Tải bản đầy đủ (.doc) (41 trang)

Lý luận chung về đầu tư phát triển từ vốn NSNN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (186.04 KB, 41 trang )

Mục lục
Trang
Lời mở đầu
Ra đời từ năm 1992 cho đến nay Bảo hiểm y tế (BHYT) đã trải qua 15
năm thực hiện. Sự chuyển biến mạnh mẽ trong t tởng, quan điểm, định hớng
lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng và Chính phủ đã nói lên thành tựu to lớn của
chính sách này. Từ một khái niệm còn xa lạ đối với mỗi ngời dân trong
những ngày đầu nay đã trở nên khá quen thuộc. BHYT là giải pháp hữu hiệu
1
trong việc thực hiện chủ trơng xã hội hoá công tác y tế, quỹ Bảo hiểm xã hội
(BHXH) là nguồn lực quan trọng góp phần nâng cao chất lợng và hiệu quả
công tác chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân trong thời kỳ đổi mới. Chính
sách BHYT đã góp phần vào thực hiện mục tiêu xoá đói giảm nghèo và công
bằng xã hội. BHYT đã giúp cho hàng triệu ngời có thu nhập thấp, ngời
nghèo, ngời mắc bệnh nặng đợc khám chữa bệnh mà vẫn không ảnh hởng
đến sinh hoạt của gia đình, không lâm vào cùng quẫn về kinh tế khi mắc
bệnh phải điều trị với chi phí lớn.
Tuy nhiên một thực trạng đáng lo ngại hiện nay- đó là sự mất cân đối
thu- chi của quỹ BHYT mà chủ yếu sự mất cân đối này diễn ra ở khu vực
BHYT ngời nghèo và BHYT tự nguyện của nhân dân. Theo báo cáo, hầu hết
các quỹ BHYT tự nguyện ở địa phơng đều bị thâm hụt; BHXH các tỉnh,
thành phố đã thanh toán chi phí khám chữa bệnh BHYT tự nguyện trên 743
tỷ đồng, vợt 50% so với dự kiến thu cả năm 2006. Sự mất cân đối thu- chi của
quỹ BHYT xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau: do hình thức thanh
toán không phù hợp, do chi phí khám chữa bệnh ngày càng tăng cao, do mức
đóng thấp hơn mức lơng, trong đó còn có cả nguyên nhân từ sự thiếu hợp lý
của hệ thống văn bản pháp luật về BHYT.
Xuất phát từ tình hình thực tế trên, em đã chọn đề tài Một số vấn đề về
tình trạng bội chi quỹ BHYT tự nguyện ở Việt Nam hiện nay làm đề tài đề
án môn học Kinh tế bảo hiểm.
Bài viết gồm 3 chơng:


Chơng 1: Lý luận về BHYT và BHYT tự nguyện
Chơng 2: Thực trạng triển khai BHYT tự nguyện ở Việt Nam
Chơng 3: Những giải pháp và kiến nghị
Mặc dù đã cố gắng tìm kiếm tra cứu các văn bản pháp luật, các sách
báo, tạp chí song bài viết không thể tránh khỏi những khiếm khuyết, rất
2
mong nhận đợc sự đóng góp ý kiến của các thầy cô để đề tài hoàn chỉnh và
đầy đủ nội dung hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Chơng I
Lý luận về BHYT và BHYT tự nguyện
I. Sự cần thiết, bản chất và tác dụng của BHYT:
1. Khái niệm BHYT:
3
Trong cuộc sống sinh hoạt hàng ngày cũng nh trong sản xuất kinh
doanh, con ngời luôn phải đối đầu với những điều không chắc chắn, những
rủi ro bất ngờ xảy ra đe dọa đến tính mạng, tình trạng sức khoẻ và tài sản.
Nguyên nhân của rủi ro tổn thất này có thể là do tác động của tự nhiên (thiên
tai, lũ lụt, hạn hán ); do sự biến động của khoa học kỹ thuật và công nghệ
hoặc do tác động của môi trờng sống (chiến tranh, đình công, ).
Để đối phó với những rủi ro trên, con ngời đã có nhiều biện pháp: tự tích
luỹ, đi vay, hình thành hội tơng hỗ Hội t ơng hỗ chính là hình thức sơ
khai của Bảo hiểm.
Xét một cách tổng quát trên cơ sở hoạt động của Bảo hiểm, Bảo hiểm đ-
ợc định nghĩa nh sau: Bảo hiểm là sự chia nhỏ tổn thất của một số ít ngời
cho nhiều ngời có khả năng gặp rủi ro tơng tự bằng cách thu của họ một
khoản tiền nhất định gọi là phí bảo hiểm để hình thành nên Quỹ tài chính
bảo hiểm, từ quỹ đó bồi thờng cho họ những thiệt hại tài chính do rủi ro đó
gây nên.
Cũng là một hình thức bảo hiểm nhng BHYT chỉ là một nhánh nhỏ

