Hầu hết sinh viên thể hiện sự tin tƣởng vào đƣờng lối và sự lãnh đạo
của Đảng bằng những việc làm thiết thức.
Trong thời kỳ hiện nay, có rất nhiều sinh viên mỹ thuật có ý chí vƣơn
lên trong học tập, có hoài bão khát khao lớn. Tuy nhiên dƣới tác động của nền

kinh tế thị trƣờng, kinh tế mở cửa, sự du nhập của nhiều nền văn hóa …hành
vi lệch chuẩn của sinh viên mỹ thuật có xu hƣớng ngày càng tăng, hiện tƣợng
vi phạm pháp luật, các tệ nạn xã hội ở một số ít sinh viên tại các trƣờng đào
tạo mỹ thuật vẫn còn: cụ thể nhƣ tình trạng vi phạm an toàn giao thông, trộm
14


cắp, ma túy….Hiện tƣợng một số sinh viên sử dụng thuốc lắc, xem và lƣu giữ
phim ảnh đồ trụy, bạo lực học đƣờng đã không còn là hiện tƣợng hi hữu.
Hiện tƣợng sinh viên vi phạm trật tự an toàn giao thông với các lỗi nhƣ
không đội mũ bảo hiểm, vƣợt đèn đỏ, đi vào đƣờng cấm, đi ngƣợc
chiều…trong đó có những trƣờng hợp đã gây ra những vụ tai nạn nghiêm
trọng nhiều trƣờng hợp tử vong. (năm 2017 trƣờng đại học Mỹ thuật công
nghiệp: 01 sinh viên tử vong do đi ngƣợc chiều tại nút giao thông Nguyễn Chí
Thanh; 102 trƣờng hợp sinh viên không đội mũ bảo hiểm khi tham gia giao
thông bị các cơ quan chức năng gửi về trƣờng; 3.8% vi phạm quy chế thi; Tại
trƣờng Đại học Mỹ thuật Việt Nam năm 2017 theo thống kê của Phòng Chính
trị công tác sinh viên có 22 trƣờng hợp sinh viên không đội mũ bảo hiểm vi
phạm luật giao thông, 15 trƣờng hợp đi vào đƣờng cấm, 5.2% sinh viên vi
phạm quy chế thi, kiểm tra; Tại trƣờng Đại học Mỹ thuật Thành phố Hồ Chí
Minh: 37 trƣờng hợp sinh viên không đội mũ bảo hiểm; 4.3% vi phạm quy
chế thi năm 2017).
Trong thời gian qua, hiện tƣợng sinh viên mỹ thuật vi phạm về quyền tác
giả, về sở hữu trí tuệ, sao chép tranh...diễn ra rất phổ biến. (Tại trƣờng Đại
học Mỹ thuật công nghiệp năm 2017 có 12 sinh viên bị ngừng thực hiện bài
thi tốt nghiệp do ăn cắp ý tƣởng của nhà thiết kế nƣớc ngoài; Năm 2018 có 01
sinh viên bị ngƣờng thực hiện bài thi tốt nghiệp do đạo bài; Tại trƣờng Đại
học Mỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh năm 2017 có 04 trƣờng hợp bị đình chỉ
học do sao chép tranh; trƣờng Đại học Mỹ thuật Việt Nam năm 2017 có 07
sinh viên bị đình chỉ do làm nhái tranh của họa sỹ nổi tiếng; Năm 2018 có 05

sinh viên sao chép tranh trái quy định bị kỷ luật – nguồn do phòng Chính trị
và công tác sinh viên các trƣờng cung cấp). Các số liệu trên chỉ là phần nổi
của tảng băng chìn bởi còn rất nhiều vụ việc sao chép, ăn cắp ý tƣởng, đạo
nhái các tác phẩm nghệ thuật nhƣng chƣa bị phát hiện…Tình trạng này không
chỉ làm ảnh hƣởng đến quyền và lợi ích của chủ thể quyền tác giả mà còn gây
15


