Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Vai trò của nhật kí học tập trong quá trình hình thành năng lực dạy học của sinh viên năm 3, khoa tiếng Pháp trường Đại học Sư phạm TPHCM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (519.34 KB, 10 trang )

Kỉ yếu Hội nghị sinh viên NCKH

VAI TRÒ CỦA NHẬT KÍ HỌC TẬP TRONG QUÁ TRÌNH
HÌNH THÀNH NĂNG LỰC DẠY HỌC CỦA SINH VIÊN NĂM 3,
KHOA TIẾNG PHÁP TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TPHCM
Nguyễn Minh Ngọc,
Phạm Huỳnh Kim Toàn
(Sinh viên năm 3, Khoa Tiếng Pháp)
GVHD: ThS Lê Thị Phương Uyên
TÓM TẮT
Bài viết tìm hiểu về năng lực dạy học của sinh viên năm ba hệ Sư phạm Khoa
Tiếng Pháp đã tích lũy được trong học phần Xây dựng kĩ năng giảng dạy. Qua nghiên
cứu 14 quyển Nhật kí học tập, chúng tôi nhận thấy sinh viên đã áp dụng nhiều chiến
lược học tập và do vậy con đường hình thành năng lực dạy học của mỗi cá nhân cũng
khác nhau. Những năng lực dạy học này đã bước đầu đáp ứng được các chuẩn đầu ra
của một giáo viên tiếng Pháp.
Từ khoá: nhật kí học tập, chiến lược học tập, năng lực dạy học.
ABSTRACT
The meaning of studying diaries in the process of building teaching abilities
for third-year students at the French Linguistic Faculty
This article is about teaching abilities, which are delivered in “Building
Teaching skills” Course, of third-year students at the French faculty in Pedagogy
University. By the analysis of 14 studying diaries, we have found that students had
applied a bunch of learning strategies, leading to the difference of the process in
building teaching ability for individuals. These teaching abilities initially meet the
requirements for graduations of a French linguistic professor.
Keywords: studying diary, learning strategy, teaching ability.
1. Mở đầu
Theo thạc sĩ Phạm Minh Đức [12] , phương pháp dạy học truyền thống được ví
như việc “rót nước vào bình”: việc dạy học chỉ lặp đi lặp lại theo một quy trình đơn
giản bao gồm người dạy truyền đạt kiến thức còn người học thì làm “chiếc bình” tiếp


thu một cách thụ động mà không hề tham gia đóng góp vào quá trình truyền đạt kiến
thức của người dạy hay tích cực chủ động trong quá trình tìm hiểu tri thức.
Trong khi đó, ông Trần Anh Tuấn - phó giám đốc Trung tâm Dự báo nhu cầu
nhân lực và Thông tin thị trường lao động Thành phố Hồ Chí Minh[10] đã tư vấn cho
sinh viên rằng để thích ứng với yêu cầu của xã hội nói chung và các nhà tuyển dụng nói
riêng, các ứng viên xin việc không chỉ cần có kiến thức về nghề mà còn cần cả các kĩ
năng mềm thích hợp. Vì vậy, người học từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường đã được
yêu cầu phải rèn luyện, bồi đắp các kĩ năng cho riêng mình song song với việc chủ
động bồi đắp những tri thức cần thiết cho bản thân.