trong hệ thống bảo hiểm. BHYT mang tính chất đặc trng riêng cho ngành,
lĩnh vực mà nó tham gia. Mỗi quốc gia khác nhau có những nhận định khác
nhau về loại hình bảo hiểm này, ở các nớc công nghiệp phát triển, họ cho
rằng: BHYT trớc hết là một tổ chức cộng đồng đoàn kết, tơng trợ lẫn nhau,
nó có nhiệm vụ gìn giữ sức khoẻ, khôi phục lại sức khoẻ hoặc cải thiện sức
khoẻ của ngời tham gia bảo hiểm. Còn ở Việt Nam, BHYT đợc định nghĩa:
Là loại hình bảo hiểm do Nhà nớc tổ chức, quản lý nhằm huy động sự đóng
góp của cá nhân, tập thể và cộng đồng xã hội để chăm lo sức khoẻ, khám
bệnh và chữa bệnh cho nhân dân (Trích Từ điển Bách khoa Việt Nam 1,
xuất bản 1995, trang 151).
Tuy mỗi nớc đa ra một khái niệm khác nhau về BHYT nhng chung quy
lại, BHYT là một loại hình bảo hiểm mang tính cộng đồng, san sẻ rủi ro giữa
4
những ngời tham gia bảo hiểm trớc các rủi ro liên quan đến sức khoẻ của con
ngời, là một công cụ phúc lợi xã hội.
2. Sự cần thiết của BHYT :
Trong thực tế, con ngời ai cũng mong muốn có đợc cuộc sống khoẻ
mạnh, ấm no, hạnh phúc. Tuy nhiên không phải lúc nào con ngời cũng gặp
điều kiện thuận lợi, có đầy đủ thu nhập và một cuộc sống bình thờng mà trái
lại, có thể có rất nhiều khó khăn và bất lợi phát sinh: ốm đau, tai nạn lao
động,... Khi đó nhu cầu cần thiết cho cuộc sống không mất đi mà ngợc lại
còn tăng thêm: xuất hiện thêm nhu cầu cần đợc khám và điều trị khi ốm đau,
cần đợc nghỉ ngơi dỡng sức để phục hồi sức khoẻ, Với những ng ời giàu có,
khá giả thì chi phí cho những nhu cầu này không phải là vấn đề phức tạp nh-
ng đối với những ngời nghèo thì việc vay mợn để chữa trị bệnh tật là điều
không tránh khỏi vì bên cạnh chi phí khám chữa bệnh còn là sự tổn hại về thu
nhập do ngời bệnh không có sức khoẻ để làm việc, từ đó có thể đe doạ đến
cuộc sống của ngời lao động và các thành viên- những ngời ăn theo trong gia
đình.
Xã hội ngày càng phát triển, đời sống con ngời ngày càng đợc nâng cao,

