Tải bản đầy đủ (.docx) (45 trang)

THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG TĂNG TRƯỞNG DỆT MAY VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2001-2005

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (437.53 KB, 45 trang )

THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG TĂNG TRƯỞNG DỆT MAY
VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2001-2005
I. BỐI CẢNH KHÁCH QUAN TÁC ĐỘNG TỚI NGÀNH DỆT MAY VIỆT
NAM
1. Tình hình trong nước
Công nghiệp DMVN ra đời tương đối muộn so với các nước công nghiệp
phát triển trên thế giới. Mặc dù từ rất xa xưa Việt Nam đã có những làng nghề,
vùng nghề dệt may song mới chỉ dừng lại ở trình độ sản xuất thủ công, hoạt
động nhỏ lẻ manh mún, mang tính tự cấp tự túc là chính.
Sau khi hoà bình được lặp lại ở miền Bắc năm 1954, Đảng và Nhà nước đã
quan tâm phát triển công nghiệp DM. Vì vậy ngành DM đã nhanh chóng mở
rộng lực lượng sản xuất nhằm cung ứng đủ vải mặc và các nhu cầu khác cho
nhân dân và các lực lượng vũ trang. Sau khi thống nhất đất nước, ngành DMVN
đã tiếp quản toàn bộ các nhà máy, xí nghiệp Dệt – May phía Nam và tiếp tục
xây dựng nhiều nhà máy lớn trên phạm vi cả nước. Cùng với sự phát triển của
các ngành công nghiệp trong cả nước, công nghiệp DMVN đã phát triển nhanh
chóng cả về số lượng lẫn năng lực sản xuất.
Để thực hiện chức năng làm đầu mối quản lý nhà nước theo ngành chuyên
môn hoá, cơ quan được Nhà nước giao nhiệm vụ đối với ngành dệt là Tổng
công ty dệt Việt Nam, đối với ngành may là Liên hiệp sản xuất nhập khẩu may.
Tổng công ty dệt Việt Nam (TEXTIMEX) được thành lập theo quyết định số
149-Cnn/TCLĐ ngày 4/3/1993 của Bộ trưởng Bộ Công nghiệp nhẹ (nay là Bộ
Công nghiệp) về việc chuyển đổi tổ chức và hoạt động của Liên hiệp sản xuất
và xuất nhập khẩu dệt thành công ty dệt Việt Nam. Liên hiệp sản xuất xuất nhập
khẩu may (CONFECTIMEX) được thành lập theo quyết định số 518-
Cnn/TCLĐ ngày 29/12/1989 của Bộ trưởng Bộ Công nghiệp nhẹ (nay là Bộ
Công nghiệp) về việc thành lập Liên hiệp sản xuất - Xuất nhập khẩu may trực
thuộc Bộ Công nghiệp nhẹ.
Đầu những năm 90, Liên Xô và các một loạt các nước xã hội chủ nghĩa tan
rã khiến ngành dệt may nước ta gặp nhiều khó khăn bởi những nước này là đối
tác kinh doanh truyền thống cũng như là nguồn giúp đỡ về kỹ thuật và vốn cho


