Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Thực trạng về tổ chức dạy và học tiếng Anh tại trường Đại học Xây dựng miền Trung – một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đào tạo

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (251.97 KB, 6 trang )

ó mỗi hành vi ngôn ngữ
của người học sẽ thay đổi tùy thuộc vào
những phản ứng và câu trả lời trước đó
của những người cùng tham gia. Một
phương pháp cố định không thể là chìa
khoá chung cho mọi giảng viên mà phải
tuỳ thuộc từng hoàn cảnh lớp học, đối
tượng học, nội dung học để mỗi giảng
viên cần điều chỉnh các hoạt động giảng
dạy hợp lý. Chúng ta không thể có một
phương pháp cụ thể cứng nhắc áp dụng
cho tất cả các đối tượng mà phải phụ
thuộc vào trình độ nhận thức, năng
khiếu, sở thích, niềm say mê với môn học
mà người dạy và người học chọn cho

85


Thông báo Khoa học và Công nghệ
Số 1/2016

mình phương pháp riêng để học tập và
giảng dạy. Một số phương pháp dạy học
sau đây có thể được xem là phương pháp
có thể phát huy tính tích cực chủ động
trong học tập.
3.2.1.
Phương
pháp
động


não
(Brainstorming)
Động não là phương pháp giúp sinh
viên trong một thời gian ngắn nảy sinh
được nhiều ý tưởng, nhiều giả định về một
vấn đề nào đó. Thực hiện phương pháp
này, giảng viên cần đưa ra một hệ thống
các thông tin làm tiền đề cho buổi thảo
luận. Để thực hiện phương pháp này,
giảng viên nêu câu hỏi, vấn đề cần được
tìm hiểu trước cả lớp hoặc trước nhóm và
khích lệ sinh viên phát biểu và đóng góp ý
kiến càng nhiều càng tốt. Sau đó giảng
viên liệt kê tất cả các ý kiến phát biểu đưa
lên bảng và phân loại ý kiến để làm sáng
tỏ những ý kiến chưa rõ ràng và thảo luận
sâu từng ý.
3.2.2. Phương pháp vấn đáp (oral)
Vấn đáp là phương pháp trong đó
giảng viên đặt ra câu hỏi để sinh viên trả
lời, hoặc sinh viên có thể tranh luận với
nhau và với cả giảng viên, qua đó sinh
viên lĩnh hội được nội dung bài học. Căn
cứ vào tính chất hoạt động nhận thức,
người ta phân biệt các loại phương pháp
vấn đáp:
- Vấn đáp tái hiện: giảng viên đặt
câu hỏi chỉ yêu cầu sinh viên nhớ lại kiến
thức đã biết và trả lời dựa vào trí nhớ,
không cần suy luận. Vấn đáp tái hiện

không được xem là phương pháp có giá trị
sư phạm. Đó là biện pháp được dùng khi
cần đặt mối liên hệ giữa các kiến thức vừa
mới học.
- Vấn đáp giải thích – minh hoạ:
Nhằm mục đích làm sáng tỏ một đề tài
nào đó, giảng viên lần lượt nêu ra những
câu hỏi kèm theo những ví dụ minh hoạ
để sinh viên dễ hiểu, dễ nhớ. Phương
pháp này đặc biệt có hiệu quả khi có sự
hỗ trợ của các phương tiện nghe – nhìn.
- Vấn đáp tìm tòi như là giảng viên
dùng một hệ thống câu hỏi được sắp xếp

Information of Science and Technology
No. 1/2016

hợp lý để hướng sinh viên kích thích sự
ham hiểu biết của mình. Giảng viên tổ
chức sự trao đổi ý kiến, tranh luận giữa
giảng viên với cả lớp nhằm giải quyết vấn
đề đã đặt ra. Trong vấn đáp tìm tòi, giảng
viên giống như người tổ chức sự tìm tòi,
còn sinh viên giống như người tự lực phát
hiện kiến thức mới. Vì vậy, khi kết thúc
cuộc đàm thoại, sinh viên có được niềm
vui của sự khám phá trưởng thành thêm
một bước về trình độ tư duy.
3.3.3. Phương pháp hoạt động nhóm
(Group based Learning)

Lớp học được chia thành từng nhóm
nhỏ từ 5 đến 7 người. Tùy mục đích, yêu
cầu của vấn đề học tập, các nhóm được
phân chia ngẫu nhiên hay có chủ định,
Khi làm việc nhóm, các thành viên phải
làm việc theo qui định do giảng viên đặt
ra hoặc do chính nhóm đặt ra. Các thành
viên đều phải làm việc chủ động, không
thể ỷ lại vào một vài người hiểu biết và
năng động hơn. Các thành viên trong
nhóm giúp đỡ nhau tìm hiểu vấn đề nêu
ra trong không khí thi đua với các nhóm
khác. Khi có một nhóm nào lên thuyết
trình, các nhóm còn lại phải đặt ra các câu
hỏi phản biện hoặc câu hỏi đề nghị làm
sáng tỏ vấn đề. Phương pháp hoạt động
nhóm giúp các thành viên trong nhóm
chia sẻ những kinh nghiệm của bản thân,
cùng nhau xây dựng nhận thức mới. Bằng
cách nói ra những điều đang nghĩ, mỗi
người có thể nhận rõ trình độ hiểu biết
của mình về chủ đề nêu ra. Bài học trở
thành quá trình học hỏi lẫn nhau chứ
không phải là sự tiếp nhận thụ động từ
giảng viên.
Thành công của bài học phụ thuộc
vào sự nhiệt tình tham gia của mọi thành
viên, vì vậy phương pháp này còn gọi là
phương pháp cùng tham gia. Tuy nhiên,
phương pháp này bị hạn chế bởi không