do đó nhu cầu khám chữa bệnh, chăm sóc sức khoẻ ngày càng đợc quan tâm
hơn. Tuy nhiên song song với việc phát triển kinh tế, môi trờng sống, môi tr-
ờng làm việc cũng có nhiều biến đổi làm xuất hiện thêm nhiều bệnh mới
nguy hiểm, đe doạ cuộc sống con ngời. Trong khi đó chi phí khám chữa bệnh
cũng tăng lên do:
+ Việc sử dụng các trang thiết bị y tế hiện đại, đắt tiền trong việc chẩn
đoán, điều trị bệnh.
+ Do biến động của thị trờng: lạm phát, mức lơng tối thiểu tăng, làm
cho giá cả hàng hoá tăng, kéo theo thuốc men biệt dợc cũng tăng.
Chi phí khám chữa bệnh lớn, khả năng tài chính hạn hẹp, do đó cần huy
động các thành viên trong xã hội đóng góp nhằm giảm gánh nặng cho Ngân
5
sách nhà nớc và cũng để phục vụ cho chính bản thân mình khi gặp rủi ro về
sức khoẻ.
Xuất phát từ đòi hỏi của thực tế khách quan, BHYT ra đời là tất yếu và
ngày càng thể hiện vai trò của mình với cộng đồng.
3. Bản chất của BHYT:
Khi nền đại công nghiệp ra đời ở hầu hết các nớc châu Âu thì việc thuê
mớn lao động làm thuê đã ra đời và ngày càng trở nên phổ biến. Việc thuê m-
ớn này hình thành mối quan hệ chủ- tớ một cách tự nhiên. Mối quan hệ này
lúc đầu tơng đối suôn sẻ nhng dần dần phát sinh hàng loạt các mâu thuẫn:
vấn đề tiền công tiền lơng, vấn đề thời gian lao động,vấn đề rủi ro khi lao
động xảy ra tai nạn, ốm đau, lao động nữ sinh đẻ, Nhằm giải quyết mâu
thuẫn giữa ngời sử dụng lao động và ngời làm thuê trong việc bù đắp phần
thu nhập bị mất khi ngời lao động phải nghỉ việc do rủi ro, ốm đau, tai nạn,
buộc BHXH ra đời nh một tất yếu khách quan.
Theo công ớc 102 của Tổ chức lao động quốc tế (ILO) về các tiêu chuẩn
tối thiểu cho các loại trợ cấp BHXH ký kết tại Gieneve ngày 28/06/1952 hệ
thống các chế độ BHXH đợc kiến nghị thực hiện theo 9 chế độ:
1. Trợ cấp ốm đau

2. Chăm sóc y tế
3. Trợ cấp thất nghiệp
4. Trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp
5. Trợ cấp sinh đẻ
6. Trợ cấp gia đình
7. Trợ cấp tuổi già
8. Trợ cấp mất ngời nuôi dỡng
9. Trợ cấp khi tàn phế
6
Theo đó BHYT là một trong 9 nội dung của BHXH. Với lịch sử phát
triển hơn 100 năm trên thế giới và 15 năm ở Việt Nam có thể thấy rõ hơn bản
chất của BHYT.
Thứ nhất, sự ra đời của BHYT là một tất yếu khách quan
Xuất phát từ nhu cầu đợc chăm sóc sức khoẻ, từ mong muốn có đợc một
cuộc sống khoẻ mạnh, dịch vụ y tế đã ra đời và ngày càng đáp ứng tốt hơn
nhu cầu của ngời dân. BHYT là một nội dung của BHXH mà BHXH là một
trong những bộ phận quan trọng của hệ thống an sinh xã hội, vì thế thực hiện
BHYT là điều cần thiết. Cùng với hệ thống cứu trợ xã hội và u đãi xã hội,
BHXH nói chung và BHYT nói riêng thật sự trở thành nền móng vững chắc
cho sự ổn định xã hội.
Thứ hai, BHYT chính là sự đoàn kết cộng đồng, cùng nhau chia sẻ
những rủi ro liên quan đến sức khoẻ.
BHYT là nền tảng cho lĩnh vực bảo vệ và chăm sóc sức khoẻ, BHYT
điều tiết giữa ngời khỏe mạnh và ngời ốm yếu, giữa thanh niên với ngời già,
giữa ngời có thu nhập cao hơn và ngời có thu nhập thấp hơn. Sự đoàn kết lẫn
nhau trong BHYT dựa trên cơ sở của sự tơng trợ không điều kiện, của sự hợp
tác cùng chung lòng, chung sức và gắn kết chắt chẽ với nhau.
Thứ ba, BHYT hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận
Sự tơng trợ trong BHYT không chỉ là quyền đợc nhận mà còn là nghĩa
vụ đóng góp. Nghĩa vụ và quyền lợi luôn là hai nhân tố luôn cùng tồn tại và

