Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Đánh giá kỹ năng xử trí của cán bộ y tế trong quá trình vận chuyển chuyển tuyến cấp cứu từ bệnh viện tuyến tỉnh đến Bệnh viện Nhi Trung ương năm 2013

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (385.56 KB, 5 trang )

VIỆN

S

EC
KHỎ ỘNG
G
ỒN
Đ

ỨC

NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
ĐÁNH GIÁ KỸ NĂNG XỬ TRÍ CỦA CÁN BỘ Y TẾ TRONG
QUÁ TRÌNH VẬN CHUYỂN CHUYỂN TUYẾN CẤP CỨU TỪ
BỆNH VIỆN TUYẾN TỈNH ĐẾN BỆNH VIỆN NHI TRUNG ƯƠNG
NĂM 2013
Phạm Ngọc Toàn1, Lê Thanh Hải1, Lê Bá Tuấn1, Đỗ Mạnh Hùng1

TÓM TẮT
Kỹ năng xử trí của cán bộ y tế trong quá trình vận chuyển
chuyển tuyến cấp cứu bệnh nhi đóng vai trò quan trọng đối
với tính mạng và sức khỏe của bệnh nhi. Nhằm đánh giá thực
trạng qua đó tìm ra giải pháp can thiệp nâng cao kỹ năng xử
trí của cán bộ y tế trong quá trình vận chuyển chuyển tuyến
bệnh nhi, chúng tôi tiến hành nghiên cứu mô tả cắt ngang có
phân tích 410 bệnh nhi chuyển tuyến cấp cứu năm 2013. Kết
quả nghiên cứu cho thấy:
- Xử trí tuyến dưới: Tỷ lệ xử trí ở tuyến trước 60%; điều
trị tuyến dưới trên 24 giờ 98,5%; Các biện pháp truyền dịch
68,8%, truyền kháng sinh 55,4%, ủ ấm 25,1%; chống co


giật 0,7%.
- Liên hệ tuyến trên 4,6%, giải thích cho gia đình bệnh
nhân 72,7%.
- Khi vận chuyển: Hỗ trợ hô hấp 28,3%; truyền dịch 3,2%.
- Các thủ thuật tại Bệnh viện Nhi Trung ương: Thai thông
đường thở 0,2%; hút tiết dịch 22,4%, chỉnh tư thế BN 0,2%,
đặt NKQ 2,4%, thở oxy 29,8%; thuốc vận mạch 0,2%, thuốc
an thần 2%.
Từ khóa: Cán bộ y tế; kỹ năng xử trí; vận chuyển cấp cứu.
ABSTRACT
EVALUATION OF MANAGEMENT SKILL
IN PATIENT EMERGENCY TRANSPORT FROM
PROVICIAL HOSPITALS TO VIETNAM NATIONAL
CHILDREN’S HOSPITAL IN 2013
Management skill in patient transport service of medical
staff plays an important role in health of refered patients. In
order to evaluate the reality and find out interventions to
improve management skill of medical staff in patient transport,
we performed a cross-sectional study on 410 patients who
are referred and transported to the National Children’s
Hospital (VNCH) in 2013. The result shows that:

- Management skill at provincial hospitals: percentage of
management skill 60%; treatment after 24 hours of admission
98,5%; infusion methods 68,8%, antibiotic infusion 55,4%,
keeping warm 25,1%; anti-convulsants 0,7%.
- Contact to higher referral hospital 4,6%, give explaination
for patients’ family 72,7%.
- When transporting: respiratory support 28,3%; infusion 3,2%.
- Management at VNCH: Open respiratory route0,2%;