150


Năm học 2015 - 2016

Hoà nhập với xu hướng chung, nhiệm vụ của một người giáo viên hiện đại không
chỉ đơn giản là “rót” đầy tri thức vào “bình” cho người học mà còn là tăng cường các
hoạt động bồi đắp kĩ năng mềm cho học sinh của mình, hướng dẫn cho người học biết
cách chủ động tìm kiếm tri thức và tích lũy các kĩ năng cần thiết cho cuộc sống.
Nhằm đáp ứng được những yêu cầu thay đổi từng ngày của xã hội, ngay từ những
học phần đầu tiên của chuyên ngành sư phạm, người giáo viên tương lai đã được nhắc
nhở về việc tích lũy những năng lực dạy học cần thiết.
Mục tiêu của sinh viên hệ Sư phạm thuộc Khoa Tiếng Pháp Trường Đại học Sư
phạm Thành phố Hồ Chí Minh sau khi ra trường là đạt được 8 năng lực dạy học cần
thiết của một người giáo viên tiếng Pháp [7]. Thông qua các học phần chuyên ngành
được bắt đầu từ học kì thứ hai của khóa đào tạo, sinh viên sẽ dần hình thành và nắm
vững các kiến thức, kĩ năng cần thiết về nghề.
Trong khuôn khổ học phần Xây dựng kĩ năng giảng dạy được tổ chức vào học kì
1 năm 3, sinh viên được trang bị kiến thức về vị trí môn Tiếng Pháp trong nhà trường
phổ thông cũng như cách lập chương trình và thiết kế nội dung giảng dạy cụ thể cho

từng học kì hay từng bài học. Nhằm đáp ứng những đổi mới trong Quy chế thực hành
nghiệp vụ sư phạm trong đào tạo giáo viên theo học chế tín chỉ, từ năm học 2013-2014,
ở học phần này sinh viên được yêu cầu viết nhật kí học tập. Đây cũng là cơ sở để giáo
viên đánh giá quá trình học tập của người học vào cuối kì. Chúng tôi tự hỏi người học
sẽ viết những gì trong nhật kí, họ sẽ viết như thế nào để vừa có thể đáp ứng yêu cầu của
giáo viên nhưng vẫn giữ nguyên tính độc đáo riêng biệt của cuốn nhật kí của riêng
mình.
Với mong muốn được hiểu rõ hơn về công cụ Nhật kí học tập chúng tôi thực hiện
đề tài nghiên cứu với tên gọi “Vai trò của nhật kí học tập trong quá trình hình
thành năng lực dạy học của sinh viên năm 3 Khoa Tiếng Pháp”.
2. Trình bày công trình nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Chúng tôi thực hiện đề tài này nhằm mục đích tìm hiểu các chiến lược học tập
(stratégies d’apprentissage) mà sinh viên năm 3 đã sử dụng để tích lũy năng lực chuyên
môn và năng lực dạy học. Từ đó, chúng tôi có thể đánh giá được vai trò của công cụ
nhật kí học tập trong việc ghi lại quá trình tiếp cận kiến thức mới của người học.
2.2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Trong khuôn khổ của đề tài và thời gian cho phép, chúng tôi đã sử dụng 14 quyển
nhật kí học tập của sinh viên năm 3 Khoa Tiếng Pháp thuộc khóa 39 hệ Sư phạm làm
đối tượng nghiên cứu. Những quyển nhật kí này được thực hiện trong bốn tháng, từ
tháng 9 đến tháng 12 năm 2015 và được xem là bài thi cuối kì của học phần Xây dựng
kĩ năng giảng dạy.