DMVN. Tuy qui mô công suất thiết bị đã tăng lên nhanh chóng trong thời kỳ kế
hoạch hoá nhưng chỉ mới làm ra được những sản phẩm trung bình và thấp nên
khi chuyển qua cơ chế thị trường phải cạnh tranh khốc liệt, ngành DMVN đứng
trước vô vàn những khó khăn.
Từ năm 1991 cho đến nay, ngành DMVN đã có những thay đổi căn bản từ
nhận thức đến hoạt động thực tiễn, từ thiết bị công nghệ đến sản phẩm. Từ chỗ
chỉ lo sản xuất phục vụ nhu cầu tiêu dùng của nhân dân trong nước và thực hiện
một phần theo nghị định thư với Liên Xô cũ và các nước xã hội chủ nghĩa Đông
Âu; đầu vào và đầu ra do Nhà nước quyết định nhưng sau khi chuyển sang cơ
chế thị trường các doanh nghiệp phải làm từ việc chọn mua nguyên vật liệu, tổ
chức sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, tự định đoạt giá mua, giá bán…Bước sang
thế kỷ 21, đứng trước yêu cầu phải đổi mới thiết bị công nghệ, nâng cao chất
lượng sản phẩm, từng bước mở rộng thị trường tiêu thụ trong và ngoài nước,
phải đổi mới cơ cấu tổ chức, sắp xếp lại theo hướng liên kết các đơn vị trong
ngành nhằm tạo sức mạnh tổng hợp để tạo ra thế và lực trong cạnh tranh và phát
triển, Chính phủ quyết định thành lập Tổng công ty Dệt – May Việt Nam. Tổng
công ty có tên giao dịch là Việt Nam National TEXTILE and GAMENT
Coporation (VINATEX). Tổng công ty Dệt May Việt Nam là một trong số các
Tổng công ty Nhà nước có mô hình tổ chức và hoạt động theo quyết định số
91/TTG ngày 7/3/1994 của Thủ tướng Chính phủ. Tổng công ty Dệt May Việt
Nam được thành lập với mục đích tăng cường tích tụ, tập trung, phân công
chuyên môn hoá và hợp tác sản xuất để thực hiện nhiệm vụ Nhà nước giao;
nâng cao khả năng và hiệu quả kinh doanh của các đơn vị thành viên và của
toàn Tổng công ty; đáp ứng nhu cầu thị trường.
Ngày 8/12/2005, Tổng công ty DMVN đã tổ chức lễ công bố Quyết định của Thủ tướng
Chính phủ về việc thành lập Tập đoàn Dệt may Việt Nam (VINATEX). Với Quyết định này, từ
một tổng công ty có trên 60 đơn vị thành viên và công ty liên kết, VINATEX trở thành một tập
đoàn có trên 10 công ty mẹ-con, công ty 100% vốn nhà nước, công ty TNHHNN một thành
viên và công ty cổ phần. Mục tiêu của Tập đoàn Dệt May Việt Nam là trở thành một tập đoàn
đa sở hữu hàng đầu cả về quy mô sản xuất kinh doanh lẫn sức cạnh tranh sản phẩm trong khu

vực châu Á với kim ngạch xuất khẩu đạt 2,5 tỷ vào năm 2010 và 3,5 tỷ vào năm 2015. Việc
Chính phủ ra quyết định thành lập Tập đoàn Dệt May thể hiện tính quy mô của
tập đoàn và tạo cơ sở pháp lý vững chắc để VINATEX hoạt động, tăng cường
sức mạnh liên kết trong toàn hệ thống và phát huy vai trò nòng cốt hạt nhân vào
sự phát triển của toàn ngành.
2. Tình hình hội nhập kinh tế quốc tế trong ngành công nghiệp DMVN
a. Hội nhập AFTA
Từ ngày 1 tháng 1 năm 2000 tiến trình hội nhập AFTA của hàng Dệt May
Việt Nam đã bắt đầu thực hiện, mức thuế thu nhập cho sợi còn 15%, vải còn
30% và may mặc còn 35%. Đến ngày 1 tháng 1 năm 2006, với việc Việt Nam
tham gia hoàn toàn vào tổ chức AFTA, sẽ cắt bỏ hoàn toàn hàng rào thuế quan
đối với hàng Dệt May nhập khẩu vào Việt Nam, mức bảo hộ hàng Dệt May Việt
Nam sẽ dần giảm xuống còn bằng không. Như vậy hàng Dệt May Việt Nam sẽ
bị cạnh tranh gay gắt ngay tại thị trường nội địa.¬
Bảng 1: Lộ trình giảm thuế hàng Dệt May Việt Nam
Đơn vị %
Hàng hoá 2001 2002 2003 2004 2005 2006
Tơ sống (chưa xe) 5 5 5 5 5 5
Vải dệt thoi từ tơ 20 20 20 15 10 5
Lông cừu 0 0 0 0 0 0
Sợi tư lông cừu 15 10 10 5 5 5
Bông 0 0 0 0 0 0
Sợi bông (>85%) 10 10 5 5 5 5
Vải dệt thoi từ bông 40 40 20 15 10 5
Sợi lanh 3 3 3 3 3 3
Sợi đay 10 10 5 5 5 5
Sợi phi la măng 20 20 20 15 10 5
Vải dệt thoi từ sợi philamang 40 40 20 15 10 5
Xơ staple nhân tạo 0 0 0 0 0 0
Vải dệt thoi từ xơ tổng hợp 40 40 20 15 10 5