aspiration 22,4%, adjust patient’s gesture 0,2%, inserttracheal
tube2,4%, oxyen 29,8%; vasostimulant 0,2%, neuroleptics
2%.
Keywords: Medical staff; management skill; transport
service of medical.
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Theo Khilnani P. và cộng sự [2008], vận chuyển bệnh
nhân nhi nặng một cách an toàn đang là vấn đề toàn cầu, đặc
biệt là ở các nước đang phát triển như Ấn Độ và Nam Phi.
Một nước lớn như Ấn Độ, vấn đề vận chuyển này còn rất
phức tạp và còn trong giai đoạn sớm của sự phát triển [11].
Duke T., 2003 cho rằng vận chuyển bệnh nhi nặng là một vấn
đề toàn cầu bị lãng quên [8].
Hầu hết các ca vận chuyển chuyển tuyến bệnh nhi là những
ca bệnh nặng, tuyến dưới không có đủ cơ sở vật chất, kỹ thuật
điều trị và phải chuyển lên Bệnh viện Nhi Trung ương. Trong
quá trình vận chuyển bệnh nhi, hầu hết bệnh nhi trong tình
trạng sức khỏe, dễ xảy ra các sự cố. Do vậy xử trí của cán bộ y
tế đóng vai trò quan trọng đối với tính mạng và sức khỏe bệnh
nhi. Theo nghiên cứu của Hoàng Trọng Kim và cộng sự [4], xử
trí ban đầu, và thông tin chuyển viện đầy đủ có ảnh hưởng đến
vận chuyển chuyển tuyến bệnh nhân không an toàn.
Nhiệm vụ xử trí của cán bộ y tế trong khi chuyển tuyến
được quy định tại Quyết định số 01/2008/QĐ-BYT của Bộ Y
tế ngày 21/01/2008 [1] về việc ban hành Quy chế Cấp cứu,

1. Bệnh viện Nhi Trung ương
Ngày nhận bài: 10/02/2017

228


SỐ 37- Tháng 3+4/2017
Website: yhoccongdong.vn

Ngày phản biện: 15/02/2017

Ngày duyệt đăng: 21/02/2017


2017

JOURNAL OF COMMUNITY MEDICINE

Hồi sức tích cực và Chống độc. Trong đó cán bộ y tế phải có
trách nhiệm: Thực hiện y lệnh, chăm sóc, theo dõi người bệnh
trên đường vận chuyển; Nhận và bàn giao hồ sơ bệnh án chuyển
viện, tư trang của người bệnh, giải quyết các thủ tục cần thiết
liên quan đến việc tiếp nhận người bệnh ở tuyến trên. Người vận
chuyển bệnh nhân chỉ được ra về sau khi người bệnh được bệnh
viện nơi đến tiếp nhận ký vào phiếu hoặc sổ chuyển người bệnh.
Do vậy chúng tôi tiếnh hành nghiên cứu nhằm tìm ra thực
trạng công tác xử trí, qua đó xác định các giải pháp can thiệp
nhằm nâng cao chất lượng vận chuyển bệnh nhi là điều cần thiết.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Đối tượng nghiên cứu
Cán bộ y tế các đội vận chuyển cấp cứu bệnh nhi nặng
từ 0-18 tuổi được vận chuyển cấp cứu từ bệnh viện cấp tỉnh
hoặc tương đương đến Bệnh viện Nhi Trung ương theo qui
định của Bộ Y tế.
2. Thời gian và địa điểm nghiên cứu

- Thời gian tiến hành nghiên cứu: từ tháng 5/2013 đến
12/2013
- Địa điểm nghiên cứu: Khoa Cấp cứu-Chống độc, phòng
khám Cấp cứu tại Bệnh viện Nhi Trung ương.
3. Thiết kế nghiên cứu: Mô tả cắt ngang có phân tích,
nghiên cứu định lượng
4. Cỡ mẫu nghiên cứu
Chọn mẫu ngẫu nhiên theo công thức:

n=

Z (21−α / 2 ) p (1 − p ) * N
d 2 ( N − 1) + Z (21−α / 2 ) p (1 − p )

N = 9.500: Kích thước quần thể nghiên cứu, nghiên cứu
của chúng tôi được tiền hành từ 5/2013 đến tháng 12/2013,
do vậy chúng tôi sử dụng số liệu tham khảo số chuyển viện
cấp cứu với cùng kỳ năm 2012, tức là từ thời điểm tháng 5
đến tháng 11 năm 2012 có 9.500 bệnh nhi vận chuyển cấp
cứu từ Bệnh viện tuyến tỉnh, đến Bệnh viện Nhi Trung ương.
p = 27,8%=0,278 là tỷ lệ vệ chuyển không an toàn, tham
khảo từ nghiên cứu vận chuyển chuyển tuyến cấp cứu từ
Bệnh viện tuyến tỉnh đến Bệnh viện Nhi Đồng II (bệnh viện
thuộc tuyến Trung ương) nghiên cứu được thực hiện từ tháng
3/2003 đến tháng 2/2004 của tác giả Hoàng Trọng Kim và
cộng sự [4].
Z = 1,96 (α = 0,05, độ tin cậy 95%, thu từ bảng Z).
d=0,045, là sai số tuyệt đối, lấy mức 0,045.
n =367, cỡ mẫu cần nghiên cứu, với các giá trị trên, thay
số ta được số bệnh nhi tối thiểu cần cho nghiên cứ là n=367