151


Kỉ yếu Hội nghị sinh viên NCKH

2.3. Vấn đề nghiên cứu
Qua quá trình tìm hiểu và thu thập tài liệu, chúng tôi đặt ra bốn câu hỏi nghiên

cứu sau:
- Sinh viên ghi chép gì trong nhật kí học tập?
- Những ghi chép này có cho thấy chiến lược học tập của bản thân?
- Những chiến lược này giúp cho người học hình thành năng lực gì?
- Năng lực này có hỗ trợ gì cho nghề giáo viên?
2.4. Giả thuyết nghiên cứu
Để có cơ sở thực hiện việc nghiên cứu, chúng tôi tìm hiểu ba khái niệm: nhật kí
học tập, năng lực dạy học và chiến lược học tập. Định nghĩa và đặc điểm của ba khái
niệm này đã giúp chúng tôi đặt ra ba giả thuyết liên quan đến đề tài nghiên cứu như
sau:
- Giả thuyết 1: Nhật kí học tập là một công cụ hữu ích giúp sinh viên ghi chép lại
quá trình tiếp thu kiến thức và hình thành kĩ năng cho riêng mình.
- Giả thuyết 2: Nhật kí học tập ghi nhận các chiến lược học tập của sinh viên
thông qua cách đặt mục tiêu, từng bước hoàn thiện mục tiêu và tự đánh giá bản thân
vào cuối học phần.
- Giả thuyết 3: Nhật kí học tập giúp sinh viên hình thành những năng lực cơ bản
và cần thiết đối với người giáo viên.
2.5. Phương pháp nghiên cứu
Với công việc nghiên cứu khoa học, phương pháp nghiên cứu là nền tảng quan
trọng, ảnh hướng đến việc xây dựng nội dung, kết quả cũng như chất lượng nghiên cứu.
Trong phần này, chúng tôi trình bày theo bốn mục chính, đó là: phương pháp nghiên
cứu tài liệu, phương pháp thu thập và xử lí dữ liệu, cuối cùng là phương pháp phân tích
dữ liệu.
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu: mục đích của việc nghiên cứu tài liệu là tìm
những cơ sở lí thuyết liên quan nhằm giúp chúng tôi có cơ sở hình thành kế hoạch thu
thập dữ liệu và phân tích kết quả thu được.
- Phương pháp thu thập dữ liệu: để có cơ sở giải đáp những câu hỏi nghiên cứu,
chúng tôi tiến hành thu thập nhật kí học tập của sinh viên năm 3 hệ Sư phạm Khoa
Tiếng Pháp (khóa 39) trong khuôn khổ học phần Xây dựng kĩ năng giảng dạy và thu
thập được 14 quyển nhật kí.

- Phương pháp xử lí dữ liệu: để giữ bí mật thông tin cho đối tượng nghiên cứu,
chúng tôi đã mã hóa 14 quyển nhật kí nhận được theo nguyên tắc sau: SV01 với SV có
nghĩa là sinh viên, tiếp theo là số thứ tự. Nguồn dữ liệu sau khi được mã hóa bao gồm:
SV01, SV02, SV03, SV04, SV05, SV06, SV07, SV08, SV09, SV10, SV11, SV12,
SV13, SV14.
- Phương pháp phân tích: khi nghiên cứu 14 quyển nhật kí học tập, chúng tôi đã
trích lọc thông tin về hình thức trình bày, về nội dung, về các chiến lược học tập đã sử

152


Năm học 2015 - 2016

dụng và về năng lực dạy học đã tích lũy. Từ đó, chúng tôi đã có một bảng thống kê đầy
đủ phục vụ cho việc phân tích dữ liệu.
3. Kết quả nghiên cứu
Sau khi tổng hợp thông tin, thống kê số liệu, chúng tôi đã có kết quả phân tích về
nội dung được viết trong nhật kí học tập của sinh viên; các chiến lược học tập mà sinh
viên đã vận dụng trong quá trình học học phần Xây dựng kĩ năng giảng dạy và các năng
lực dạy học mà sinh viên đạt được sau học phần chuyên ngành này.
3.1. Nội dung nhật kí học tập
3.1.1. Cách dùng đại từ nhân xưng
Biểu đồ 1. Cách dùng đại từ nhân xưng trong nhật kí học tập của sinh viên (đơn vị: %)

Theo biểu đồ 1, chúng tôi nhận thấy đa số sinh viên sử dụng đại từ “em” chiếm
50%, kế đến là “tôi” với tỉ lệ 36% và 14% sử dụng “mình” để chỉ người viết. Cách sử
dụng đa dạng và phong phú này cho thấy mối tương quan giữa tác giả nhật kí và đối
tượng đọc nhật kí.
Từ kết quả trên, chúng tôi có những nhận xét như sau :
1. Sự khéo léo, đúng mực và lịch sự trong giao tiếp chi phối cách xưng hô của

