Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

LÝ LUẬN CHUNG VỀ VẤN ĐỀ PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (164.65 KB, 24 trang )

LÝ LUẬN CHUNG VỀ VẤN ĐỀ PHÁT TRIỂN
NGUỒN NHÂN LỰC
I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC
1. Đặc điểm, vị trí của phát triển nguồn nhân lực
Việt Nam đang bước vào thời kỳ của sự phát triển, thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước, từng bước hội nhập với cộng đồng
quốc tế chuẩn bị hành trang bước sang thế kỷ 21. Công nghiệp hoá, hiện đại
hoá là nhằm phát triển và sử dụng có hiệu quả năng lực của nguồn nhân lực,
tạo thêm công ăn việc làm, đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế trên cơ sở
phát triển khoa học kỹ thuật và công nghệ, bảo đảm an ninh, chính trị, lãnh thổ
ổn định và phát triển đất nước, cải thiện hơn nữa đời sống nhân dân, đòi hỏi
dặt ra những yêu cầu về số lượng, cơ cấu và chất lượng cao của nguồn nhân
lực trong từng thời kỳ phát triển tương ứng.
Nguồn nhân lực có chất lượng cao là một trong những yếu tố quyết định
tăng trưởng kinh tế. Kinh nghiệm này chỉ thấy rõ ở mô hình tăng trưởng kinh
tế của một số nước như: Nhật, Singapo và các nước khác trong khu vực..., đồng
thời cũng được chứng minh từ thực tế Việt Nam qua hơn 10 năm đổi mới.
Khi nghiên cứu lý thuyết mới về sự phát triển, một trong những vấn đề
cơ bản nhất trong cấu trúc của nó là phát triển nguồn nhân lực, ở đó đặc biệt
lưu ý đến nguồn nhân lực trẻ, coi phát triển nguồn nhân lực là mục tiêu cuối
cùng, là đỉnh cao nhất của quá trình phát triển mỗi quốc gia.
Thực chất phát triển nguồn nhân lực là phát triển yếu tố con người lại là
trung tâm của sự phát triển. Xét đến cùng chiến lược phát triển nguồn nhân
lực phải đươch đặt trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội nói chung, hơn
nữa phải được đặt ở vị trí trung tâm, là chiến lược của mọi chiến lược phát
triển kinh tế xã hội đất nước. “Không còn là vấn đề chúng ta muốn hay chúng
ta nên phát triển tài nguyên nhân sự... phát triển tài nguyên nhân sự là vấn đề
sống còn của xã hội chúng ta”. Triết lý này của Jame L.Hages, cho chúng ta thấy
được phần nào tính cấp thiết của công tác phát triển tài nguyên nhân sự. Nền
kinh tế của chúng ta đang trải qua những thay đổi to lớn thông qua các tiến bộ
về công nghệ đang làm biến đổi cơ cấu kinh tế. Phát triển nguồn nhân lực đối


với các cấp, các ngành trở nên ngày càng quan trọng đối với người lao động,
nhằm từng bước phát triển và nâng cao chuyên môn nghiệp vụ của người lao
động một cách có hệ thống thông qua quá trình làm việc, trên cơ sở đó đánh
giá khả năng của họ một cách toàn diện trong từng giai đoạn. Xuất phát từ lợi
ích và yêu cầu đó, đòi hỏi mỗi người lao động phải có trình độ đáp ứng yêu cầu
công việc. Và để có được một đội ngũ nguồn nhân lực giỏi có trình độ năng lực,
phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, của một tổ chức,
một đơn vị thì hoạt động phát triển cần phải dựa trên một số nguyên tắc như:
Một là: Con người luôn có năng lực phát triển, mọi người đều có khả
năng phát triển và sẽ thường xuyên phát triển để giữ vững sự ổn định và phát
triển của tập thể cũng như cá nhân họ.
Hai là: Mỗi cá nhân đều có chân giá trị riêng, và nhân cách riêng khác
nhau và đều có khả năng đóng góp sáng kiến.
Ba là: Lợi ích của con người và tập thể kết hợp với nahu. Hơn nữa phát
triển nguồn nhân lực là một hoạt động đầu tư sinh lợi đáng kể, vì phát triển
nguồn nhân lực là những phương tiện để đạt được sự phát triển của tổ chức.
Còn về phía người lao động thì họ được sự ổn định và phát triển, có cơ hội tiến
bộ, thăng chức, có những vị trí làm việc thuận lợi mà ở đó người lao động có
thể đóng góp cống hiến được nhiều nhất, được cung cấp nhưng thông tin về
đào tạo có liên quan đến họ.
Trên đây là những nguyên tắc cơ bản trong công tác phát triển nguồn
nhân lực mà chúng ta cần quan tâm đến khi giải quyết vấn đề này. Để có thể
nghiên cứu vấn đề này một cách triệt để có cơ sở và có hướng đi đúng đắn
chúng ta đi vào làm rõ một số các khái niệm có liên quan.
Phát triển (Development): bao gồm các hoạt động nhằm chuẩn bị cho
người lao động theo kịp với cơ cấu tổ chức khi nó thay đổi và phát triển. Các
khoá học tại đại học cung cấp cho các nhà quản trị những kiến thức mới là
một loại điển hình của sự phát triển.
Nguồn nhân lực (Human resouce): là nguồn lực về con người và được
nghiên cứu dưới nhiều khía cạnh. Trước hết với tư cách là nguồn cung cấp sức

