Tải bản đầy đủ (.docx) (28 trang)

LÍ LUẬN CHUNG VỀ CHẤT LƯỢNG PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH KHÁCH HÀNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (162.44 KB, 28 trang )

LÍ LUẬN CHUNG VỀ CHẤT LƯỢNG PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH
KHÁCH HÀNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1 Phân tích tài chính khách hàng của ngân hàng thương mại
1.1.1 Khái niệm về phân tích tài chính doanh nghiệp
Từ đầu thế kỉ 20 tới nay phân tích tài chính thực sự được phát triển và được
chú trong hơn bao giờ hết bởi nhu cầu quản lí doanh nghiệp có hiệu quả ngày
càng tăng, sự phát triển của hệ thống tài chính, sự phát triển của các tập đoàn
kinh doanh và khả năng ứng dụng rộng rãi của công nghệ thông tin. Hoạt động
phân tích tài chính là một khâu quan trọng trong quá trình quản lí doanh nghiệp,
làm cơ sở cho việc ra quyết định của các chủ thể như nhà quản lí, nhà đầu tư,
cho vay, cơ quan thuế hay đáp ứng yêu cầu của những người muốn có thông tin
về tình hình hoạt động của doanh nghiệp như thanh tra, cảnh sát kinh tế, luật sư,
người lao động trong doanh nghiệp… để thực hiện công việc của họ tốt hơn.
Phân tích tài chính là sử dụng một tập hợp các khái niệm, phương pháp và
các công cụ cho phép xử lí các thông tin kế toán và các thông tin khác về quản
lí nhằm đánh giá tình hình tài chính một doanh nghiệp, đánh giá rủi ro, mức
độ và chất lượng hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp đó. Qui trình thực hiện
phân tích tài chính ngày càng được áp dụng rộng rãi trong mọi đơn vị kinh tế
được tự chủ nhất định về tài chính như các doanh nghiệp thuộc mọi hình thức,
được áp dụng trong các tổ chức xã hội, tập thể và các cơ quan quản lí, tổ chức
công cộng. Đặc biệt, sự phát triển của các doanh nghiệp, các ngân hàng, và của
thị trường vốn đã tạo nhiều cơ hội để phân tích tài chính chứng tỏ thực sự là có
ích và vô cùng cần thiết.
Đối với các ngân hàng thương mại, hoạt động chủ yếu là huy động và cho
vay. Để ngân hàng hoạt động có hiệu quả thì điều quan trọng bậc nhất là các
khoản cho vay của ngân hàng phải luôn đảm bảo ở mức an toàn. Cơ sở để hình
thành một khoản vay tốt phụ thuộc rất nhiều vào việc phân tích tài chính khách
hàng. Qua kết quả của phân tích tài chính, người cho vay sẽ nắm được tình hình
sản xuất kinh doanh ở hiện tại cũng như trong quá khứ của doanh nghiệp, phân
tích tài chính sẽ trả lời cho họ những câu hỏi như khách hàng có phương án sử
dụng vốn hiệu quả không? mục đích sử dụng vốn vay có hợp lí không? khách