người Việt. Do đó, việc lựa chọn đại từ nhân xưng phù hợp cũng quyết định đến thành
công của cuộc giao tiếp. Chúng tôi nhận thấy việc xưng hô “tôi”, “mình” hay “em”
trong nhật kí đều có ý nghĩa riêng của nó.
2. Khi xưng “em” trong chính nhật kí của mình, sinh viên có một tâm thế đang
“trò chuyện” cùng “thầy” của mình. Tâm thế này đã ảnh hưởng ít nhiều đến nội dung,
văn phong, suy nghĩ của người viết. Vì lẽ, theo như phân tích ở trên về vị thế giữa thầy
và trò trong văn hóa Việt Nam, “người trò” khó mà trải bày hết suy nghĩ của mình với
“thầy”, cuộc “trò chuyện” vẫn còn khoảng cách. Và như vậy, người viết đã làm hạn chế
lợi ích của nhật kí học tập.

153


Kỉ yếu Hội nghị sinh viên NCKH

3. Trong khuôn khổ của bộ môn chuyên ngành Xây dựng kĩ năng giảng dạy, thiết
nghĩ việc sử dụng “tôi” hay “mình” khi viết nhật kí sẽ phù hợp. Sử dụng hai đại từ này
thể hiện người viết viết cho chính bản thân mình, viết để biết thời gian qua bản thân đã
làm những gì, kết quả ra sao, học hỏi thêm điều gì, từ đó đúc kết kinh nghiệm cá nhân.
Với cách viết này, nhật kí học tập trở thành nguồn tài liệu lưu trữ kiến thức và trải
nghiệm của người học.
3.1.2. Cách trình bày
Biểu đồ 2. Cách viết nhật kí học tập của sinh viên (đơn vị:%)

Có ba cách trình bày chính được sinh viên sử dụng trong nhật kí học tập, đó là
trình bày theo kiểu báo cáo, trình bày theo tuần học và trình bày theo công việc. Theo
như biểu đồ, có thể thấy cách trình bày nhật kí theo tuần học được sinh viên sử dụng
nhiều nhất với 8/14 sinh viên (tương đương 57%). Tiếp đến là cách ghi nhật kí theo
công việc với 5/14 sinh viên sử dụng (tương đương với 36%). Cuối cùng, chỉ có 1/14
sinh viên chọn cách trình bày nhật kí học tập của mình theo dạng báo cáo (tương

đương 7%).
Thông qua việc nghiên cứu ba cách trình bày này, chúng tôi nhận thấy sinh viên
có rất nhiều lựa chọn cho việc trình bày nhật kí học tập của bản thân. Mỗi cách có
những ưu điểm khác nhau, tuỳ vào mục đích người học muốn nhấn mạnh và ghi nhớ
phần nào mà họ sử dụng cách trình bày cho phù hợp. Dù cho trình bày thế nào, chúng
tôi cũng ghi nhận rằng nội dung nhật kí của người học luôn đáp ứng đầy đủ nội dung
yêu cầu của giảng viên bộ môn Xây dựng kĩ năng giảng dạy về việc viết nhật kí học
tập.
3.1.3. Nội dung nhật kí học tập của SV01 và SV13
Trong khuôn khổ thời gian có hạn, chúng tôi không thể nghiên cứu sâu tất cả nội
dung của 14 nhật kí học tập. Vì thế, chúng tôi đã chọn hai nhật kí tiêu biểu của SV01
và SV13 để làm mẫu phân tích cho hai cách viết nhật kí học tập. Chúng tôi dựa vào
nghiên cứu của Marie J.Berchoud [1] và tài liệu “Hướng dẫn viết nhật kí học tập” [4]
làm kim chỉ nam cho phần phân tích này.