bệnh nhi, dự phòng 10% đối tượng nghiên cứu chúng tôi tiến

hành thu thập số liệu với 405 trường hợp bệnh nhi cần tiến
hành nghiên cứu.
Thực tế trong nghiên cứu chúng tôi thu thập 410 bệnh nhi
vận chuyển chuyển tuyến cấp cứu từ các Bệnh viện tuyến tỉnh,
Bệnh viện Trung ương khác đến Bệnh viện Nhi Trung ương.
5. Xử lý và phân tích số liệu: Nhập liệu bằng phần mềm
EPIDATA, nhập liệu bằng phần mềm SPSS 17.0
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
1. Xử trí bệnh nhi trước khi chuyển tuyến cấp cứu
Bảng 1.Phân bố số bệnh nhân được xử trí ở tuyến trước
Xử trí ở tuyến trước
Không

Tổng số

Số bệnh nhân
164
246
410

Tỷ lệ%
40
60
100

Có 60% số bệnh nhi được xử lý tuyến trước, trước khi
được chuyển cấp cứu đến Bệnh viện Nhi Trung ương, trong
khi đó 40% không được xử lý ở tuyến trước.

Bảng 2.Thời gian điều trị tại tuyến dưới
Thời gian điều trị
ở tuyến dưới
Dưới 24 giờ
Từ 1 đến 2 ngày
Từ 3 đến 5 ngày
Từ 6 đến 7 ngày
trên 7 ngày
Tổng

Số bệnh nhân

Tỷ lệ %

4
98
85
18
59
264

1,5
37,1
32,2
6,8
22,3
100

Trong số 264 trẻ được xử lý ở tuyến dưới, thời gian điều
trị 1-2 ngày chiếm tỷ lệ cao nhất với 37,1%, tiếp đến là từ 3-5

ngày chiếm tỷ lệ 32,2%, tiếp đến là thời gian điều trị trên 7
ngày với 22,3%, 6-7 ngày chiếm 6,8%, dưới 24 giờ chiếm tỷ
lệ thấp nhất với 1,5%.
Biểu đồ 1.Phân bố các biện pháp
đã xử trí ở tuyến trước
8,5%

Khác

25,1%

Ủ ấm
0,7%

Thuốc co giật

68,8%

Truyền dịch
55,4%

Kháng sinh
43,7%

Hỗ trợ hô hấp
0

10

20


30

40

50

SỐ 37 - Tháng 3+4/2017
Website: yhoccongdong.vn

60

70

229


VIỆN

S

EC
KHỎ ỘNG
G
ỒN
Đ

ỨC

NGHIÊN CỨU KHOA HỌC

Các biện pháp xử trí ở tuyến trước, trong đó có việc truyền
dịch chiếm tỷ lệ cao nhất với 68,8%, tiếp đến là tiêm thuốc
kháng sinh với 55,4%, hỗ trợ hô hấp 43,7%, ủ ấm chiếm
25,1%, biện pháp tiêm thuốc co giật chiếm 0,7%.
2. Liên hệ bệnh viện tuyến trên, giải thích cho gia đình
bệnh nhi trước khi chuyển tuyến
Biểu đồ 3.Bệnh nhân chuyển tuyến có liên hệ trước
Liên hệ trước khi

Số bệnh nhân

Tỷ lệ%

chuyển bệnh nhân

Số bệnh nhân

Tỷ lệ %

Có liên hệ

19

4,6

Không liên hệ

391

95,4


Tổng số

410

100

Kết quả nghiên cứu cho thấy bệnh viện tuyến dưới có liên
hệ với bệnh viện nhi Trung ương 19 ca, chiếm tỷ lệ 4,6%.
Trong khi đó, đa phần cán bộ y tế ở tuyến dưới không có sự
liên hệ với Bệnh viện Nhi Trung ương, tỷ lệ 95,4%.
Bảng 4..Gia đình bệnh nhi được thông tin/giải thích
trước khi chuyển viện
Giải thích và thông
tin trước khi chuyển