tác động tiêu cực đến thị trƣờng mỹ thuật, đến đạo đức của sinh viên. Do vậy
việc bảo vệ quyền tác giả tác phẩm mỹ thuật, xây dựng môi trƣờng học tập
mỹ thuật lành mạnh, tuân thủ pháp luật là nhu cầu cần thiết trong giai đoạn
hiện nay. Yêu cầu đặt ra là việc tổ chức giáo dục pháp luật cho sinh viên
chuyên ngành mỹ thuật ở Việt Nam hết sức cấp thiết.
1.1.1.2.Đặc điểm tổ chức giáo dục pháp luật cho sinh viên chuyên ngành
mỹ thuật
Một là, TCGDPL cho sinh viên chuyên ngành mỹ thuật là một bộ phận
của công tác giáo dục chính trị, tƣ tƣởng.
Hoạt động TCGDPL cho sinh viên các trƣờng mỹ thuật là một bộ phận
của công tác giáo dục chính trị, tƣ tƣởng, là trách nhiệm của toàn bộ hệ thống
chính trị, dƣới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và sự điều phối, tổ
chức thực hiện của các cơ quan nhà nƣớc và các tổ chức đoàn thể. Chính vì
thế, việc giáo dục pháp luật đối với sinh viên các trƣờng mỹ thuật luôn có vị
trí và vai trò vô cùng quan trọng trong quá trình xây dựng Nhà nƣớc pháp
quyền XHCN hiện nay. Là khâu then chốt, quan trọng để chủ trƣơng, chính
sách của Đảng, pháp luật của Nhà nƣớc thực sự đi vào cuộc sống, đi vào ý
thức, hành động của từng cá nhân sinh viên trong xã hội. Hoạt động giáo dục
chính trị, tƣ tƣởng phải luôn thấm nhuần quan điểm chủ nghĩa Mac – Lênin và
tƣ tƣởng Hồ Chí Minh trong nhận thức và hành động của các thế hệ sinh viên
chuyên ngành mỹ thuật. Các quy định pháp luật chính là sự cụ thể hóa quan
điểm chủ nghĩa Mac – Lênin và tƣ tƣởng Hồ Chí Minh cũng nhƣ đƣờng lối

chính sách của Đảng cộng sản Việt Nam mỗi thời kỳ. Chính vì thế, khi giáo
dục pháp luật đối với sinh viên các trƣờng mỹ thuật cũng chính là một hoạt
động giáo dục chính trị, tƣ tƣởng.
Hai là, TCGDPL đối với sinh viên chuyên ngành mỹ thuật có mối liên
hệ chặt chẽ với công tác xây dựng, thực hiện pháp luật.

16


Nếu không nhận thức đầy đủ vị trí quan trọng và không nhận thức tốt
công tác TCGDPL thì dù công tác xây dựng pháp luật có làm tốt đến mấy
cũng không đạt đƣợc hiệu quả thực thi pháp luật. TCGDPL là cầu nối để
chuyển tải pháp luật vào cuộc sống. Nói cách khác, quá trình đƣa pháp luật
vào cuộc sống đƣợc bắt đầu bằng hoạt động phổ biến, GDPL.
Pháp luật của nhà nƣớc không phải lúc nào cũng đƣợc mọi ngƣời trong
xã hội biết đến, tìm hiểu, đồng tình ủng hộ và thực hiện nghiêm chỉnh. Tuy
rằng bản chất pháp luật của nhà nƣớc ta là tốt đẹp, nó phản ánh ý chí, nguyện
vọng, mong muốn, của đông đảo quần chúng nhân dân trong xã hội. Tuy
nhiên, dù những quy định pháp luật có tốt đẹp nhƣng không đƣợc nhân dân
biết đến thì vẫn không đi vào đời sống. Chính vì vậy TCGDPL chính là
phƣơng tiện truyền tải những thông tin, những yêu cầu, nội dung và các quy
định pháp luật đến với thanh niên nói chung sinh viên các trƣờng mỹ thuật nói
riêng, giúp cho sinh viên mỹ thuật hiểu biết, nắm bắt pháp luật kịp thời, mà
không mất quá nhiều thời gian cho việc tự tìm hiểu tự học tập. Đó chính là
phƣơng tiện hỗ trợ tích cực để nâng cao hiểu biết pháp luật cho sinh viên mỹ
thuật. Từ đó giúp cho sinh viên các trƣờng mỹ thuật có những nhận thức đúng
đắn để tránh vi phạm pháp luật. Đặc biệt đối với sinh viên các trƣờng mỹ
thuật, môi trƣờng học tập làm việc ngoài gắn với pháp luật hiện hành trong
đời sống xã hội hàng ngày thì việc gắn với quyền tác giả, tác phẩm những
tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ là những vấn đề nổi bật mà nhiều sinh viên

chƣa có nhận thức chín chắn dễ đi vào con đƣờng vi phạm pháp luật.
Ba là, quá trình giáo dục đƣợc tiến hành trong một trật tự nghiêm túc,
đây là điều kiện tiên quyết trong giáo dục của các trƣờng mỹ thuật, có tác
động mạnh mẽ đến việc hình thành ở sinh viên ý thức kỷ luật, tính tổ chức và
tinh thần đoàn kết cao. Đó là những yếu tố rất gần gũi với mục tiêu GDPL,
tạo ra những khả năng lớn cho việc vận dụng, áp dụng những hình thức giáo
dục mang tính tổng hợp, có hiệu quả giáo dục cao.
17