hàng có thể trả nợ và lãi đúng hạn hay không? ngân hàng có quyền đối với tài
sản và thu nhập của khách hàng khi khoản vay có vấn đề và ngân hàng có thể
thu hồi vốn nhanh chóng với rủi ro và chi phí thấp được không? …Do vậy phân
tích tài chính khách hàng được xem là cơ sở quan trọng để đưa ra các quyết
định trong hoạt động tín dụng của ngân hàng. Do đó phân tích tài chính trong
thẩm định tín dụng của ngân hàng thương mại là việc đánh giá một cách
khách quan, khoa học, và có hệ thống toàn bộ tình hình tài chính doanh
nghiệp trên giác độ ngân hàng, nhằm đảm bảo tính hiệu quả của khoản vay
trước khi ra quyết định cấp tín dụng cho doanh nghiệp.
1.1.2 Mục tiêu của phân tích tài chính khách hàng trong ngân hàng
thương mại
Những người ở những vị trí khác nhau có những mục tiêu khác nhau khi
tiến hành phân tích tài chính. Mối quan tâm của từng đối tượng cũng như quyết
định của từng đối tượng chỉ phù họp và được đáp ứng khi tiến hàng phân tích tài
chính. Mục đích chính của phân tích tài chính là giúp các đối tượng sử dụng
thông tin đánh giá đúng tình hình tài chính, khả năng sinh lãi và triển vọng của
doanh nghiệp từ đó đưa ra những quyết định phù hợp với mục tiêu mà họ quan
tâm. Tuy nhiên những báo cáo tài chính là những tài liệu mang tính chất lịch sử
vì chúng cho biết thông tin của một thời kì nhất định vì thế mục đích của phân
tích tài chính là giúp đối tượng quan tâm đưa ra quyết định và hành động hợp lí
trên cơ sở thông tin mang tính lịch sử của báo cáo tài chính.
Đối với nhà quản trị phân tích tài chính để nhằm đánh giá hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp, xác định điểm mạnh điểm yếu của doanh nghiệp, đó là
cơ sở để định hướng cho các quyết định của ban giám đốc, giám đốc tài chính,
dự báo tình hình tài chính, kế hoạch đầu tư, ngân quĩ, và kiểm soát các hoạt
động quản lí khác. Mối quan tâm hàng đầu của nhà quản trị là tìm kiếm lợi
nhuận và khả năng trả nợ để đảm bảo khả năng tồn tại và phát triển của doanh
nghiệp, ngoài ra còn có các mục tiêu khác như tạo công ăn việc làm, nâng cao
chất lượng sản phẩm, bảo vệ môi trường… những mục tiêu này chỉ thực hiện
được khi doanh nghiệp làm ăn có lãi.

Đối với các nhà đầu tư thông qua hoạt động phân tích tài chính, họ có thể
thu thập nhưng thông tin về tình hình thu nhập của chủ sở hữu- lợi tức cổ phần
và giá trị tăng thêm của vốn đầu tư. Họ quan tâm tới phân tích tài chính để nhận
biết khả năng sinh lãi của doanh nghiệp, rủi ro, khả năng hoàn vốn, mức tăng
trưởng hiện tại và tương lai. Đó là một trong những căn cứ giúp họ ra quyết
định bỏ vốn vào doanh nghiệp hay không.
Đối với người cho vay, cần phân tích tài chính để nhận biết khả năng trả
nợ vay của khách hàng, mà chủ yếu là tập trung xem xét luồng tiền tạo ra của
doanh nghiệp, các tài sản có khả năng chuyển đổi nhanh thành tiền, vốn chủ sở
hữu, tỉ lệ vốn nợ của doanh nghiệp để biết rằng doanh nghiệp có khả năng thanh
toán nợ và lãi đúng hạn hay không. Thông thường, ngân hàng thường xem xét
tình hình tài chính của khách hàng để trả lời những câu hỏi quan trọng như:
khách hàng có đáng tin cậy không? liệu khoản vay có đảm bảo an toàn cho ngân
hàng, khách hàng có sử dụng vốn đúng mục đích không, liệu ngân hàng có
quyền đối với những tài sản và thu nhập của doanh nghiệp khi khoản vay có vấn
đề, liệu ngân hàng có thể thu hồi vốn và lãi với rủi ro và chi phí thấp được
không.
Như vậy mối quan tâm hàng đầu của người phân tích tài chính là đánh giá
khả năng xảy ra rủi ro phá sản tác động tới doanh nghiệp mà biểu hiện của nó là
khả năng thanh toán, khả năng cân đối vốn, khả năng hoạt động cũng như khả
năng sinh lãi của doanh nghiệp. Trên cơ sở đó, các nhà phân tích tài chính tiếp
tục nghiên cứu và đưa ra những dự đoán về kết quả hoạt động nói chung và mức
doanh lợi nói riêng của doanh nghiệp trong tương lai. Nói cách khác phân tích
tài chính là cơ sở để dự đoán tài chính. Tuy nhiên phân tích tài chính có thể
đước ứng dụng theo nhiều phương cách khác nhau nhưng trình tự phân tích và
dự đoán đều phải tuân theo những nghiệp vụ phân tích thích ứng với từng giai
đoạn dự đoán.
1.1.3 Thông tin và phương pháp sử dụng trong phân tích tài chính khách
hàng
1.1.3.1 Thông tin sử dụng