gian chật hẹp của lớp học, bởi thời gian
hạn định của tiết học, cho nên giảng viên
phải biết tổ chức hợp lý và sinh viên đã
khá quen với phương pháp này thì mới có
kết quả. Trong hoạt động nhóm, tư duy

86


Thông báo Khoa học và Công nghệ
Số 1/2016

tích cực của sinh viên phải được phát huy
và ý nghĩa quan trọng của phương pháp
này là rèn luyện năng lực hợp tác giữa các
thành viên trong tổ chức lao động.
3.2.4. Phương pháp đóng vai (Role
playing)
Đóng vai là phương pháp tổ chức
cho sinh viên thực hành một số cách ứng
xử nào đó trong một tình huống giả định.
Trên thực tế, phương pháp đóng vai có
một số ưu điểm như sinh viên được rèn
luyện thực hành những kỹ năng ứng xử và
bày tỏ thái độ trong môi trường an toàn
trước khi thực hành trong thực tiễn, gây
hứng thú và chú ý cho sinh viên và tạo
điều kiện làm nảy sinh óc sáng tạo của
sinh viên, khích lệ sự thay đổi thái độ,
hành vi của sinh viên theo chuẩn mực

hành vi đạo đức và chính trị - xã hội. Có
thể thấy ngay tác động và hiệu quả của
lời nói hoặc việc làm của các vai diễn.
Cách tiến hành phương pháp này giảng
viên chia nhóm, giao tình huống đóng vai
cho từng nhóm và quy định rõ thời gian
chuẩn mực, thời gian đóng vai. Các nhóm
thảo luận chuẩn bị đóng vai. Khi sử dụng
phương pháp này giảng viên nên cho tình
huống mở, không cho trước “kịch bản”, lời
thoại. Phải dành thời gian phù hợp cho các
nhóm chuẩn bị đóng vai. Người đóng vai
phải hiểu rõ vai của mình trong bài tập
đóng vai để không lạc đề. Nên khích lệ cả
những sinh viên nhút nhát tham gia. Nên
hoá trang và đạo cụ đơn giản để tăng tính
hấp dẫn của trò chơi đóng vai.
Phương pháp này có thể giúp đạt
được chuẩn đầu ra như: Tư duy suy xét,
phản biện; nhận biết về kiến thức, kỹ
năng và thái độ cá nhân của bản thân.
3.2.5 Phương pháp đặt và giải quyết
vấn đề. (Problem based learning)
Mục tiêu của học dựa trên vấn là để
học nhiều hơn về một chủ đề chứ không
phải là chỉ tìm ra những câu trả lời đúng
cho những câu hỏi được giảng viên đưa ra
(Hmelo-Silver, 2004). Trong phương pháp
học dựa trên vấn đề, sinh viên vừa nắm
được kiến thức mới, vừa nắm được


Information of Science and Technology
No. 1/2016

phương pháp lĩnh hội kiến thức đó, phát
triển tư duy chủ động, sáng tạo, được
chuẩn bị một năng lực thích ứng với đời
sống xã hội, phát hiện kịp thời và giải
quyết hợp lý các vấn đề nảy sinh (HmeloSilver, 2004).
Muốn tạo được một môi trường học
tập năng động và hấp dẫn trong đó có sự
phối hợp tích cực của thầy và trò. Việc áp
dụng phương pháp với vai trò là người
điều khiển trong quá trình dạy học, người
dạy phải tạo ra mọi tình huống, mọi khả
năng để hướng dẫn các hoạt động của
người học trong giờ học. Người dạy cần
vận dụng mọi thao tác và phương tiện, cử
chỉ điệu bộ để tăng cường thúc đẩy các
hoạt động giao tiếp. Các phương tiện dạy
học được phát huy triệt để.
3.3 Một số kiến nghị đối với nhà
trường
Nhà trường cần trang bị đầy đủ
phương tiện phù hợp với điều kiện giảng
dạy đặc thù cho giờ học tiếng Anh, trang
thiết bị nghe nhìn, internet đảm bảo chất
lượng phục vụ cho việc giảng dạy và học
tập trực tuyến trên lớp. Sĩ số lớp phù hợp
không quá 30 sinh viên/lớp.