đi song song với nhau nhng xuất phát từ nguyên tắc san sẻ rủi ro với ý tởng
nhân văn cao cả, BHYT đã loại trừ mục tiêu lợi nhuận thơng mại của cộng
đồng những ngời tham gia BHYT. Do vậy hoạt động BHYT không có khoản
thu lợi nhuận và đơng nhiên cũng không vì mục đích lợi nhuận.
4. Tác dụng:
7
Là một trong 9 chế độ của BHXH, bên cạnh tác dụng to lớn đối với đời
sống kinh tế-xã hội của BHXH nói chung, BHYT còn có một số tác dụng
riêng biệt sau:
Thứ nhất, BHYT góp phần khắc phục những thiếu hụt về tài chính đáp
ứng nhu cầu khám chữa bệnh khi ngời tham gia bảo hiểm gặp rủi ro ốm đau,
bệnh tật.
Bởi khả năng tài chính của mỗi gia đình đều có hạn mà chi phí khám
chữa bệnh lại lớn và không thể lờng trớc đợc, tham gia BHYT ngời bệnh sẽ
đợc BHYT thanh toán toàn bộ hoặc một phần chi phí dựa trên nguyên tắc san
sẻ rủi ro, giúp ngời bệnh vợt qua cơn hoạn nạn, sớm phục hồi sức khoẻ cũng
nh ổn định cuộc sống gia đình.
Thứ hai, BHYT góp phần giảm gánh nặng cho ngân sách nhà n-
ớc(NSNN)
Mỗi gia đình đều có khoản chi nhất định cho hệ thống y tế nhng do
NSNN đợc sử dụng cho nhiều mục đích khác nhau, do đó khoản chi này th-
ờng nhỏ và không đáp ứng hết đợc nhu cầu khám chữa bệnh của ngời dân.
Quỹ BHYT cũng nh BHXH đợc hình thành từ sự tham gia đóng góp của ngời
tham gia BHYT, từ sự hảo tâm của các cá nhân, tổ chức và sự bù thiếu của
NSNN trong trờng hợp cần thiết. Khi quỹ BHYT đợc hình thành, các khoản
chi phí khám chữa bệnh đợc quỹ BHYT gánh vác toàn bộ hoặc một phần, do
đó chi NSNN đợc giảm bớt.
Thứ ba, BHYT góp phần thực hiện công bằng xã hội
Con ngời khi sinh ra ai cũng có quyền đợc thoả mãn các nhu cầu ăn, ở,
đi lại, học hành, đợc chăm sóc sức khoẻ nh ng do điều kiện của mỗi ngời

khác nhau, năng lực, thể chất, trình độ khác nhau dẫn đến thu nhập khác
nhau, mức sống của mỗi ngời khác nhau. Đối với những ngời giàu có, khá
giả, việc thoả mãn các nhu cầu tối thiểu, đợc chăm sóc y tế là tơng đối đơn
giản, dễ dàng, nhng với những ngời nghèo khi thu nhập của họ dờng nh
8
không đủ đảm bảo cuộc sống thì việc khám chữa bệnh trở nên khó khăn hơn.
Tham gia BHYT tất cả mọi ngời dân bất kể giàu nghèo đều đợc khám chữa
bệnh, chăm sóc sức khoẻ tại các cơ sở y tế. Do đó cũng nh thuế, BHYT cũng
là một công cụ thực hiện công bằng xã hội.
Thứ t, BHYT giúp nâng cao tính cộng đồng và gắn bó các thành viên
trong xã hội.
Cũng nh các loại hình bảo hiểm khác, BHYT hoạt động dựa trên cơ sở
quy luật số lớn, là sự chia sẻ rủi ro giữa những ngời tham gia BHYT với
nhau, là sự hỗ trợ của nhiều ngời cho một số ít ngời. Nó thể hiện tính nhân
đạo và nhân văn cao cả.
Thứ năm, thực hiện BHYT chính là góp phần nâng cao chất lợng khám
chữa bệnh, đổi mới cơ chế quản lý y tế.
Giống nh các loại hình bảo hiểm khác, BHYT cũng có sự đảo ngợc chu
kỳ kinh doanh. Phí BHYT đợc thu trớc để hình thành nên quỹ tài chính
BHYT sau đó sử dụng quỹ này để chi trả cho các khoản chi phí khám chữa
bệnh phát sinh trong năm. Nh vậy muốn tăng trởng quỹ, quỹ BHYT đợc phép
đầu t sinh lời nhng vấn phải đảm bảo an toàn theo quy định. Chính hoạt động
đầu t này đã bổ sung nguồn thu quỹ BHYT, tạo điều kiện cho cơ quan BHYT
thực hiện các công việc cần thiết để nâng cao chất lợng khám chữa bệnh.
Chính sự thay đổi này cũng là nhân tố làm đổi mới cơ chế quản lý y tế, giảm
bớt thủ tục hành chính phiền hà trong khám chữa bệnh đối với bệnh nhân có
thẻ BHYT, tránh tình trạng phân biệt đối xử giữa các bệnh nhân.
Thứ sáu, đề phòng hạn chế bệnh hiểm nghèo
Một thói quen trong cách nghĩ và cách sống của ngời dân Việt Nam là
chờ phát bệnh rồi mới chữa bệnh, rất ít ngời có điều kiện để định kỳ đến