Trong phân tích tài chính nhà phân tích phải thu thập, sử dụng mọi nguồn
thông tin: từ những thông tin nội bộ đến những thông tin bên ngoài doanh
nghiệp, từ những thông tin số lượng đến thông tin giá trị. Những thông tin này
đều giúp nhà phân tích có thể đưa ra những nhận xét kết luận chi tiết và thích
đáng.
Trong những thông tin bên ngoài cần chú ý tới những thông tin chung của
ngành, lĩnh vực hoạt động của doanh nghiệp như: cơ hội kinh doanh, chính sách
thuế, lãi suất, vị trí của ngành trong nền kinh tế, cơ cấu ngành và các sản phẩm
của ngành, tình trạng công nghệ, thị phần của doanh nghiệp, các thông tin về
pháp lí, kinh tế đối với doanh nghiệp như tình hình quản lí, kế toán, kiểm toán,
kế hoạch sử dụng kết quả kinh doanh… Ngoài ra nguồn cung cấp thông tin cũng
là một yếu tố quyết định tới độ chính xác và đáng tin cậy của thông tin sử dụng
phân tích tài chính. Đối với ngân hàng nguồn thông tin có thể từ nhiều nguồn
cung cấp như: chính khách hàng cung cấp, từ cơ quan thuế, cơ quan quản lí cấp
trên của doanh nghiệp, thông tin từ ngân hàng nhà nước, từ các ngân hàng khác,
từ báo chí… hoặc thông tin từ chính trung tâm thông tin của ngân hàng.
Tuy nhiên để đánh giá một cách cơ bản tình hình tài chính của doanh
nghiệp có thể sử dụng thông tin kế toán như là một nguồn thông tin quan trọng
nhất. Với tính hệ thống, đồng nhất, phong phú kế toán hoạt động như một nhà
cung cấp thông tin quan trọng và tin cậy cho phân tích tài chính. Mặt khác
doanh nghiệp cũng cần phải cung cấp những thông tin kế toán cho các bên đối
tác trong và ngoài doanh nghiệp. Thông tin kế toán được phản ánh khá đầy đủ
trong các báo cáo kế toán. Phân tích tài chính được thực hiện trên cơ sở các báo
cáo tài chính - được hình thành thông qua việc xử lí các thông tin của kế toán
cung cấp, đó là bảng cân đối kế toán, báo cáo kết quả kinh doanh, báo cáo lưu
chuyển tiền tệ.
Bảng cân đối kế toán là một báo cáo tài chính mô tả tình hình tài chính
của doanh nghiệp tại một thời điểm nhất định nào đó. Đây là một báo cáo tài
chính có ý nghĩa rất quan trọng đối với mọi đối tượng có quan hệ sở hữu, quan
hệ kinh doanh, và quan hệ quản lí với doanh nghiệp. Thông thường bảng cân