Số gia đình



298

72,7

Không

112

27,3


Tổng số

410

100

Tỷ lệ %

Hầu hết các cán bộ y tế có thông tin và giải thích với gia
đình bệnh nhi trước khi chuyển tuyến cấp cứu với 298 trường
hợp chiếm 72,7%. Tuy vậy, vẫn còn tỷ lệ khá cao số trường
hợp là không thông tin và giải thích với gia đình bệnh nhi với
112 trường hợp chiếm 27,3%.
3. Xử trí bệnh nhi trên xe vận chuyển và tới phòng cấp
cứu Bệnh viện Nhi Trung ương
Bảng 5.Bệnh nhi cần hỗ trợ hô hấp khi khi vận chuyển
Cần hỗ trợ hô hấp

Số bệnh nhân

Tỷ lệ %



116

28,3

Không có


294

71,7

Tổng số

410

100

Tỷ lệ bệnh nhi cần có sự hỗ trợ hô hấp khi vận chuyển là
116 bệnh nhi chiếm tỷ lệ 28,3%, trong khi đó có 294 bệnh
nhi không cần có sự hỗ trợ hô hấp khi vận chuyển chiếm tỷ
lệ 71,7%.

230

SỐ 37- Tháng 3+4/2017
Website: yhoccongdong.vn

Bảng 6.Các thủ thuât được thực hiện khi vận chuyển
Các biện pháp

Hỗ trợ
hô hấp

Truyền
dịch

Số lượng


Tỷ lệ%

Thở oxy từ ballon

96

23,4

Thờ ô xy từ bình

13

3,2

Nội khí quản
bóp bóng

7

1,7

Không có hỗ trợ

294

71,7




13

3,2

Không

397

96,8

410

100

TỔNG

Số bệnh nhi có sự hỗ trợ hô hấp khi vận chuyển là 116
bệnh nhi, trong đó thở ô xy từ ballon chiếm tỷ lệ cao nhất với
96 bệnh nhi chiếm 23,4%, thở từ bình có 13 bệnh nhi chiếm
3,2%, nội khí quản bóp bong có 7 bệnh nhi chiếm tỷ lệ 1,7%.
Số trẻ truyền dịch là 13 trẻ chiếm 3,2% tổng số bệnh nhi
Bảng 7.Các thủ thuật được thực hiện tại phòng cấp cứu
của Bệnh viện Nhi Trung ương
Số bệnh nhân
(n=410)

Tỷ lệ %

Khai thông đường thở


1

0,2

Hút tiết dịch

92

22,4

Chỉnh tư thế bệnh nhân

1

0,2

Thở o xy

122

29,8

Đặt nội khí quản

10

2,4

Dùng thuốc vận mạch


1

0,2

Dùng thuốc an thần

8

2,0

Thủ thuật

Tại phòng cấp cứu tại Bệnh viện Nhi Trung ương các
thủ thuật được triển khai nhiều nhất là thở ô xy chiếm tỷ lệ
29,8%, tiếp đến là hút tiết dịch 22,4%, đặt nội khí quản 2,4%,
các thủ thuật khai thông đường mở, chỉnh tư thế bệnh nhân
và dùng thuốc vận mạch có 1 bệnh nhân chiếm tỷ lệ 0,2%.
IV. BÀN LUẬN
Trước khi chuyển tuyến cấp cứu
Xử trí ở tuyến trước có vai trò quan trọng giúp bệnh nhi
ổn định trước khi được chuyển tuyến lên Bệnh viện Nhi
Trung ương. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy xử
trí ở tuyến trước là 246 bệnh nhi chiếm 60%, trong khi đó có
164 chiếm 40% số bệnh nhi không được xử lý ở tuyến trước.
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi tương tự tác giả Hoàng