Bốn là, TCGDPL đối với sinh viên chuyên ngành mỹ thuật đòi hỏi phải
sử dụng các phƣơng pháp, hình thức TCGDPL phù hợp với trình độ, sự phát
triển của khoa học công nghệ, đặc điểm về nhận thức, lối sống, văn hóa của
sinh viên các trƣờng mỹ thuật. Bởi lẽ về nguyên tắc, chủ thể TCGDPL phải
căn cứ vào mục đích, nội dung chƣơng trình và đặc biệt là đặc điểm đối tƣợng
tiếp nhận về nhận thức, lối sống để lựa chọn và sử dụng phƣơng pháp, hình
thức TCGDPL cho phù hợp. Điều đó có nghĩa là trang bị cái mà sinh viên mỹ
thuật cần chứ không phải là trang bị cái mà giáo dục pháp luật có. Với đối
tƣợng GDPL đối với sinh viên các trƣờng mỹ thuật – là những ngƣời chủ
tƣơng lai của đất nƣớc, những ngƣời nghệ sỹ làm việc theo cảm hứng nghệ
thuật, năng động, sáng tạo sẵn sàng tiếp thu sự tiến bộ của khoa học công
nghệ, có lối sống tác phong công nghiệp. Vì vậy, cầm đặc biệt quan tâm giáo
dục, rèn luyện để trở thành những con ngƣời phát triển toàn diện, có kiến thức
pháp luật và trách nhiệm công dân. Bên cạnh những phƣơng pháp giáo dục
truyền thống cần tăng cƣờng áp dụng các phƣơng pháp hiện đại, có sử dụng
công nghệ phù hợp với đặc điểm của sinh viên mỹ thuật tác động nhanh vào
nhận thức và áp dụng trong quá trình học tập cũng nhƣ làm việc sau này. Với
sinh viên chuyên ngành mỹ thuật nhất là mỹ thuật ứng dụng là những ngành
nghề đòi hỏi sự sáng tạo và áp dụng các phƣơng pháp hiện đại, công nghệ cao
thì đòi hỏi đối với chủ thể giáo dục pháp luật cần có nhiều hình thức để phù

hợp với từng loại đối tƣợng.
Năm là, nội dung tổ chức giáo dục pháp luật cho sinh viên chuyên ngành
mỹ thuật là truyền đạt những kiến thức pháp luật và các quy định của hệ thống
pháp luật hiện hành, đặc biệt là những kiến thức pháp luật về lĩnh vực sở hữu trí
tuệ, và bản quyền. Nhằm ngăn ngừa việc sao chép làm giả các tác phẩm mỹ
thuật, bồi dƣỡng tình cảm và hành vi pháp luật hợp pháp cho sinh viên.

18


1.1.1.3.Mục đích của tổ chức giáo dục pháp luật cho sinh viên chuyên ngành
mỹ thuật
Việc xác định mục đích cụ thể của tổ chức giáo dục pháp luật nói chung
và tổ chức giáo dục pháp luật đối với sinh viên chuyên ngành mỹ thuật nói
riêng phải đảm bảo phản ánh đƣợc các nhu cầu cụ thể của xã hội, phù hợp các
điều kiện khách quan, chủ quan trong từng thời kỳ để cho mục đích đó có thể
trở thành hiện thực. Đồng thời, bản thân mục đích này không thể là sự xác
định chủ quan “duy ý chí” mà phải phản ánh đƣợc trong nó hiện thực tiến
hành công tác giáo dục pháp luật, phải có quan hệ trực tiếp với công tác này.
Từ đó, việc xác định đúng đắn mục đích tổ chức, giáo dục pháp luật đối với
sinh viên sẽ giúp cho việc xác định nội dung, hình thức, biện pháp tổ chức
giáo dục pháp luật, nâng cao hiệu quả của hoạt động tổ chức giáo dục pháp
luật nói chung và tổ chức giáo dục pháp luật đối với sinh viên chuyên ngành
mỹ thuật nói riêng. Vì vậy, căn cứ vào các đòi hỏi khi xác định mục đích tổ
chức giáo dục pháp luật nhiều nhà nghiên cứu thống nhất các mục đích cơ bản
sau đây:
Thứ nhất, hình thành và từng bƣớc mở rộng hệ thống tri thức pháp luật
cho sinh viên chuyên ngành mỹ thuật.
Thông qua việc tổ chức giáo dục pháp luật sinh viên đƣợc trang bị
những tri thức cơ bản về pháp luật nhƣ giá trị của pháp luật, vai trò điều chỉnh

của pháp luật, các chuẩn mực của pháp luật trong từng lĩnh vực của đời sống.
Hình thành tri thức pháp luật là nền móng cơ bản để xây dựng tình cảm pháp
luật, là nền tảng giúp sinh viên mỹ thuật biết cách hành động phù hợp với các
chuẩn mực đặt ra.
Trên cơ sở kiến thức pháp luật đƣợc trang bị, từng bƣớc mở rộng và làm
sâu sắc tri thức pháp luật, giúp sinh viên am hiểu hơn về pháp luật và biết
cách đánh giá một cách đúng đắn các hành vi pháp lý. Tri thức pháp luật góp
phần định hƣớng cho lòng tin đúng đắn và các giá trị của pháp luật, tạo cơ sở
19


×