đối kế toán được trình bày dưới dạng bảng cân đối số dư các tài khoản kế toán:
một bên phản ánh tài sản và một bên phản ảnh nguồn vốn của doanh nghiệp.
Bên tài sản của bảng cân đối kế toán phản ánh giá trị của toàn bộ tài sản
hiện thời ở thời điểm lập báo cáo thuộc quyền quản lí và sử dụng của doanh
nghiệp đó là tài sản lưu động và tài sản cố định. Bên nguồn vốn phản ánh số vốn
để hình thành các loại tài sản ở cùng thời điểm đó là vốn chủ sở hữu và vốn vay.
Các khoản mục bên phía tài sản được sắp xếp theo thứ tự tính thanh khoản giảm
dần còn bên nguồn vốn các khoản mục được sắp xếp theo nghĩa vụ nợ giảm
dần.
Bên tài sản bao gồm các khoản mục Tài sản lưu động, và tài sản cố định.
Trong tài sản lưu động lại gồm: tiền mặt, các loại chứng khoán thanh khoản, các
khỏan phải thu khách hàng hoặc phải thu nhà cung cấp, nguyên vật liệu hàng,
công cụ dụng cụ dự trữ, hàng hóa trong kho… Tài sản cố định bao gồm máy
móc, nhà xưởng, thiết bị, công nghệ, các khoản đầu tư góp vốn dài hạn, thương
hiệu, bản quyền, giấy phép …
Bên nguồn vốn có nợ phả trả: các khoản nợ ngắn hạn như nợ nhà cung
cấp, phải trả khách hàng, lương công nhân viên chưa thanh toán, nợ ngân hàng
ngắn hạn, lãi ngân hàng sắp phải trả… nợ dài hạn gồm nợ ngân hàng, trái phiếu,
kí quĩ… vốn chủ sở hữu bao gồm vốn góp ban đầu, lợi nhuận chưa chia, các quĩ
khen thưởng, phúc lợi, vốn liên doanh liên kết…
Về mặt kinh tế, bên tài sản phản ánh qui mô và kết cấu các loại tài sản,
bên nguồn vốn phản ánh cơ cấu tài trợ, cơ cấu vốn cũng như khả năng độc lập
về tài chính của doanh nghiệp. Bên tài sản cũng như bên nguồn vón của bảng
cân đối kế toán thường đều có cột chỉ tiêu số dư đầu kì cuối kì. Ngoài ra còn có
một số chỉ tiêu ngoại bảng như: Tài sản thuê ngoài, vật tư hàng hóa nhận giữ hộ,
nhận gia công , nhận bán hộ, ngoại tệ các loại…
Thông tin trong bảng cân đối kế toán giúp nhà phân tích nhận biết được
loại hình doanh nghiệp, qui mô, mức độ tự chủ về tài chính. Bảng cân đối kế
toán là báo cáo tài chính quan trọng bậc nhất, thông qua đó nhà phân tích có thể
tính toán đánh giá được các chỉ tiêu như khả năng cân bằng tài chính, khả năng

thanh toán, khả năng cân đối vốn.
Báo cáo kết qủa kinh doanh cũng là một tài liệu cần thiết cho hoạt động
phân tích tài chính. Báo cáo kết quả kinh doanh cho biết sự dịch chuyển của tiền
tệ trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và cho phép dự tính
khả năng hoạt động của doanh nghiệp trong tương lai. Báo cáo này giúp nhà
phân tích so sánh doanh thu với số tiền thực tế nhập quĩ khi bán hàng, cung cấp
dịch vụ, so sánh tổng chi phí phát sinh với số tiền thực xuất ra để vận hành
doanh nghiệp. Trên cơ sở doanh thu chi phí, có thể xác định kết quả sản xuất
kinh doanh của đơn vị lãi hay lỗ trong một giai đoạn thường tính theo tháng,
quí, năm. Khác với bảng cân đối kế toán cho biết số liệu thời điểm, báo cáo kết
quả kinh doanh phản ánh kết quả kinh doanh trong cả một giai đoạn, thời kì
nhất định. Nó cung cấp những thông tin tổng hợp về tình hình và kết quả sử
dụng các yếu tố đầu vào như: nhân công, nguyên vật liệu, kĩ thuật, trình độ quản
lí sản xuất kinh doanh của bản thân doanh nghiệp.
Các khoản mục chủ yếu của báo cáo kết quả kinh doanh thường là: doanh
thu từ hoạt động sản xuất kinh doanh chính, doanh thu từ hoạt động tài chính,
doanh thu từ hoạt động bất thường, chi phí tương ứng với những hoạt động đó,
tình hình nghĩa vụ phải thực hiện với nhà nước, lợi nhuận trước thuế, lợi nhuận
sau thuế…
Để đánh giá một doanh nghiệp có khả năng chi trả hay không, nhà phân
tích tài chính cần tìm hiểu tình hình ngân quĩ của doanh nghiệp. Ngân quĩ
thường được xác định cho khoảng thời gian ngắn thường là hàng tháng. Bao
gồm dòng tiền thực nhập quĩ từ hoạt động sản xuất kinh doanh hàng hóa dịch
vụ, dòng tiền nhập quĩ từ các hoạt động tài chính, đầu tư, hoạt động bất thường
khác, dòng tiền thực xuất quĩ để thực hiện hoạt động sản xuất kinh doanh, thực
hiện hoạt động đầu tư, tài chính, hoạt động bất thường.
Trên cơ sở dòng tiền xuất và nhập có thể dự báo cho nhu cầu trong thời
gian tới của doanh nghiệp, cũng từ đó có thể thực hiện cân đối ngân quĩ với số
dư ngân quĩ đầu kì để xác định số dư ngân quĩ cuối kì. Từ đó lập mức dự phòng
tối thiểu cho doanh nghiệp nhằm mục tiêu đảm bảo khả năng chi trả cho doanh