Vải dệt kim các loại 40 40 20 15 10 5
Hàng may mặc sẵn 35 20 20 20 10 5
Nguồn: Viện Chiến lược, chính sách công nghiệp - Bộ Công nghiệp
b. Hiệp định thương mại Việt - Mỹ
Hiệp định thương mại Việt - Mỹ được ký kết đã tạo cơ hội cho Việt Nam
trong việc đẩy mạnh xuất khẩu sang thị trường Mỹ, đồng thời cũng tạo điều
kiện cho các nhà đầu tư Mỹ hoạt động trên thị trường Việt Nam tiếp cận tới
nguồn đầu tư của Mỹ, như nguồn vốn EXIM Bank, để mở rộng đầu tư…Mặt
khác, các tổ chức hỗ trợ của Mỹ cũng sẽ có điều kiện đẩy mạnh các hoạt động
của mình trên lãnh thổ Việt Nam trong việc hỗ trợ sản xuất – kinh doanh.
Tuy vậy, bên cạnh cơ hội, thuận lợi vẫn có những thách thức. Cơ hội là như
nhau đối với tất cả các nước, các công ty đã có hiệp định thương mại với Mỹ
đang hoạt động trên thị trường Mỹ. Như vậy, các doanh nghiệp Việt Nam cũng
sẽ hoạt động trên cùng một mặt bằng với các doanh nghiệp khác ở thị trường
này. Điều này có nghĩa là việc tăng cường khả năng cạnh tranh của các doanh
nghiệp, sẽ có ý nghĩa quyết định trong việc tận dụng các cơ hội Hiệp định song
phương Viêt - Mỹ tạo ra.
c. Hội nhập Tổ chức Thương mại quốc tế WTO
WTO là một tổ chức thương mại lớn nhất toàn cầu, chiếm hơn 90% thương
mại thế giới. Hoạt động của tổ chức này được điều tiết bởi 16 hiệp định chính.
Hiệp định về thương mại hàng dệt – may là một trong 16 hiệp định chính đó.
Tham gia vào WTO là cơ hội lớn để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của tất cả các
nước, trong đó có Việt Nam. Việt Nam nộp đơn xin gia nhập WTO từ năm
1995, đến nay Việt Nam đang tiến hành những vòng đàm phán cuối cùng để
sớm được gia nhập WTO.
Gia nhập WTO là cơ hội lớn cho công nghiệp dệt may của tất cả các nước
trên thế giới. Theo hiệp định ATC (WTO), các nước phát triển như Mỹ, Canada,
Tây Âu…sẽ bỏ dần hạn ngạch nhập khẩu hàng dệt may từ các nước thành viên
WTO. Bước sang năm 2005, chế độ hạn ngạch đã được dỡ bỏ đối với các nước
là thành viên WTO, trong đó có các cường quốc về hàng dệt may như Trung

Quốc, Ấn Độ, Pakistan… Trong khi đó Việt Nam chưa là thành viên của WTO
nên chưa thể tự do xuất khẩu hàng dệt may vào thị trường Mỹ mà phải chịu cơ
chế hạn ngạch. Một nghiên cứu của Hội đồng quốc gia của Hiệp hội dệt may
Mỹ (NCTO) cho thấy một thực tế là thị phần dệt may của Trung Quốc ở Mỹ
năm 2001 chỉ chiếm 9%, nhưng ngay sau khi hạn ngạch đối với 29 hạng mục
sản phẩm được dỡ bỏ khi quốc gia này gia nhập WTO, con số này đã lên tới
65% vào tháng 3/2004. Đây sẽ là một thách thức vô cùng lớn đối với ngành
công nghiệp DMVN.
II. TỔNG QUAN PHÁT TRIỂN NGÀNH CÔNG NGHIỆP DỆT MAY VIỆT
NAM GIAI ĐOẠN 2001 - 2005
Trong giai đoạn 1999 – 2005, ngành Dệt May Việt Nam đã có những bước
phát triển đáng kể.
Bảng 2: Chỉ tiêu tăng trưởng ngành Dệt May từ 1997 – 2004
Đơn vị: tỷ đồng (Giá so sánh năm 1994)
Chỉ tiêu 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004
GDP
Tăng trưởng GDP
(%)
231.264
8,15
244.596
5,76
256.272
4,77
273.666
6,79
292.535
6,89
313.247
7,18