kiểm tra sức khoẻ, xem xét tình hình bệnh tật. Tham gia BHYT ngời dân có
thể định kỳ đợc hởng các chế độ chăm sóc sức khoẻ ban đầu, đợc kiểm tra
sức khoẻ định kỳ để sớm phát hiện bệnh tật, từ đó có thể chạy chữa kịp thời
9
mà không phải mất hoặc chỉ mất một phần chi phí. Do đó để hạn chế đợc các
loại bệnh hiểm nghèo, tránh để rơi vào tình trạng mãn tính hoặc kinh niên.
Thứ bảy, BHYT là công cụ phản ánh trình độ phát triển của mỗi nớc
Để đánh giá trình độ phát triển của một nớc, ngời ta sử dụng các chỉ tiêu
định lợng nh: tổng thu nhập quốc dân, tổng thu nhập quốc nội, và các chỉ
tiêu định tính khác nh các chỉ số về văn hoá, giáo dục, trong đó quan trọng
nhất là chỉ số phát triển con ngời (HDI). Việc xác định chỉ số này ngời ta dựa
vào các tiêu chí nh: thu nhập quốc dân bình quân đầu ngời, trình độ học vấn,
tuổi thọ bình quân, công tác đầu t cho giáo dục, tình hình thực hiện chơng
trình chăm sóc sức khỏe cho cộng đồng, Nh vậy thực hiện tốt chế độ
BHYT chính là tăng phúc lợi cho ngời dân, góp phần vào việc xây dựng một
xã hội phát triển toàn diện và bền vững.
5. Quỹ BHYT:
5.1 Nguồn hình thành quỹ BHYT:
Quỹ BHYT là một quỹ tài chính độc lập, có quy mô phụ thuộc vào số l-
ợng các thành viên đóng góp và mức độ đóng góp vào quỹ của các thành viên
đó. Nguồn hình thành nên quỹ BHYT gồm:
Các khoản đóng góp của ngời tham gia: đây là nguồn hình thành
chính của các quỹ bảo hiểm, bao gồm tỉ lệ phần trăm thu nhập đối
với ngời lao động, tỉ lệ phần trăm quỹ lơng của đơn vị đối với ngời
sử dụng lao động, phí BHYT đối với ngời tham gia BHYT tự
nguyện.
Nhà nớc tài trợ thông qua cấp phát của NSNN: khi quỹ BHYT mới ra
đời hoặc trong điều kiện đất nớc còn nghèo, ngời dân có thu nhập
thấp, không thể đóng bảo hiểm cao để đủ trang trải cho các chi phí
khám chữa bệnh. Đặc biệt trong trờng hợp quỹ BHYT mất cân đối