nghiệp.
Như vậy để thực hiện phân tích tài chính doanh nghiệp các nhà phân tích
cần phải đọc và hiểu được các báo cáo tài chính, thông qua đó họ nhận biết
được và tập trung vào các chỉ tiêu tài chính có liên quan trực tiếp tới mục đích
mà họ hướng tới. Đối với hoạt động phân tích tài chính khách hàng doanh
nghiệp trong ngân hàng thương mại mục đích chính của ngân hàng là tìm hiểu
về tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, khả năng chi trả, diễn biến
của dòng tiền xuất quĩ nhập quĩ, khả năng tạo ra lợi nhuận của doanh nghiệp. Vì
thế phân tích tài chính cần sử dụng thông tin đa dạng, từ nhiều nguồn, không chỉ
là những báo cáo tài chính, mà còn có cả những thông tin khác có liên quan như
tình hình quan hệ tín dụng của doanh nghiệp đối với tất cả các tổ chức tín dụng,
với bạn hàng, khách hàng của doanh nghiệp, ngoài ra còn có những thông tin
chung về hiện trạng và xu hướng phát triển của ngành nghề, lĩnh vực, sản phẩm
mà doanh nghiệp đang tham gia hoạt động.
Vì yêu cầu của việc phân tích, nhân viên tín dụng không thể sử dụng
những thông tin đơn thuần từ các báo cáo tài chính. Để hiểu thật kĩ hoạt động
của khách hàng, có khi cần phải sử dụng số liệu chi tiết. Như tìm hiểu những
khoản phải thu, phải trả của chi tiết từng đối tác của khách hàng, nhờ đó mà
nhân viên tín dụng mới có thể tìm hiểu tập quán bán hàng cũng như mua hàng
của doanh nghiệp. Chính sách bán hàng trả chậm của doanh nghiệp có thể có số
ngày ít hơn hoặc lâu hơn so với hóa đơn, hợp đồng kinh tế, những điều này
nhân viên tín dụng chỉ có thể tìm hiểu thông qua việc đi thực tế, xem chi tiết các
tiểu khoản.
1.1.3.2 Phương pháp sử dụng trong phân tích tài chính khách hàng
Phương pháp truyền thống được sử dụng trong phân tích tài chính đó là
phương pháp tỉ số, trong đó các tỉ số được thiết lập từ việc so sánh chỉ tiêu này
so sánh với chỉ tiêu khác. Đây là phương pháp ngày càng được sử dụng nhiều
bởi tính hiện thực của nó, các điều kiện áp dụng ngày càng được bổ sung và
hoàn thiện. nguồn thông tin kế toán ngày càng được bổ sung và hoàn thiện, cải
tiến và được cung câp ngày một đầy đủ hơn. Đây là cơ sở để hình thành những