lao động cho xã hội, bao gồm toàn bộ dân cư có cơ thể phát triển bình thường
(không bị khiếm khuyết, dị tật bẩm sinh).
Nguồn nhân lực với tư cách là một yếu tố của sự phát triển kinh tế xã
hội được hiểu theo nghĩa hẹp hơn bao gồm nhóm dân cư trong đoọ tuổi lao
động có khả năng lao động. Với cách hiểu này nguồn nhân lực tương đương
với nguồn lao động.
Nguồn nhân lực còn có thể hiểu là tổng hợp cá nhân những người cụ thể
tham gia vào quá trình lao động. Với tư cách hiểu này nguồn nhân lực bao
gồm: những người từ giới hạn dưới tuổi lao động trở nên (ở nước ta là tròn
15 tuổi).
Các cách hiểu trên chỉ khác nhau về quy mô nhân lực, song đều nhất trí
với nhau đó là nguồn nhân lực nói nên khả năng lao động của xã hội.
Nguồn nhân lực được xem xét trên góc độ số lượng và chất lượng. Số
lượng nguồn nhân lực được biểu hiện thông qua các chỉ tiêu như quy mô và
tốc độ phát triển nguồn nhân lực.
Về chất lượng: nguồn nhân lực được xem xét trên các mặt: sức khoẻ, trình độ
văn hoá, trình độ chuyên môn, năng lực, phẩm chất. Cũng như các nguồn nhân
lực khác, số lượng và đặc biệt là chất lượng nguồn nhân lực đóng vai trò hết
sức quan trọng trong việc tạo ra của cải vật chất và tinh thần cho xã hội.
Sau khi đã nghiên cứu, xác định rõ từng thành tố, chức năng của vấn đề phát
triển nguồn nhân lực chúng ta sẽ nghiên cứu sang để làm rõ đối tượng và nội
dung của vấn đề này.
2. Đối tượng, nội dung phát triển nguồn nhân lực
Phát triển nguồn nhân lực là một nhu cầu không thể thiếu được đối với
bất kỳ giai đoạn nào trong một chiến lược phát triển kinh tế, nó thể hiện cho
một sự phát triển tương lai.
Mỗi cơ sở, mỗi bộ phận trong một bộ máy tổ chức là một mắt xích của
một dây truyền, đóng vai trò thúc đẩy sự phát triển cho cả bộ máy. Một tổ chức
chỉ có thể phát triển được một cách có hiệu quả khi mà tất cả các mắt xích
trong bộ máy đều được hoạt động có hiệu quả. Để thúc đẩy sự phát triển này