2017

JOURNAL OF COMMUNITY MEDICINE


Trọng Kim và cộng sự [4] tại Bệnh viện Nhi đồng I, số bệnh
nhi không được xử trí trước khi chuyển tuyến 42,5%, bệnh
nhi được xử trí trước khi chuyển tuyến 57,5%.
Trong tổng số 246 bệnh nhi được xử trí ở tuyến trước có
1,5% được xử trí dưới 24 giờ, 37,1% được xử trí từ 1-2 ngày,
32,2% được xử trí từ 3-5 ngày, 6,8% được xử trí từ 6-7 ngày,
22,3% được xử trí trên 7 ngày.Kết quả nghiên cứ của chúng
tôi cho thấy các biện pháp xử trí ở tuyến trước, trong đó có
việc truyền dịch chiếm tỷ lệ cao nhất với 68,8%, tiếp đến là
tiêm thuốc kháng sinh với 55,4%, hỗ trợ hô hấp 43,7%, ủ ấm
chiếm 25,1%, biện pháp tiêm thuốc co giật chiếm 0,7%.
Theo tác giả Lê Thanh Hải và cộng sự [3] hầu hết các
bệnh nhi đã được điều trị tại tuyến tỉnh (99% và 90%) với
thời gian trung bình là trên 2 ngày (2,1 và 2,5 ngày). Trên
90% được hỗ trợ cấp cứu hô hấp. Cũng theo Lê Thanh Hải
và cộng sự [3] xử trí trước khi chuyển viện về hỗ trợ hô hấp
với thở ô xy đợt 1 là 61,3%, đợt 2 là 52,2%; thở máy đợt 1
là 18,7%, đợt 2 là 12,3%; bóp bóng qua mask đợt 1 là 10,2%
đợt 2 là 7,4%. Hỗ trợ cấp cứu tuần hoàn đợt 1 là 40,6%, đợt
2 là 75%. Hỗ trợ cấp cứu thần kinh đợt 1 tỷ lệ là 11%, đợt 2
tỷ lệ là 10,5%.
Nhiều bệnh rất phức tạp và đa dạng mà cơ sở y tế tiếp
nhận bệnh nhân không đủ khả năng để hồi sức và điều trị
chuyên sâu [9]. Do đó, bệnh nhân cần phải được chuyển lên
tuyến cao hơn với nguyên tắc là bệnh nhân thường xuyên
được chăm sóc tốt nhất từ cơ sở tiếp nhận và xử trí ban đầu
đến các đơn vị của tuyến trên.
Liên hệ bệnh viện tuyến trên, giải thích gia đình bệnh
nhân trước khi chuyển tuyến.

Việc liên hệ với cán bộ tuyến trên trước khi chuyển
tuyến được quy định tại Quyết định số 01/2008/QĐ-BYT
của Bộ trưởng Bộ Y tế [1]. Liên lạc với nhân viên y tế nơi
bệnh nhân sẽ được chuyển đến và cung cấp thông tin về
tình trạng bệnh nhân, bệnh sử cho họ biết. Cả hai nhóm vận
chuyển và tiếp nhận bệnh nhân sẽ quyết định bệnh nhân có
đủ điều kiện để chuyển không, nơi nào sẽ giám sát quá trình
vận chuyển [10].
Nghiên cứu của chúng tôi, các Bệnh viện tuyến dưới có
liên hệ với Bệnh viện Nhi Trung ương có 19 ca, chiếm tỷ lệ
4,6%. Trong khi đó, đa phần cán bộ y tế ở tuyến dưới không
có sự liên hệ với Bệnh viện Nhi Trung ương, chiếm tỷ lệ
95,4%. So sánh với giả Lê Thanh Hải và cộng sự [3] nghiên cứu
2 đợt, đợt I tháng 11/2007-3/2008, đợt 2 từ 8/2009- 1/2010,
sự liên hệ trước khi chuyển tuyến lần 1 là 0%, lần 2 là 67,9%.
Phối hợp giữa nhóm vận chuyển bệnh nhân và nơi sẽ tiếp
nhận bệnh nhân phải được thiết lập ngay sau khi cấp cứu và
ổn định tình trạng bệnh nhân. Điều này rất quan trọng, bảo
đảm kết quả điều trị tốt nhất.

Giải thích cho gia đình người bệnh trước khi chuyển
tuyến được quy định tại Thông tư số 14/2014/TT-BYT ngày
14/04/2014 [2]. Hầu hết các cán bộ y tế có thông tin và giải
thích với gia đình bệnh nhi trước khi chuyển tuyến cấp cứu
với 298 trường hợp chiếm 72,7%. Tuy vậy, vẫn còn tỷ lệ khá
cao số trường hợp là không thông tin và giải thích với gia
đình bệnh nhi với 112 trường hợp chiếm 27,3%.
Việc giải thích thông tin cho gia đình người bệnh có vai
trò quan trọng giúp việc phối hợp tốt giữa cán bộ y tế với gia
đình người bệnh trong cấp cứu bệnh nhi. Bên cạnh đó, còn