tỉ lệ tham chiếu tin cậy cho việc đánh giá một tỉ số của một doanh nghiệp hay
một nhóm doanh nghiệp. Việc áp dụng công nghệ thông tin cho phép tích lũy
dữ liệu và thúc đẩy nhanh chóng quá trình tính toán hàng loạt các chỉ số, hơn
thế nữa phương pháp này giúp người phân tích khai thác sử dụng triệt để những
số liệu và phân tích một cách hệ thống hàng loạt tỉ số theo thời gian liên tục
hoặc theo từng giai đoạn cụ thể.
Khi sử dụng phương pháp này cần phải có một ngưỡng để tham chiếu so
sánh, đánh giá các tỉ số đãt tính toán được. Để đánh giá so sánh tình hình tài
chính của doanh nghiệp cần so sánh các tỉ số của doanh nghiệp với tỉ số tham
chiếu chung của toàn ngành hoặc so sánh với các doanh nghiệp có cùng qui mô
hoặc lĩnh vực sản xuất kinh doanh. Phương pháp nàythường được sử dụng cùng
với các phương pháp phân tích tài chính khác. Khi phân tích nhà phân tích
thường so sánh các chỉ tiêu theo thời gian, kì này so với kì trước để nhận biết
được xu hướng thay đổi của tình hình tài chính doanh nghiệp, hoặc theo không
gian so sánh doanh nghiệp với mức trung bình ngành để đánh giá vị thế của
doanh nghiệp trong ngành.
Bên cạnh đó phương pháp phân tích tài chính Doupont cũng thường được
sử dụng. với phương pháp này các nhà phân tích tách một tỉ số tổng hợp phản
ánh sức sinh lợi của doanh nghiệp như tỉ suất thu nhập trên tài sản( ROA), thu
nhập sau thuế trên vốn chủ sở hữu( ROE) thành tích của một chuỗi các tỉ số có
mối quan hệ nhân quả với nhau. Điều đó cho phép nhà phân tích thấy được sự
ảnh hưởng của các tỉ số đó với tỉ số tổng hợp. từ đó nhà phân tích sẽ nhận biết
được nguyên nhân của những hiện tượng, diễn biến trong hoạt động của doanh
nghiệp.
1.1.4 Nội dung phân tích tài chính khách hàng
1.1.4.1 Phân tích các tỉ lệ tài chính
Thông tin từ các bảng cân đối kế toán và báo cáo thu nhập của doanh
nghiệp thường được bổ sung bằng việc phân tích các chỉ số tài chính, cán bộ tín
dụng sẽ lựa chọn những thông tin từ những báo cáo tài chính mà khách hàng đã
cung cấp để từ đó phân tích, tìm hiểu những vấn đề có ảnh hưởng quan trọng tới

tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp như khả năng kiểm soát chi phí
của doanh nghiệp, mức độ hoạt động hiệu quả của doanh nghiệp trong việc tận
dụng các nguồn lực để tạo ra doanh thu và các luồn tiền, khả năng tiêu thụ sản
phẩm, khả năng trang trải các chi phí tài chính, khả năng thanh toán nợ vay, tình
hình biến động về khả năng sinh lời và thu nhập theo thời gian, qui mô nợ hay
nợ so với vốn chủ của doanh nghiệp, và liệu trong tương lai doanh nghiệp có
phải đối mặt với những khoản phải trả bất thường làm tăng nhu cầu thanh toán
của doanh nghiệp trong tương lai hay không.
Các chỉ tiêu tài chính thường được sử dụng để đo lường khả năng kiểm
soát chi phí của doanh nghiệp bao gồm:
Tiền công và tiền lương / Doanh thu thuần
Chi phí quản lí và bán hàng/ Doanh thu thuần
Khấu hao/Doanh thu thuần
Chi phí trả lãi tiền vay/Doanh thu thuần
Giá vốn hàng bán/ Doanh thu thuần
Những chỉ tiêu này được sử dụng để xem xét những chi phí và tỉ lệ của
chúng trên doanh thu thuần mà doanh nghiệp phải đã chi ra trong quá trình sản
xuất kinh doanh. Những tỉ lệ chi phí này phản ảnh phần nào chất lượng cũng
như năng lực quản lí của chủ doanh nghiệp, có thể so sánh những chỉ tiêu này
với tỉ lệ trung bình toàn ngành để biết được vị thế cũng như năng lực của doanh
nghiệp trên thị trường. Với một doanh nghiệp có chi phí cho quản lí bán hàng,
giá vốn hàng bán cao hơn mức trung bình ngành trong nhiều năm thì có thể nói
doanh nghiệp này khó có ưu thế cạnh tranh trong việc giảm chi phí sản xuất so
với các đối thủ cạnh tranh khác. Chi phí trả lãi tiền vay cũng cho biết tình hình
thực hiện nghĩa vụ nợ của doanh nghiệp trong thời gian qua là bao nhiêu, và liệu
doanh nghiệp có còn đủ năng lực nếu vay thêm vốn nữa không. Nếu doanh
nghiệp có chi phí giảm qua từng năm với sự ổn định hoặc tăng trưởng của
doanh thu chứng tỏ doanh nghiệp có thể thuyết phục được ngân hàng về triển
vọng thu nhập trong tương lai. Thông qua những chi phí chi cho quản lí, bán
hàng, trả lương cho công nhân viên có thể nắm được chính sách nhân sự, chính