154


Năm học 2015 - 2016

SV01 gần như đã hoàn thành nhật kí của mình theo sườn mà Marie J.Berchoud đã
đề nghị. Nhờ vào việc nghiêm túc viết nhật kí học tập, SV01 đã tạo cho bản thân mình
một kênh lưu trữ thông tin, những năng lực mình đang tích lũy để có thể tham khảo khi
cần thiết. Ngoài ra, việc đặt ra những mục tiêu dài hạn và ngắn hạn rõ ràng trong nhật
kí cũng giúp SV01 đặt ra dấu mốc ghi nhớ cho bản thân để có thể ghi nhớ và hoàn
thành chúng. Vào cuối học phần, nhờ vào những ghi chép này, SV01 đã tự đánh giá
được bản thân thông qua việc đánh giá mức độ hàn thành của những mục tiêu được đề
ra, và cũng chỉnh sửa được cả những khuyết điểm của chính mình.
SV13 đã rất nghiêm túc dành ra thời gian ghi chép những gì cần thiết cho nhật kí
của mình vào cuối mỗi buổi học. Nhờ vậy, trong nhật kí của SV13, chúng tôi đã quan

sát được rất nhiều điều thú vị, và cả bản thân SV13 cũng đã trình bày nhật kí học tập
theo đúng tinh thần của tài liệu Hướng dẫn viết nhật kí học tập. So với cách viết nhật kí
học tập của Marie J.Berchoud, tài liệu Hướng dẫn viết nhật kí học tập khuyến khích
người học đưa vào trong nhật kí của mình những tâm tư tình cảm, những cảm xúc trong
quá trình học. Để khi nhìn lại, người học sẽ có một “kênh” nữa để gợi nhớ những kí ức,
ấn tượng về bài học, về những buổi học mà mình đã trải qua, những năng lực mà mình
đã tích lũy thông qua việc liên kết thông tin với cảm xúc của bản thân.
3.2. Chiến lược học tập của sinh viên là gì?
Biểu đồ 3. Những chiến lược học tập quan sát được trong nhật kí học tập của sinh viên
(đơn vị:%)
120
100
80
60
40

100
64

20

50

36

29

29

Tự quản


Xác định
vấn đề

0
Tự đánh giá Tự điều
chỉnh

Dự trù và
lên kế
hoạch

Tập trung

Qua biểu đồ 3, chúng tôi nhận thấy cả 6 chiến lược học tập thuộc loại chiến lược
siêu nhận thức đều được sinh viên vận dụng trong quá trình học học phần Xây dựng kĩ
năng giảng dạy. Tuy nhiên, không phải tất cả sinh viên đều vận dụng tất cả các chiến
lược đó. Có chiến lược được tất cả các sinh viên vận dụng, có chiến lược được rất ít
sinh viên vận dụng. Trong đó, khả năng tự đánh giá đã được tất cả sinh viên vận dụng,
khả năng tự điều chỉnh được 64% sinh viên vận dụng, 50% sinh viên áp dụng khả năng
dự trù và lên kế hoạch, 36% sinh viên áp dụng khả năng tập trung. Khả năng tự quản và
khả năng xác định vấn đề là chiến lược mà được ít sinh viên áp dụng nhất với 29% đối
với mỗi chiến lược.
Nhận xét: Xây dựng và thực hiện những chiến lược học tập phù hợp với bản thân
là con đường giúp học sinh, sinh viên đi đến thành công trong học tập. Thông qua nhật