336.242
7,34
362.092
7.69
Giá trị SXCN
Tăng trưởng
GTSXCN (%)
134.420
13,82
151.223
12,5
168.749
11,59
198.326
17,53
227.342
14,63
261.092
14,85
305.080
16,85
354.030
16,04
CN chế biến
Tăng trưởng
CNCB (%)
107.662
13,58
120.666
12,08

133.702
10,80
158.098
18,25
183.542
16,09
213.697
16,43
252.886
18,34
293.619
16,11
Ngành Dệt May
Tăng trưởng dệt
may (%)
11.587
18,55
13.033
12,48
13.606
4,40
16.089
18,25
17.503
8,79
20.520
17,24
24.680
20,27
29.124

18,01
Tỷ trọng (%):
Dệt may/
GDP
Dệt may/
GTSXCN
Dệt may/
CN chế biến
5,01
8,62
10,76
5,33
8,62
10,80
5,31
8,06
10,18
5,88
8,11
10,18
5,98
7,70
9,54
6,55
7,86
9,60
7,34
8,09
9,76
8,04

8,23
9,92
Nguồn Tổng cục Thống kê, Niên giám thống kê 2004

Về qui mô, Dệt May Việt Nam đang có những bước phát triển lớn. Trong
giai đoạn 7 năm từ 1997 – 2004, giá trị sản xuất của ngành Dệt May đã tăng lên
gần gấp 3 lần, từ 11.587 tỷ đồng lên đến 29.124 tỷ đồng. Tỷ trọng giá trị sản
xuất của ngành trong GDP cũng như trong tổng giá trị sản xuất công nghiệp liên
tục tăng trong 5 năm gần đây khẳng định vị trí ngày càng quan trọng của ngành
Dệt May trong nền kinh tế. Năng lực sản xuất các sản phẩm chủ yếu cũng tăng
đáng kể, đặc biệt trong ngành may mặc với sản phẩm quần áo dệt kim và quần
áo may sẵn.
Bảng 3: Sản lượng các sản phẩm chủ yếu ngành Dệt May Việt Nam
¬
Tên sản phẩm 2000 2001 2002 2003 2004 2005
Vải lụa
(triệu mét)
356 410 470 487 480 499
Quần áo dệt kim
(triệu sp)
46 53 51 72 122 128
Quần áo may sẵn
(triệu sp)
337 376 489 619 894 1.026
Nguồn Thời báo Kinh tế Việt Nam
Tuy nhiên nếu so sánh với công nghiệp Dệt May của nhiều nước trên thế giới,
quy mô của ngành DMVN còn quá nhỏ bé.
Bảng 4: So sánh quy mô ngành DMVN với các nước trong khu vực
Tên nước Sản lượng sợi
(1000 tấn)

Sản lượng vải lụa
(tr.m2)
Sản phẩm may
(tr.sp)
Kim ngạch xuất khẩu
(tr.USD)
Trung Quốc 5.300 21.000 10.000 50.000
Ấn Độ 2.100 23.000 - 12.500
Bangladesh 200 1.800 - 4.000
Thái Lan 1.000 4.200 2.500 6.500
Indonesia 1.800 4.400 3.000 8.000
Việt Nam 85 499 1.026 4.806
Nguồn: Tổng công ty Dệt – May Việt Nam
Bảng bên cho thấy quy mô sản lượng sợi cũng như sản lượng vải lụa của
DMVN thấp hơn cả, chỉ bằng 1/3 so với sản lượng của Băngladesh, nước có
quy mô sản lượng ngay trên Việt Nam trong bảng so sánh trên. Còn so với
Trung Quốc, đối thủ cạnh tranh của Việt Nam thì còn khiêm tốn hơn, chỉ bằng
1/60 về sản lượng sợi và 1/40 về sản lượng vải lụa.
Về tốc độ tăng trưởng, toàn ngành dệt may có mức tăng trưởng khá với tốc
độ tăng trưởng bình quân là 14%/ năm. Trong hơn 3 năm trở lại đây, từ năm
2002 DMVN luôn tăng trưởng với tốc độ hai con số và cao hơn tốc độ tăng
trưởng chung của ngành công nghiệp.
Về kim ngạch xuất khẩu, tổng kim ngạch xuất khẩu ngành dệt may tăng hơn
ba lần so với năm 1998 và luôn giữ vị trí thứ hai (sau dầu khí).Chỉ tính riêng tập
đoàn Dệt May Việt Nam năm 2005 đã đạt tổng giá trị xuất khẩu 1,05 tỷ USD. Ở
Trung Quốc có hơn 200 nhà xuất khẩu thì chỉ có 5 nhà sản xuất đạt trên 1 tỷ
USD. Tập đoàn Dệt May lớn nhất của Mỹ cũng chỉ có doanh thu trên 1 tỷ USD.
Bảng 5 : Kim ngạch xuất khẩu của Dệt May Việt Nam giai đoạn 1997 đến 2004
Đơn vị: triệu USD
Chỉ tiêu 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005