đảm bảo tính pháp lý cho người bệnh cũng như tránh các thủ
tục rắc rối cho cán bộ y tế khi bệnh nhi tử vong trên đường
vận chuyển chuyển tuyến cấp cứu.
Bệnh nhi trên xe vận chuyển chuyển tuyến cấp cứu
Xử trí trên xe vận chuyển là khâu quan trọng và ảnh
hưởng đến tính mạng và khả năng hồi phục ở trẻ. Trong
nghiên cứu của chúng tôi, tỷ lệ bệnh nhi cần có sự hỗ trợ hô
hấp khi vận chuyển là 116 bệnh nhi chiếm tỷ lệ 28,3%, trong
khi đó có 294 bệnh nhi không cần có sự hỗ trợ hô hấp khi vận
chuyển chiếm tỷ lệ 71,7%.
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cao hơn khi so sánh
với tác giả Hoàng Trọng Kim và cộng sự [4] nghiên cứu sự
chuyển tuyến cấp cứu, tỷ lệ các biến cố xảy ra trong quá trình
vận chuyển là 132 bệnh nhân chiếm tỷ lệ 18,8%,
Tuy nhiên trong nghiên cứu cho thấy chỉ có 22,8% số
bệnh nhi là được theo dõi trong quá trình chuyển viện. Thực
tế khi có các biến cố xảy ra thì đó cũng là lúc cần sự xử trí
kịp thời nhằm giúp bệnh nhi ổn định trên đường vận chuyển
lên tuyến trên.
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy số bệnh nhi
có sự hỗ trợ hô hấp khi vận chuyển là 116 bệnh nhi, trong đó
thở ô xy từ ballon chiếm tỷ lệ cao nhất với 96 bệnh nhi chiếm
23,4%, thở từ bình có 13 bệnh nhi chiếm 3,2%, nội khí quản
bóp bong có 7 bệnh nhi chiếm tỷ lệ 1,7%. Số trẻ truyền dịch
là 13 trẻ chiếm 3,2% tổng số bệnh nhi.
Tỷ lệ các biện pháp xử trí trong nghiên cứu của chúng
tôi nhìn chung cao hơn khi so sánh với nghiên cứu chuyển
tuyến bệnh nhi của tác giả Hoàng Trọng Kim và cộng sự [4]
nghiên cứu tại Bệnh viện Nhi Đồng I các thủ thuật được thực
hiện khi chuyển viện có thở ô xy 23,5%, truyền dịch 20,5%,

bóp bong giúp thở chiếm 1,7%, đặt nội khí quản 1,7%, các
thủ thuật khác 1,6% (đặt sonde dạ dày, sonde trực tràng,
truyền máu, mở khí quản, thở NCPAP,..).
Nghiên cứu các trường hợp tim ngừng đập tại Bệnh viện
Nhi Đồng II của tác giả Phan Thị Thanh Huyền và Nguyễn
Thành Đạt [7] cho thấy, tỷ lệ các biện pháp xử trí như thở oxy
khi chuyển viện bằng bóp bóng NKQ 57,9%, Bóp bóng qua
Mask là 5,3%, thở ô xy qua canula là 15,8%, không thở oxy
SỐ 37 - Tháng 3+4/2017
Website: yhoccongdong.vn

231


VIỆN

S

EC
KHỎ ỘNG
G
ỒN
Đ

ỨC

NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
là 21,1%; Truyền dịch khi vận chuyển 63,2%.
Thực tế, xử trí bệnh nhi trên xe vận chuyển cấp cứu là hết
sức quan trọng, có tính thiết thực trong việc góp phần giảm

tỷ lệ tử vong cho trẻ. Tuy vậy, việc xử trí trong quá trình vận
chuyển không hề đơn giản, ngoài số lượng cán bộ y tế, trình
độ chuyên môn kỹ thuật, kinh nghiệm, an toàn trong vận
chuyển còn phụ thuộc vào trang thiết bị hiện có và thể trạng
ở trẻ. Do vậy, nếu đầy đủ trang thiết bị, nhân lực có chuyên
môn và xử trí tốt thì có thể giúp trẻ qua khỏi cơn nguy hiểm
và có thể bình phục được.
Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy tại phòng cấp cứu
tại Bệnh viện Nhi Trung ương các thủ thuật được triển khai
nhiều nhất là thở ô xy chiếm tỷ lệ 29,8%, tiếp đến là hút tiết
dịch 22,4%, đặt nội khí quản 2,4%, các thủ thuật khai thông
đường mở, chỉnh tư thế bệnh nhân và dùng thuốc vận mạch
có 1 bệnh nhân chiếm tỷ lệ 0,2%.
So sánh với kết quả nghiên cứu của Hoàng Trọng Kim và
cộng sự [4] tại Bệnh viện Nhi Đồng I có 23,1% số bệnh nhi