155


Kỉ yếu Hội nghị sinh viên NCKH


kí học tập của sinh viên năm 3 hệ Sư phạm Khoa Tiếng Pháp, chúng tôi nhận thấy được
chiến lược học tập mà mỗi người đã áp dụng cho việc học môn ngoại ngữ và học phần
Xây dựng kĩ năng giảng dạy của bản thân. Qua đó, chúng tôi nhận thấy, mỗi sinh viên
có những chiến lược học tập khác nhau, phù hợp và đem lại hiệu quả cho việc học tập
đối với mỗi cá nhân.
3.3. Năng lực tích lũy sau khi kết thúc học phần
Đối với một người giáo viên, việc hình thành và trau dồi cho bản thân những
năng lực cần thiết nói chung và năng lực dạy học nói riêng là điều không thể thiếu. Và
thông qua việc viết nhật kí học tập, các bạn sinh viên năm 3 hệ Sư phạm Khoa Tiếng
Pháp đã bước đầu hình thành cho bản thân những năng lực dạy học cơ bản. Sau khi tìm
hiểu và nghiên cứu 14 quyển nhật kí học tập của sinh viên, tuy rằng người viết không
nêu cụ thể năng lực đã tích lũy nhưng thông qua những ghi chép, chúng tôi có thể tóm
tắt và thống kê những năng lực cơ bản đã được hình thành cũng như lọc ra những dẫn
chứng cần thiết trong nhật kí học tập của sinh viên như sau:
- 100% sinh viên biết quan sát và phân tích tác nghiệp trên lớp.
Theo SV01 - “Trước tiên là về tác phong, tôi thấy các bạn ăn mặc chỉnh tề, lịch
sự, rất có tác phong sư phạm. Tuy nhiên, việc chuẩn bị lại chưa tốt lắm, có vấn
đề về kĩ thuật, chỉnh tới chỉnh lui khiến mọi người mất thời gian chờ đợi… Bài
giảng của nhóm khá sinh động với nhiều hình ảnh minh họa phù hợp, các bài
tập phát huy tính tự lập của học sinh. Các bạn tương tác với lớp tốt, phát âm to
rõ, khen học sinh tự nhiên, các bạn sử dụng hiệu quả các phương tiện giảng
dạy.”

- 14/14 sinh viên đã biết xây dựng giáo án và tiến hành đứng lớp. Mặc dù như
vậy nhưng chỉ có 72% sinh viên tương đương 10/14 sinh viên nắmv ững các bước
soạn giáo án.
Theo SV04 -“Xác định mục tiêu bài dạy
Xác định nội dung bài dạy
Xác định đối tượng

Chọn phương pháp tiếp cận
Chọn tài liệu (supports, outils pédagogiques 1)”

- 7/14 sinh viên thể hiện trong nhật kí học tập là mình biết xác định mục tiêu,
lập chương trình và thiết kế nội dung giảng dạy cụ thể cho từng bài dạy, tiết dạy.
Theo SV10 - “Việc xác định mục tiêu bài dạy phải rõ ràng, khi dạy một bài nào
đó cho học sinh, bạn phải biết trong bài này cái gì là quan trọng, cái nào cần
phải nhấn mạnh cho học sinh hiểu và nhớ”

- 8/14 sinh viên nắm vững cách triển khai nội dung giảng dạy cho từng tiết
dạy, bài dạy. Sinh viên biết được trong một bài dạy gồm những phần nào, triển khai
như thế nào cho hợp lí,…

1

: những công cụ hỗ trợ cho việc giảng dạy, ví dụ như: power point, những bài đọc, đoạn phim, hình
ảnh, âm thanh,…

156


Năm học 2015 - 2016
Theo SV01- “Bài giảng chúng tôi có hai phần, phần dẫn nhập và nội dung bài
học, trong nội dung bài học thì gồm 3 hoạt động chính, đó là phần bài dạy,
phần tổng kết, phần bài tập.”.

- Phần mà nhiều sinh viên vẫn còn gặp khó khăn và lo lắng khi học học phần Xây
dựng kĩ năng giảng dạy và cả khi đi Rèn luyện nghiệp vụ sư phạm là cách đặt câu hỏi,
cách đưa ra yêu cầu cho học sinh. Chỉ có 5/14 sinh viên (36%) rút ra được kinh nghiệm
cho bản thân về việc đặt câu hỏi, đưa ra yêu cầu cho học sinh thực hiện.

Theo SV10 -“Đối với em phần đưa ra các câu hỏi – “consigne2” cho học sinh
rất quan trọng và phải chuẩn bị chu đáo. Các “consigne” đưa ra phải rõ ràng,
cần nhấn mạnh “consigne” cho học sinh hiểu, để có thể làm bài tốt”.