thu-chi thì nguồn cấp phát của NSNN là vô cùng quan trọng.
10
Lãi do hoạt động đầu t phần quỹ nhàn rỗi: do phí bảo hiểm của
khách hàng đợc thu trớc, việc chi trả thực hiện sau nên trong thời
gian nhàn rỗi, quỹ BHYT đợc phép đầu t. Tuy nhiên hoạt động đầu t
của quỹ phải đảm bảo nguyên tắc an toàn, thanh khoản, đầu t vì mục
đích phát triển xã hội và đảm bảo có lãi.
Việc ủng hộ từ thiện của tổ chức quốc tế, các tổ chức phi chính phủ
thông qua viện trợ không hoàn lại, hoặc các cá nhân.
Vốn tín dụng hoặc vốn đầu t: tuỳ thuộc vào các hợp đồng BHYT mà
có thể có những dịch vụ y tế gia tăng, ngoài nhiệm vụ chính của
BHYT có thể đợc phép thực hiện bằng nguồn vốn tín dụng hoặc
nguồn vốn của nhà đầu t đóng góp, ở Việt Nam các khoản vốn tín
dụng và vốn đầu t này bị hạn chế sử dụng.
Các nguồn khác: các khoản tiền d hàng năm, các khoản thu khác
5.2 Mục đích sử dụng quỹ:
Sau khi hình thành, quỹ BHYT đợc sử dụng nh sau:
Chi thanh toán chi phí y tế cho ngời đợc hởng BHYT: đây là khoản
chi thờng xuyên và lớn nhất của quỹ BHYT.
Chi dự trữ, dự phòng lao động lớn: khoản chi này thờng đợc tồn tích
lại trong thời gian dài nhằm đảm bảo quyền lợi cho ngời tham gia
BHYT.
Chi đề phòng hạn chế tổn thất: khoản này đợc chi ra với mục đích
làm giảm thiểu tổn thất đáng lẽ ra rất lớn nếu các rủi ro xảy ra.
Thanh toán chi trả trong BHYT: chi phí y tế đợc quyết định bởi số lợng
thuốc đợc kê đơn và giá cả của chúng. Các nhân tố này đều bị ảnh hởng bởi
phơng thức đợc chọn để thanh toán cho ngời cung cấp dịch vụ. Tuỳ theo điều
kiện kinh tế, xã hội của mỗi nớc là khác nhau mà có những phơng thức thanh
toán khác nhau đợc sử dụng. Hiện nay có nhiều phơng thức thanh toán nh:
11

Thanh toán theo phí dịch vụ: đây là phơng thức thanh toán khá phổ
biến trên thế giới và đang đợc thực hiện ở Việt Nam. Theo đó ngời
cung cấp dịch vụ đợc thanh toán phí cho mỗi hoạt động khám chữa
bệnh và sản phẩm họ đã cung cấp. Phơng thức thanh toán này
khuyến khích chất lợng dịch vụ y tế trong môi trờng có cạnh tranh
nhng nó tác động đến thái độ của các thầy thuốc rất mạnh theo hớng
tăng cờng chỉ định nhiều dịch vụ y tế, sử dụng nhiều thuốc không
phù hợp với chẩn đoán bệnh gây lãng phí.
Thanh toán theo khoán định suất: là phơng thức thanh toán qua đó
ngời cung cấp dịch vụ đợc nhận một khoản tiền cố định cho mỗi ng-
ời đăng ký khám chữa bệnh tại đó trong một thời gian nhất định mà
không tính đến số lợng dịch vụ y tế sẽ cung cấp. Phơng thức này
phát huy đợc vai trò tích cực của cơ sở khám chữa bệnh trong quản
lý, sử dụng hiệu quả, đảm bảo đợc quyền lợi của ngời tham gia
BHYT mà vẫn đảm bảo cân đối quỹ.
Thanh toán theo ca bệnh: là phơng thức thanh toán cho ngời cung
cấp dịch vụ căn cứ theo các chuẩn đoán điều trị bệnh. Đây là hình
thức đơn giản nhất bởi ngời cung cấp dịch vụ sẽ nhận đợc một số
tiền cố định mà không tính đến mức độ khó khăn của bệnh tật cũng
nh nguồn kinh phí đợc sử dụng để chữa trị bệnh cho bệnh nhân. Ph-
ơng thức thanh toán này đợc đánh giá là đảm bảo chất lợng dịch vụ y
tế và khống chế chi phí y tế nhng lại khó khăn trong việc xác định
bảng giá theo nhóm chuẩn đoán.
Thanh toán theo giá ngày giờng: là phơng thức thanh toán đợc sử
dụng để chi trả chi phí khám chữa bệnh cho bệnh nhân tính theo
ngày, chủ yếu để thanh toán cho điều trị nội trú tại bệnh viện và các
cơ sở y tế điều trị bệnh nhân dài ngày. Mức thanh toán đợc tính trên
cơ sở tổng chi phí của cơ sở y tế và tổng số ngày điều trị trong một
12
năm. Đây là phơng thức thanh toán có chi phí hành chính thấp, có