thì việc phát triển nguồnlực con người là có vị trí quan trọng nhất. Tuy nhiên,
đối tượng của chương trình này không phải đâu xa lạ, ta có thể chia đối tượng
theo các tiêu thức khác nhau, như tầng lớp người lao động và tầng lớp người
quản lý.
a, Người lao động
Đội ngũ này bao gồm những người lao động là những công nhân kỹ
thuật và nhân viên nghiệp vụ họ trực tiếp thực hiện công việc trong quá trình
sản xuất, cần có những kỹ năng trong công việc nhất định, cần phải được nâng
cao kiến thức nghề nghiệp trong lao động để thực hiện một cách có hiệu quả
hơn trong công việc, nâng cao năng suất lao động để thực hiện một cách có
hiệu quả hơn trong công việc, nâng cao năng suất lao động, nâng cao chất
lượng sản phẩm.
Nội dung bồi dưỡng và phát triển nghề nghiệp cho người lao động cần phải
luôn luôn chú trọng, xem xét và đánh giá thường xuyên, liên tục để có định
hướng đáp ứng yêu cầu thay đổi của công nghệ mới, người được bồi dưỡng
phải tập trung tiếp thu các kiến thức khoa học nhằm làm cơ sở tốt hơn cho
việc rèn luyện những kỹ năng nghề nghiệp với mức độ của công nghệ mới đòi
hỏi. Với hướng kỹ năng, họ giành được nhiều thời gian làm các công việc thực
tế để đạt được sự lành nghề hơn nữa trng kỹ năng nghề theo như công nghệ
mới đặt ra. Hàng năm nước ta cần khoảng 1,2-1,5 triệu chỗ làm việc mới.
Trong đó có khoảng 1,5-1,7 người bước vào độ tuổi lao động, có khoảng 70%
lao động chưa được đào tạo, khoảng 40% công nhân kỹ thuật được qua
trường lớp.
Đây là những con số cụ thể căn cứ vào số liệu thực tế này để nhà nước nói
chung và các tổ chức, đơn vị nói riêng nhìn thấy được những bất cập trong
công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực, để có những nội dung bồi
dưỡng và phát triển cho phù hợp.
b, Đối với cấp quản trị và các chuyên viên.
Dù chúng ta có lý luận gì đi chăng nữa, tương lai của một tổ chức, một
đơn vị hay nói rộng hơn là của một đất nước chủ yếu nằm trong tay cấp quản

trị.
Kinh nghiệm ở Việt Nam và trên thế giới cho thấy rằng vai trò của cấp
quản trị là rất quan trọng, và là nhân tố quyết định sự thành bại, sự phát triển
hay suy vong của một tổ chức. Chúng ta đã từng chứng kiến được những thực
tế nhiều ngành địa phương vẫn những người lao động đó, vẫn những cơ chế
đó của nhà nước qui định đó nhưng với một ban lãnh đạo có trình độ có khả
năng nhạy bén, năng động sẽ tạo nên được những bước ngoặt đáng kể trong
sự phát triển của một tập thể, làm cho tổ chức, đơn vị mình sẽ khởi sắc hơn và
phát triển nhanh hơn. Tuy nhiên chúng ta cũng không thể phủ nhận vai trò của
người lao động trực tiếp.
Đội ngũ quản trị bao gồm những người trực tiếp điều hành lãnh đạo, quản lý
tổ chức hay đơn vị. Họ đảm nhận những chức năng đặt ra nhưng chính sách
phương hướng phát triển cho toàn đơn vị mình đảm nhận một số chức năng
khác như cố vấn kỹ thuật, cố vấn kinh tế, nghiên cứu thiết kế hoặc điều hành
quá trình công nghệ. Đội ngũ này đòi hỏi phải có trình độ có khả năng nhạy
bén và năng động.
Mục tiêu và nội dung bồi dưỡng cho đối tượng này phụ thuộc vào yêu
cầu cụ thể của từng lĩnh vực chuyên môn hay từng quá trình lao động vào
nguyện vọng cá nhân hoặc đòi hỏi của đơn vị.
Nói chung nội dung chương trình bồi dưỡng phát triển thiết kế cụ thể
cho từng khoá, từng chuyên đề thường được chia theo từng công đoạn dựa
trên nguyên tắc nội dung hoá, đảm bảo khả năng phát triển của họ theo các
hướng ngang và dọc. Nghĩa là mở rộng phạm vi và nâng cao trình độ chuyên
môn tuỳ thuộc vào từng nhiệm vụ cụ thể của thực tế đơn vị đặt ra.
3. Vai trò, mục đích của phát triển nguồn nhân lực
Từ sau Đại hội Đảng lần thứ VI, đất nước ta bước sang thời kỳ đổi mới,
nền kinh tế được chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh
tế thị trường có sự quản lý vĩ mô của nhà nước. Trong nền kinh tế thị trường,
sức lao động được nhìn nhận theo một quan điểm mới. Nó được coi là một
loại hàng hoá đặc biệt, hơn thế nữa lao động còn được coi là một trong những