- Đối với người giáo viên tương lai, việc hình thành cho mình một tâm thế, một
phong cách đứng lớp là rất cần thiết. Làm sao để thu hút sự chú ý của học sinh khi đến
lớp? Những điều nên và không nên khi đứng lớp giảng dạy đối với người giáo viên ?
Giáo viên có nên thể hiện sự khó chịu hay tức giận đối với học sinh hay không?... Đây
là ba trong số nhiều câu hỏi được đặt ra về tâm thế người giáo viên. Và những câu hỏi
đó đã được 7/14 sinh viên giải đáp qua nhật kí học tập.
Theo SV11- “Tác phong của người giáo viên cực kỳ quan trọng. Cần chú ý đến
màu tóc (không được nhuộm màu). Trong quá trình dạy phải tự tin để tạo niềm
tin nơi học sinh. Trong quá trình giảng thì không nên đi nhiều sẽ làm học sinh
bị phân tâm. Nhưng cũng không nên đứng yên một chỗ, hoặc chỉ hướng về một
phía.”.

- Ngoài ra, cách làm việc nhóm cũng được sinh viên đề cập đến khá nhiều (43%)
hay cách làm việc qua thư điện tử,…
4. Đề xuất và kết luận
Từ những kết quả thu được, chúng tôi có thể thấy rằng nhật kí học tập là một
công cụ hữu ích để ghi lại và quan sát cả quá trình học tập, bao gồm việc thu thập các
kiến thức chuyên môn cũng như các năng lực về nghề cần thiết cho sinh viên. Nhật kí
học tập giúp sinh viên dễ theo dõi lại con đường mà mình đã đi để rút kinh nghiệm, tự
đánh giá và tự điều chỉnh khi cần thiết. Ngoài ra giảng viên phụ trách bộ môn còn có
thể đánh giá sinh viên không chỉ qua sản phẩm cuối cùng mà còn dựa trên cả một quá
trình làm việc xuyên suốt học phần của sinh viên. Điều này giúp cho việc đánh giá
được khách quan và chính xác hơn. Từ đó, chúng tôi có một số đề nghị cho việc viết
nhật kí học tập của sinh viên :
1. Sinh viên nên ghi chú lại những sự kiện đã diễn ra trong lớp học, những điều
mình đã học được cũng như suy nghĩ cá nhân về một kiến thức mới trước và sau khi

học. Điều này sẽ giúp sinh viên ghi nhớ kĩ hơn cũng như dễ dàng hơn một kiến thức
mới.
2. Sinh viên nên tập viết nhật kí ngay sau khi học xong môn đó (nếu có thời gian)
hoặc viết vào cuối ngày hôm đó. Lâu dần, việc này sẽ tạo cho người học một thói quen
2

câu hỏi, yêu cầu

157


Kỉ yếu Hội nghị sinh viên NCKH

viết, sinh viên sẽ không sợ bỏ sót những điều đã diễn ra ngay ngày học vì lúc này, kí ức
của người học vẫn còn rất mới. Ngoài ra, việc chèn thêm cảm xúc vào nhật kí cũng có
thể giúp người học có ấn tượng hơn về kiến thức được tiếp thu vào ngày học.
3. Việc viết nhật kí đều đặn theo một chu kì nhất định (ngày hoặc tuần) sẽ giúp
người học thấy được quá trình tiến bộ của mình cũng như so sánh những kiến thức mới
và cũ, thấy được những điểm được và chưa được của mình để phát huy hoặc điều chỉnh
kịp thời.
Qua quá trình nghiên cứu này, bản thân chúng tôi cũng gặp một số khó khăn. Từ
đó, chúng tôi đã rút ra được những kinh nghiệm cho bản thân cũng như cho việc nghiên
cứu sau này của mình. Nhờ vậy, chúng tôi cũng trang bị cho mình một số kĩ năng mềm
cần thiết.
Khó khăn đầu tiên là việc thu thập các nhật kí học tập từ sinh viên. Chúng tôi đã
thay đổi đa dạng cách thông báo từ việc gửi thư điện tử đến địa chỉ thư của các lớp đến
việc gửi thư điện tử cho từng cá nhân, giao tiếp trên facebook nhưng chỉ nhận được
phản hồi của 14/ 22 sinh viên. Điều này cũng làm cho kết quả thu được vẫn chưa mang
được tính đại diện. Qua đó, chúng tôi nghĩ cần có một phương pháp tiếp cận khác để
việc thu thập dữ liệu không ảnh hưởng đến kết quả nghiên cứu. Chúng tôi sẽ rút kinh