sách marketing của doanh nghiệp, và hiệu quả của những chính sách đó tới việc
tăng doanh thu. Phương pháp tính khấu hao của cũng ảnh hưởng tới việc sử
dụng tài sản cố định, phân bổ chi phí hợp lí, điều này cũng phản ánh một phần
năng lực quản lí điều hành của đội ngũ quản lí doanh nghiệp.
Xem xét kết quả hoạt động của doanh nghiệp là một việc làm rất cần thiết
đối với ngân hàng, doanh nghiệp đã sử dụng như thế nào trong việc tạo ra doanh
thu, luồng tiền mặt và quá trình doanh thu được chuyển thành tiền mặt được tiến
hành như thế nào. Các tỉ lệ thường được sử dụng là:
Vòng quay dự trữ
Hiệu suất sử dụng tài sản cố định
Hiệu suất sử dụng tổng tài sản
Kì thu nợ trung bình
Vòng quay tiền
Các chỉ số hoạt động được dùng để đánh giá hiệu quả sử dụng tài sản của
doanh nghiệp, vốn của doanh nghiệp được sử dụng để đầu tư cho các loại tài sản
khác nhau như tài sản cố định, tài sản lưu động. Do đó nhà phân tích không chỉ
quan tâm tới việc đo lường hiệu quả sử dụng tổng tài sản mà còn chú trọng tới
hiệu quả sử dụng của từng bộ phận cấu thành tổng tài sản của doanh nghiệp. Chỉ
tiêu doanh thu được sử dụng chủ yếu trong tính toán các chỉ số này để xem xét
khả năng hoạt động của doanh nghiệp.
Vòng quay tiền được xác định bằng cách chia doanh thu trong năm cho
tổng số tiền và các loại tài sản tương đương tiền bình quân trong năm, nó cho
biết vòng quay của tiền trong năm.
Vòng quay dự trữ là một chỉ tiêu khá quan trọng để đánh giá hoạt động
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, nó được xác định bằng tỉ số giữa doanh
thu trong năm và giá trị dự trữ bình quân. Dự trữ của doanh nghiệp thông
thường có: nguyên vật liệu, công cụ dụng cụ, sản phẩm dở dang, thành phẩm.
Nhìn chung những doanh nghiệp có vòng quay dự trữ càng cao thì càng tốt cho
ngân hàng và chủ nợ vì tỉ lệ này cho biết số lần trong năm doanh nghiệp đó
chuyển hàng tồn kho thành hàng hóa. Tỉ lệ này càng thấp có thể cho thấy khách

hàng ít chấp nhận sản phẩm của doanh nghiệp hoặc chính sách dự trữ và sản
xuất của doanh nghiệp không còn hiệu quả. Tỉ lệ vòng quay dự trữ quá cao có
thể phản ánh việc giá sản phẩm được xác định ở mức thấp hoặc dự trữ hàng
không phù hợp, thiếu hàng bán, không thu hút được khách hàng.
Trong phân tích tài chính, kì thu tiền bình quân sử dụng để đánh giá khả
năng thu tiền trong thanh toán trên cơ sở các khoản phải thu và doanh thu bình
quân một ngày. Các khoản phải thu lớn hay nhỏ phụ thuộc vào chính sách tín
dụng thương mại của doanh nghiệp.
Kì thu tiền bình quân = Các khoản phải thu x360/ Doanh thu
Sự kéo dài của kì thu nợ bình quân cho thấy qui mô các khoản tín dụng
quá hạn đã tăng lên và hiệu quả của chính sách thu tiền đã giảm, đặt ra câu hỏi:
tại sao lại xảy ra tình trạng này và doanh nghiệp đã làm gì để đưa doanh số thu
nợ tăng lên.
Để đánh giá hiệu quả sử dụng của tổng tài sản và của riêng tài sản cố định
nhà phân tích tài chính thường sử dụng 2 chỉ tiêu hiệu suất sử dụng tổng tài sản
và hiệu suất sử dụng tài sản cố định.

×