Tăng thêm thời lượng cho môn tiếng
Anh trên lớp ít nhất là 180 tiết tương
đương (12 tín chỉ).
Tiếp tục phát huy việc khảo sát,
kiểm tra, đánh giá, phân loại trình độ
tiếng Anh đầu vào của sinh viên năm thứ
nhất bậc đại học để định hướng kế hoạch
xếp lớp theo năng lực và trình độ tiếng
Anh của sinh viên từ đó lên kế hoạch bồi
dưỡng kịp thời để sinh viên có thể đủ kiến
thức tiếp tục tham gia vào học tiếng Anh
chính khóa đồng thời giúp sinh viên nhận
biết trình độ tiếng Anh hiện có ý thức để
định hướng và có sự chuẩn bị tốt hơn.
Phối hợp các đối tượng tình nguyện
viên bản ngữ của các tổ chức quốc tế
tham gia vào câu lạc bộ tiếng Anh để sinh
viên có cơ hội tiếp cận và sử dụng tiếng
Anh ngoài lớp.
Tăng thêm giáo trình và tài liệu
tham khảo tiếng Anh ở thư viện hỗ trợ cho

87


Thông báo Khoa học và Công nghệ
Số 1/2016

sinh viên có điều kiện nâng cao năng lực
ngôn ngữ.

Mỗi năm Nhà trường cần tạo điều
kiện cho giảng viên tiếng Anh có cơ hội đi
học tập, bồi dưỡng nghiên cứu chuyên
môn, năng lực ngôn ngữ ở các nước bản
ngữ.
IV. Kết luận
Tóm lại, để giúp sinh viên đạt chuẩn
đầu ra theo bộ giáo dục đào tạo quy định,
cả tập thể lãnh đạo nhà trường, giảng
viên ngoại ngữ cùng tất cả các sinh viên
đại học trong trường phải nổ lực hết sức
và quyết tâm cao. Sinh viên phải tự học
và biết chủ động nỗ lực trong học tập khi
thực hiện lộ trình trên là yếu tố quan
trọng hàng đầu. Với giảng viên cho thấy
giảng dạy với phương pháp phù hợp như

Information of Science and Technology
No. 1/2016

chú trọng hướng dẫn thực hiện các bài tập
trau dồi kỹ năng, luyện chiến thuật học
nghe, nói, đọc, viết là phương châm chủ
đạo trong quá trình giảng dạy môn học.
Đối với nhà trường, lộ trình đạt chuẩn bậc
3 đối với sinh viên là một yếu tố quan
trọng. Để tối đa hiệu quả là tính đồng bộ,
và nhất quán trong cách tổ chức thực hiện
mục tiêu này, không thể thiếu sự hỗ trợ từ
phía nhà trường với sự cải tiến và trang bị

mới các thiết bị hỗ trợ dạy và học ngôn
ngữ. Nếu đảm bảo được tính đồng bộ của
các hoạt động dạy, học, sự quyết tâm cao
từ phía nhà trường, giảng viên và sinh
viên, chúng tôi tin rằng việc đào tạo sinh
viên ở Trường ĐHXD Miền trung có trình
độ năng lực ngoại ngữ đạt chuẩn bậc 3
như quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bachman, L.F & Palmer, A.S, 1996.Language Testing in Practice. OUP.
2. Ngô Doãn Đãi, 2001.Đa dạng hóa phương pháp giảng dạy để nâng cao chất lượng đào tạo, Tài liệu tham
khảo phương pháp giảng dạy đại học, Đại học Quốc gia Hà Nội.
3. N.T.T.Hà & V.Đ.Phước, 2007. Làm thế nào để có được hiệu quả đào tạo tiếng Anh trong chương trình chính
quy không chuyên tại ĐHKT TP Hồ Chí Minh trong cuốn Giảng dạy tiếng Anh ở bậc đại học tại Việt Nam: Vấn đề
và giải pháp. NXB Đại học Quốc gia TP Hồ Chí Minh.
4. Đặng Vũ Hoạt và Hà Thị Đức, 2008. Lý luận dạy học Đại học, NXB Đại học Sư phạm.
5. Nguyễn Đình Hòe, 2001. Cải tiến phương pháp giảng dạy đại học nhằm thích ứng với nền kinh tế tri thức. Tài
liệu tham khảo phương pháp giảng dạy đại học, Đại học Quốc gia Hà Nội.
6. PGS. TS Trần Văn Hiếu, 2015. Giáo trình lí luận dạy học đại học.
7. TS. Nguyễn Thanh Hùng, 2016. Bài giảng lí luận dạy học đại học.
8. Nguyễn Cảnh Toàn (Chủ biên), 1998. Quá trình dạy - tự học; NXB Giáo dục.
9. Thái Duy Tuyên, 1999. Những vấn đề cơ bản giáo dục học hiện đại; NXB Giáo dục.
10. Thái Duy Tuyên, 2008. Phương pháp dạy học - Truyền thống và đổi mới. NXB Giáo dục.

88




×