nghiệm cho những dịp nghiên cứu sau này.
Khó khăn thứ hai là việc viết các nhận định sao cho không mang tính chủ quan.
Chúng tôi phải tự đọc bài lẫn nhau, góp ý và chỉnh sửa để giảm tối đa tính chủ quan
trong từng ý kiến. Ngoài ra, chúng tôi cũng học được các trình bày bài nghiên cứu sao
cho mạch lạc và lô gíc để người đọc dễ theo dõi và dễ dàng tiếp cận vấn đề nghiên cứu.
Khó khăn thứ ba và cũng là khó khăn lớn nhất là việc nghiên cứu nhật kí học tập
của sinh viên. Chúng tôi đã quen với việc nghiên cứu và thu thập dữ liệu bằng bảng câu
hỏi, từ đó thống kê các số liệu cần thiết cho bài nghiên cứu của mình. Tuy nhiên, trong
lần nghiên cứu này, chúng tôi đã gặp phải một cách tiếp cận thông tin hoàn toàn mới,
đó là đọc và thu thập dữ liệu trong nhật kí của sinh viên. Chúng tôi đã tìm đọc nhiều tài
liệu, thảo luận với nhau nhiều lần cũng như tham khảo qua các Thầy Cô Khoa Tiếng
Pháp và cả Giảng viên hướng dẫn để tìm ra được hướng nghiên cứu cho đề tài.
Ngoài ra, chúng tôi cũng tích lũy thêm cho mình những kĩ năng mềm như khả
năng làm việc nhóm, lắng nghe và tiếp thu ý kiến của người khác, việc quản lí thời gian
để có thể hoàn thành được cả việc học, việc Rèn luyện nghiệp vụ sư phạm và việc
nghiên cứu.
Qua tất cả những khó khăn, chúng tôi cũng hoàn thành được bài nghiên cứu của
mình cũng như thêm vào trong hành trang của bản thân những kinh nghiệm quý báu
cho việc học cũng như việc nghiên cứu sau này của mình. Đây chính là lợi ích lớn nhất
mà nghiên cứu khoa học đã mang lại cho chúng tôi.

158


Năm học 2015 - 2016

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

Berchoud Marie J (2002), "Le «Journal d’apprentissage»- Analyse et résultats d’une

pratique de formation de futurs enseignants", Recherche et formation, no39/2002,
p.143-158.

2.

Cossette Raymonde, Laure Caroline (2005), "Stratégies d’apprentissage et
apprentissage par problèmes", p.27, Cégep du Vieux Montréal, Montréal.

3.

Cyr Paul (1998), Les stratégies d'apprentissage, Clé International, Paris.

4.
5.

Khamis M.Sc. (2014), Guide du journal de bord, Université de Lugano, Lugano.
Hoàng Kim Ngọc (2011), “Từ xưng hô và văn hoá giao tiếp”, Tạp chí nghiên cứu văn
hoá, Đại học Văn hoá, Hà Nội.
Khoa Tiếng Pháp (2015), Đề cương chi tiết Học phần Xây dựng kĩ năng giảng dạy,
Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh.
Khoa Tiếng Pháp (2015), Mục tiêu đào tạo (trích Chương trình khung hệ Sư phạm),
Đại học Sư Phạm, Thành phố Hồ Chí Minh.
Nguyễn Thị Tứ (2012), Giáo trình Tâm lý học lứa tuổi và Tâm lý học sư phạm, p.215 226, Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh.
Scallon Gérard (2000), Le portfolio ou dossier d’apprentissage : propos et réflexions,
Université Laval, Québec.

6.
7.
8.
9.


10. />11. />12. />
159



×