phải cấp cứu khẩn cấp ngay khi nhập viện (thở ô xy, truyền
dịch, chống sốc, đặt nội khí quản, bóp bong giúp thở, xoa tim
ngoài lồng ngực). Việc tiếp nhận, xử trí kịp thời của khoa cấp
cứu của Bệnh viện tuyến trên giúp trẻ có các sự cố trong quá
trình vận chuyển có thể qua được cơn nguy kịch và ổn định
được sức khỏe.
V. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Kết quả nghiên cứu trên 410 trường hợp bệnh nhi chuyển
tuyến cấp cứu năm 2013 cho thấy thực trạng kỹ năng xử trí
bệnh nhi trong quá trình vận chuyển chuyển tuyến cấp cứu.
Nghiên cứu cho thấy cần thường xuyên mở các lớp tập
huấn, hội nghị, hội thảo về cấp cứu chuyển tuyến nhằm trao
đổi kinh nghiệm học tập. Đặc biệt cần có các buổi diễn tập
cấp cứu với các tình huống cấp cứu khác nhau nhằm đảm

bảo kỹ năng xử trí các tình huống tốt. Bệnh viện tuyến trung
ương, tuyến tỉnh cần có sự phối hợp, liên hệ với nhau tổ chức
công tác cấp cứu nhi có hiệu quả.

TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Bộ Y tế (2008), Quy chế Cấp cứu, Hồi sức tích cực và Chống độc, Quyết định số: 01/2008/QĐ-BYT, ngày 21/1/2008, tr.3-24.
2. Bộ Y tế (2014), Thông tư quy định việc chuyển tuyến giữa các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh, Thông tư số: 14/2014/TT-BYT,
tr.1-16.
3. Bộ Y tế (2010), Nghiên cứu ứng dụng và đánh giá chương trình cấp cứu Nhi khoa nâng cao (APLS) nhằm góp phần làm
giảm tỷ lệ tử vong trong 24h đầu ở tuyến tỉnh, Báo cáo kết quả nghiên cứu đề tài cấp Bộ - Chủ nhiệm đề tài Lê Thanh Hải.
4. Hoàng Trọng Kim (2004), Tính an toàn của các trường hợp chuyển viện đến khoa Cấp cứu Bệnh viện Nhi Đồng 1, Tạp chí
Y học Thực hành-Bộ Y tế, tr.116-121.
5. Lê Thanh Hải (2009), Đánh giá vận chuyển bệnh nhi nặng từ tuyến tỉnh đến khoa cấp cứu Bệnh viện Nhi Trung ương năm
2009, Tạp chí Nhi khoa, tr.15-1.9.
6. Lê Thanh Hải (2010), Vận chuyển an toàn bệnh nhân trẻ em, Thực hành cấp cứu Nhi khoa, Nhà xuất bản Y học, tr.27-35.
7. Phan Thị Thanh Hiền và Nguyễn Thành Đạt (2007), Tình hình ngưng tim ngưng thở trước nhập viện tại khoa Cấp cứu
lưu Bệnh viện Nhi đồng 2 từ năm 2004 - 2007, Tạp chí Y học TP Hồ Chí Minh, Tập 11, Phụ bản số 4, tr.74-78.
8. Duke, T.,Transport of seriously ill children: A neglected global issue. Intensive care Med, 2003. 39: p. 1414-1416.
9. Kronick, J.B., et al., Pediatric and neonatal critical care transport: A comparison of therapeutic interventions. Pediatr
Emerg Care, 1996. 12(1): p. 23-6.
10. Mace, S.E., et al., Pediatric issues in disaster management, Part 1: The emergency medical system and surge capacity.
Am J Disaster Med, 2010 5(2): p. 83-93.
11. Praveen Khilnani and R. Chhabra, Transport of critically ill children: How to utilize resourses in the developing world.
Indian J Pediatr, 2008. 75(6): p. 591-598.

232

SỐ 37- Tháng 3+4/2017
Website: yhoccongdong.vn




×