KNXK
cả nước
Tăng trưởng (%)
9.185
26,59
9.360
1,91
11.541
23,3
14.483
25,48
15.029
3,77
16.706
11,16
20.149
20,61
26.504
31,54
32.233
21,62
KNXK
dệt may
Tăng trưởng (%)
1.349
17,3
1.351
0,15
1.747
29,3

1.892
8,29
1.975
4,41
2.732
38,3
3.609
32,1
4.386
21,5
4.806
9,57
Tỷ trọng XK DM/cả
nước (%) 14,69 14,43 15,14 13,06 13,14 16,35 17,91 16,55 14,91
Nguồn : Tổng cục thống kê, Hiệp hội dệt may Việt Nam
Có thể thấy tốc độ tăng trưởng KNXK của DMVN từ 2001-2005 có dấu
hiệu giảm mặc dù vẫn có tốc độ cao. Điều này có thể hiểu là do ảnh hưởng của
việc Trung Quốc gia nhập WTO nên xuất khẩu của Việt Nam cũng có nhiều ảnh
hưởng.
Hiện nay ngành Dệt May nước ta đứng thứ 16 trong 153 nước sản xuất và
xuất khẩu dệt may trên thế giới. Theo báo cáo “Đánh giá tiềm năng xuất khẩu
của Việt Nam” qua nghiên cứu 40 ngành hàng của Trung tâm thương mại thế
giới UNCTAD/WTO(ITC) và Cục xúc tiến thương mại (Bộ Thương mại) cho
thấy: Dệt May vẫn là một trong những ngành có tiềm năng xuất khẩu cao và sẽ
vẫn giữ vững vai trò này trong 10 năm tới. Thông qua xuất khẩu, Việt Nam đang
hội nhập nền kinh tế thế giới và kinh tế khu vực, đồng thời tăng cường tích luỹ
tư bản và ngoại tệ cho quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hoá kinh tế đất nươc.
Việt Nam có rất nhiều cơ hội để đạt được mục tiêu đứng vào TOP 10 Thế giới
vào năm 2010 với doanh thu xuất khẩu đạt 10 tỷ USD, gấp 5 lần hiện nay.
Tuy nhiên có thể thấy quy mô xuất khẩu 4,8 tỷ USD của dệt may Việt Nam