yếu tố đầu vào của một quá trình sản xuất. Bởi vì trong cơ chế thị trường, các
doanh nghiệp phải tự hoạch toán kinh doanh nên họ phải tìm cách tối thiểu
hoá các chi phí, hiệu quả các yếu tố đó để mong đạt được lợi nhuận lớn nhất từ
các khoản chi phí. Với cách nhìn nhận mới như vậy, một yêu cầu đặt ra với các
nhà quản trị là phải bồi dưỡng và sử dụng đội ngũ lao động như thế nào? Để
trả lời cho câu hỏi đó thì các nhà quản trị phải có kế hoạch cụ thể, xây dựng
một qui trình đào tạo và phát triển rõ ràng, có sự phân công kiểm tra chặt chẽ.
Và quan trọng hơn nhất là chất lượng lao động phải đảm bảo đáp ứng được
yêu cầu đòi hỏi của công việc.
Trước kia trong cơ chế cũ, người ta không mấy chú trọng đến chất
lượng lao động, việc nhận người vào làm là do quan hệ thân thuộc, quen biết
và dựa vào chỉ tiêu phân bổ của nhà nước dẫn đến hình thành đội ngũ cán bộ
công nhân viên làm việc không hiệu quả, bị động. Mặt khác công tác bồi dưỡng
và phát triển cán bộ công nhân viên không mấy khi được tiến hành. Nhưng
ngày nay, trước sự đòi hỏi bức xúc của cơ chế thị trường cũng như mục tiêu
kinh tế thì công tác bồi dưỡng và phát triển cán bộ công nhân viên là một việc
lamf cấp bách không thể thiếu được đối với bất kỳ một đơn vị nào.
Bên cạnh đó một xã hội tồn tại được hay không là do đáp ứng được sự thay
đổi. Một đơn vị tiến hay lùi là do cấp quản trị có thấy được sự thay đổi để kịp
thời bồi dưỡng và phát triển nguồn nhân lực của mình. Trong thời đại mà
khoa học công nghệ tiến bộ nhanh như vũ bão, một doanh nghiệp muốn thành
đạt, một đất nước muốn tăng trưởng phát triển nhanh... đều cần điều kiện kiên
quyết: phải tạo được cho mình một nnm có trình độ tay nghề và trình độ
chuyên môn tương xứng. Có vậy mới đáp ứng được yêu cầu về kỹ thuật công
nghệ ngày càng hiện đại và phát triển.
Cùng với sự phát triển cơ chế thị trường thì việc mở rộng sự hợp tác về
kinh tế ngày càng phát triển, hàng hoá được giao lưu một cách rộng rãi. Điều
này rất thuận tiện cho việc xuất khẩu hàng hoá cũng như thu hút sự đầu tư
của nước ngoài. Song để làm được điều này thì đòi hỏi phải có được nguồn
nhân lực có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao cũng như trình độ quản lý giỏi.