khả năng khống chế chi phí y tế và dễ quản lý.
Thanh toán tiền thởng: là phơng thức thanh toán đợc sử dụng để
khuyến khích ngời cung cấp dịch vụ thực hiện những mục tiêu xác
định, thờng liên quan đến chính sách quốc gia về y tế hoặc về lợi ích
kinh tế nhất định. Trong thực tế phơng thức này không đợc thực hiện
riêng lẻ mà đợc sử dụng để bổ sung cho các phơng thức khác.
Thanh toán theo tỉ tệ cố định: phơng thức này đợc thực hiện đối với
các hoạt động đầu t tài chính nhằm đảm bảo các chi phí mua sắm
máy móc thiết bị theo danh mục chi tiết thời gian nhất định. Mức
thanh toán đợc dựa trên chi phí mua trang thiết bị.
Thanh toán lơng: theo phơng thức này ngời cung cấp dịch vụ đợc trả
lơng hàng tháng không tính đến số bệnh nhân đợc chữa trị mà dựa
trên hợp đồng lao động giữa từng cá nhân và quỹ BHYT.
Thanh toán theo ngân sách: là phơng thức mà ngời cung cấp dịch vụ
y tế đợc chi trả tổng số tiền bao gồm tổng chi phí của các dịch vụ và
sản phẩm đợc cung cấp theo một thời gian nhất định, thờng là một
năm. Việc xác định ngân sách thờng dựa trên chi phí trớc đó hoặc
chi phí hiện tại của ngời cung cấp dịch vụ.
II. BHYT tự nguyện và kinh nghiệm của một số nớc trên thế giới:
1. BHYT tự nguyện:
BHYT tự nguyện là bớc quá độ, bớc tập duyệt cần thiết để tiến tới
BHYT toàn dân, là hình thức BHYT áp dụng cho những ngời có thu nhập
thấp, ngời không đủ điều kiện tham gia BHYT bắt buộc hoặc BHYT t nhân,
do ngời dân tự nguyện tham gia.
13
Bất kỳ một quốc gia nào khi mới triển khai BHYT hoặc cha thể triển
khai BHYT toàn dân hay BHYT cộng đồng thì đối tợng tham gia bắt buộc
chỉ chiếm một phần nào đó trong xã hội, phần còn lại sẽ không đủ điều kiện
tham gia BHYT. Để góp phần nâng cao công tác chăm sóc và bảo vệ sức
khoẻ, đảm bảo công bằng trong chăm sóc sức khoẻ của mọi tầng lớp dân c

trong xã hội thì việc triển khai BHYT là rất cần thiết.
Mặt khác NSNN cho y tế hàng năm là có hạn mà chi phí khám chữa
bệnh ngày càng cao, do vậy thực hiện BHYT tự nguyện sẽ là giải pháp hữu
hiệu cho toàn ngành y tế trong chăm sóc sực khoẻ nhân dân.
Khác với BHYT bắt buộc, BHYT tự nguyện có những đặc điểm sau:
Do hình thức tham gia là tự nguyện nên số lợng ngời tham gia là
nhỏ, không ổn định, dễ bị lựa chọn ngợc bởi chỉ có một số ít ngời có
nguy cơ bệnh tật cao, ngời già mới tham gia. Việc huy động đợc số
lợng đông đảo ngời tham gia, đặc biệt là những ngời khoẻ mạnh trẻ
tuổi là cực kỳ khó khăn. Các mô hình BHYT tự nguyện đợc thực
hiện thờng là thiếu bền vững, một phần do trong thời gian họ không
phát sinh nhu cầu khám chữa bệnh, từ đó không muốn tham gia tiếp
khi hết hạn hợp đồng hoặc do quỹ BHYT tự nguyện không đủ chi trả
cho nhu cầu khám chữa bệnh của một số ít ngời tham gia.
Hoạt động của BHYT tự nguyện do chính cộng đồng ngời tham gia
đảm nhiệm với nguyên tắc tài chính là phi lợi nhuận, do vậy mức
đóng BHYT tự nguyện không hoàn toàn phụ thuộc vào thu nhập của
ngời tham gia.
Việc vận động ngời dân tham gia luôn là thách thức với mọi cơ quan
thực hiện BHYT tự nguyện bởi nó chịu tác động của rất nhiều
nguyên nhân khách quan và chủ quan nh: nhận thức của ngời dân,
điều kiện kinh tế của từng cá nhân và của cả cộng đồng, nếp sống
14
Xuất phát từ tiêu chí đảm bảo quyền lợi cho ngời tham gia một cách
mềm dẻo và đồng thuận trong cộng đồng nên hình thức BHYT tự
nguyện rất phong phú và đa dạng ở mỗi quốc gia. Ngời ta không thể
áp đặt và sao chép nguyên bản mô hình ở nớc này cho nớc khác và
ngay trong một nớc cũng thờng không có sự giống nhau về mô hình
BHYT tự nguyện.
Tuỳ thuộc vào điều kiện kinh tế xã hội ở mỗi quốc gia mà lựa chọn cho

mình một cách riêng để tổ chức thực hiện bởi để thực hiện thành công không
phải là đơn giản. Theo các nhà nghiên cứu, để thực hiện BHYT tự nguyện
thành công cần có một số điều kiện:
Đơn giản về thủ tục, rõ ràng về quyền lợi, đơn giản về thanh toán chi
phí, tạo điều kiện cho ngời dân hiểu và tự nguyện tham gia.
Mức đóng phù hợp với khả năng tài chính của nhân dân.
Phải giúp cho ngời tham gia tiếp cận với dịch vụ y tế, thuận tiện, đỡ
tốn kém chi phí đi lại, thời gian chờ đợi.
Yếu tố tự quản, ngời tham gia BHYT nắm nguồn quỹ mà mình đã
đóng góp, ngời dân tham gia quản lý quỹ bằng các hình thức phù
hợp, ngời dân tự quyết định mức hởng và mức đóng trong từng giai
đoạn.
Trên thực tế quá trình thực hiện BHYT ở các nớc thì loại hình bảo hiểm
này đã bộc lộ một số u, nhợc điểm sau:
Ưu điểm: mặc dù mô hình khác nhau nhng BHTY tự nguyện đều
thống nhất ở lợi ích cộng đồng cho ngời tham gia:
Làm tăng khả năng tiếp cận dịch vụ y tế cho ngời có thu nhập thấp
và ngời lao động tự do.
Góp phần cải thiện công tác khám chữa bệnh, chăm sóc sức khoẻ
ban đầu tại cộng đồng.
15
Góp phần nâng cao sức khoẻ cộng đồng.
Thực hiện có hiệu quả công bằng trong khám chữa bệnh, nâng cao vị
thế của ngời nghèo trong xã hội.
Nhợc điểm: bên cạnh những u điểm đó, BHYT tự nguyện luôn gặp
phải một số hạn chế sau:
Mức đóng góp thờng thấp, số lợng ngời tham gia ít và không ổn
định.
Khả năng gánh vác rủi ro của quỹ thấp, rất ít quỹ BHYT tự nguyện
có khả năng cân đối thu-chi trong thời gian dài.

Năng lực quản lý hạn chế, quyền lợi có thể không đồng nhất nếu quỹ
hoạt động độc lập phân tán.
2. Kinh nghiệm của một số nớc trên thế giới trong việc thực hiện
BHYT tự nguyện:
BHYT toàn dân là một tiêu chí phấn đấu của mọi quốc gia trên thế giới,
nó đánh giá sự phát triển của xã hội trong mọi lĩnh vực kinh tế-xã hội và trình
độ dân trí của đất nớc, góp phần thực hiện mục tiêu tuyên ngôn Alma-Ata
1978 của thế giới: đợc hởng các dịch vụ y tế cơ bản là một trong các quyền
lợi cơ bản của con ngời.
Các mô hình BHYT xuất hiện trớc hàng thế kỷ nay là vào thế kỷ 18, 19
tại CHLB Đức, Pháp, Mỹ và đến nay tại các n ớc trong khu vực châu á nh:
Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc cũng đang phát triển BHYT theo nhiều
hớng.
2.1. BHYT ở CHLB Đức:
Là quốc gia có Luật BHYT xã hội đợc ban hành đầu tiên trên thế giới
(1883), BHYT ở CHLB Đức tơng đối hoàn thiện và đã đạt đợc tiêu chí BHYT
toàn dân trên cơ sở hoạt động BHYT theo luật định. Theo đó tất cả mọi ngời
16

×