Trong các yếu tố để phát triển nhanh và bền vững của doanh nghiệp của
nền kinh tế thì nguồn nhân lực con người là yếu tố cơ bản nhất. Bởi lẽ khi đã
có trình độ văn hoá, kỹ thuật nghiệp vụ cao có tay nghề vững sẽ là yếu tố quyết
định để tạo ra phương pháp công nghiệp và công nghệ hiện đại. Nguồn nhân
lực này vừa là người sáng tạo vừa là người sử dụng một cách đầy đủ, có hiệu
quả, cần phải đầu tư để đào tạo và bồi dưỡng lại đội ngũ cán bộ công nhân
viên kỹ thuật chuẩn bị hế hoạch để phát triển đào tạo mới có chất lượng cao
nhằm đáp ứng kịp thời sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật cũng như việc chuyển
đổi cơ chế thị trường...
Trong công tác phát triển nguồn nhân lực thì đào tạo là bước đầu là tiền
đề là phương tiện cho công tác phát triển. Vì vậy việc đào tạo và phát triển
nguồn nhân lực là cấn thiết cấp bách đối với mọi tổ chức đơn vị. Phát triển
nguồn nhân lực là vấn đề hết sức phức tạp bởi vì nó bao gồm rất nhiều các
hoạt động khác nhau. Để hiểu được vai trò của phát triển ta phải đi vào tìm
hiểu các hoạt động đó. Mục đích của chương trình đào tạo và phát triển chính
bao gồm:
Thứ nhất là: Định hướng cho người được đào tạo. Mục đích của loại
hình đào tạo này là cung cấp và chỉ dẫn về những kiến thức mới. Nó bao gồm
phổ biến cho những người lao động mới về chương trình phúc lợi của một đơn
vị và giải thích cho họ về cơ cấu tổ chức.
Thứ hai là: Phát triển kỹ năng có nhiều công việc đòi hỏi những kỹ năng
mới. Những người lao động mới cần đạt được những kỹ năng mới khi công
nghệ thay đổi, công việc phức tạp hơn.
Thứ ba là: đào tạo trong điều kiện an toàn loại hình đào tạo được thiết
kế một cách an toàn nhất tránh tai nạn lao động xảy ra và tuân thủ theo nội
quy đề ra. Người lao động sẽ không được phép thực hiện bất cứ một công việc
gì cho đến khi họ biết cách thực hiện công việc một cách đảm bảo an toàn.
Thứ tư là: giáo dục về chuyên môn kỹ thuật. Mục đích của loại đào tạo
này là tránh sự lỗi thời trong chuyên môn nghề nghiệp. Bởi vì cùng với sự tiến
bộ khoa học kỹ thuật, những người lao động có chuyên môn kỹ thuật cần phải

được đào tạo theo từng thời kỳ. Việc đào tạo này bao gồm việc trang bị các
kiến thức mới được đưa vào ứng dụng gần đây nhất.
Thứ năm là: giáo dục và đào tạo dưới sự giám sát: Việc đào tạo dưới sự
giám sát và quản lý cần thiết cho việc ra quyết định quản lý và làm việc với mọi
người. Bởi vì có rất nhiều loại hình đào tạo, các chuyên gia trong lĩnh vực đào
tạo cần phải xác định một cách cẩn thận nhu cầu đào tạo trong đơn vị.
Với một vai trò đặc biệt quan trọng trong hoạt động tổ chức lao động, quản trị
nguồn nhân lực, việc phát triển nguồn nhân lực giúp cho công việc cải tiến kỹ
năng trình độ của người lao động, tăng hiệu quả kinh doanh của doanh
nghiệp. Quá trình đào tạo và phát triển thành công sẽ đem lại những lợi ích
như:
- Cải tiến về năng suất chất lượng hiệu quả công việc.
- Giảm thời gian thực tập cho người lao động để đạt được tiêu chuẩn công
việc.
- Tạo thái độ tán thành và hiệp tác trong lao động.
- Đạt được yêu cầu trong công tác kế hoạch hoá nguồn nhân lực.
- Giảm bớt tai nạn trong lao động vì nhiều tai nạn xảy ra là do những hạn chế
của con người hơn là do những hạn chế của trang thiết bị hay điều kiện làm
việc.
- Sự ổn định và năng động của tổ chức tăng lên, chúng đảm bảo giữ vững hiệu
quả hoạt động của doanh nghiệp ngay cả khi thiếu những người chủ chốt do có
nguồn đào tạo dự trữ thay kế.
II. CÔNG TÁC PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC
1. Tiến trình xây dựng một chương trình đào tạo và phát triển nguồn
nhân lực
Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của ĐCSVN đã đề ra
một quyết định lịch sử “Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá để từ đây đến
năm 2000 ra sức phấn đấu đưa đất nước ta trở thành một nước công nghiệp”.
Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá để tăng năng suất lao động đòi
hỏi phát triển ở trình độ cao khoa học và công nghệ cùng các yếu tố khác có

liên quan. Trong các yếu tố đó, vai trò của khoa học, kỹ thuật công nghệ đối với
tăng năng suất lao động rất to lớn. Các thành tựu của khoa học kỹ thuật công
nghệ đem ứng dụng vào sản xuất đã đưa lại sự sáng tạo và hoàn chỉnh các
công cụ sản xuất, các đối tượng lao động và các phương pháp sản xuất mới.
Tất cả những thay đổi có tính chất cách mạng đó đã làm tăng năng suất lao
động lên gấp bội. Ngược lại, khi năng suất lao động tăng nhanh chóng lại tạo
điều kiện cho khoa học, kỹ thuật công nghệ phát triển mạnh mẽ.

×