còn rất nhỏ bé so với quy mô xuất khẩu lên đến 40 tỷ USD của Trung Quốc và
càng nhỏ bé so với nhu cầu nhập khẩu lên đến 70 tỷ USD của Mỹ.
III. THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG TĂNG TRƯỞNG NGÀNH DỆT
MAY VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2001 - 2005
1. Chi phí trung gian
Trong ngành công nghiệp dệt may, chi phí trung gian bao gồm rất nhiều loại:
chi phí về nguyên liệu - phụ liệu, chi phí về dịch vụ (cơ sở hạ tầng, chi phí vận
chuyển, công đoàn phí, chi phí cho hoạt động Marketing) và một loại chi phí
đặc biệt là chi phí cho hạn ngạch…
a. Chi phí nguyên liệu và phụ liệu
Trong sản xuất Dệt May, nguyên liệu đóng vai trò quan trọng và có ảnh
hưởng quyết định tới chất lượng sản phẩm và hiệu quả sản xuất. Nguyên liệu
cho Dệt May gồm các loại xơ bông thiên nhiên, xơ visco, xơ PE, lông cừu, tơ
tằm v.v…, các loại hoá chất cơ bản và thuốc nhuộm. Hầu hết các nguyên, vật
liệu này đều thuộc vào nhập khẩu, kể cả vải cho may xuất khẩu và tiêu dùng
trong nước. Từ năm 1997 trở lại đây, trung bình mỗi năm cả nước nhập khẩu
hơn 90% nguyên liệu bông xơ, nhập khẩu 100% xơ sợi tổng hợp, thuốc nhuộm
và chất trợ. Trong số đó, hai nguyên liệu chính mà ngành Dệt May sử dụng là
Bông và Sợi.
Bông
Mặc dù có nhiều điều kiện thuận lợi cho việc mở rộng diện tích trồng bông,
cung cấp nguyên liệu cho ngành Dệt May nhưng đến nay phần lớn nguyên liệu
trong ngành Dệt May đều phải nhập khẩu. Việt Nam được coi là một nước có
tiềm năng rất lớn về sản xuất bông, nhưng trên thực tế chúng ta lại chưa phát
huy được thế mạnh này.
Bảng 6: Tình hình sản xuất và nhập khẩu bông xơ của Việt Nam
Đơn vị: Tấn
Năm Sản xuất Nhập khẩu
1998 2.000 67.880
1999 4.500 77.388

2000 6.000 83.880
2001 9.000 120.000
2002 12.500 104.000
Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư
Có thể thấy được lượng bông xơ nhập khẩu hàng năm của Việt Nam là khá
lớn. Số lượng bông xơ sản xuất được trong nước chỉ đáp ứng được 7-10% nhu
cầu về bông xơ ngành dệt. Việt Nam có tiềm năng sản xuất hai loại nguyên liệu
bông xơ và tơ tằm nhưng số lượng ít, sản xuất chưa đáp ứng được nhu cầu; chất
lượng nguyên liệu chưa ổn định, giá thành lại cao (giá 1 tấn bông xơ sản xuất tại
Việt Nam khoảng 1.180 USD, trong khi giá bông thế giới hiện nay < 1.000
USD), nên hàng năm ngành Dệt Việt Nam phải nhập hơn 90% nguyên liệu bông
xơ, 100% xơ sợi tổng hợp và thuốc nhuộm, chất trợ dệt. Từ đầu năm 2001,
Chính phủ đã đặt ra mục tiêu nâng diện tích trồng bông từ 33.000 ha hiện nay
lên 60.000 ha vào năm 2005 và 120.000 ha vào năm 2010, nhằm đưa sản lượng
bông xơ lên 30.000 tấn vào năm 2010. Chính phủ đã chỉ đạo quy hoạch các
vùng trồng bông, cũng như ban hành một số chính sách hỗ trợ cho ngành trồng
bông như: hỗ trợ vốn dự trữ hạt bông, ưu tiên vốn tín dụng đầu tư, hỗ trợ công
tác nghiên cứu khoa học công nghệ, thành lập Quỹ hỗ trợ giá bông... Tuy nhiên,
các chính sách trên dường như chưa đủ mạnh để tác động cho ngành trồng bông
phát triển như mong muốn. Mùa vụ 2003, do bị hạn hán và bị tranh chấp bởi
một số cây trồng khác, nên diện tích trồng bông tại Tây Nguyên (vùng trồng
bông chủ lực hiện nay) bị giảm đến gần 20%. Nhờ năng suất tăng nên sản lượng
bông xơ không giảm so với vụ trước, tuy nhiên, sản lượng không đạt mức kế
hoạch đề ra là 15.000 tấn. Việc không tăng được sản lượng trong lúc giá bông
thế giới đang lên là một điều đáng tiếc. Đối với vải, năm 2003 vừa qua, sản
lượng vải toàn quốc chỉ đạt trên 500 triệu m
2
, trong khi năng lực sản xuất là 600
triệu m
2

, còn quá xa so với chỉ tiêu 800 triệu m
2
của năm 2005.
Sợi và các sản phẩm của công nghiệp hoá dầu cho ngành may .
Việc sản xuất và cung cấp sợi cũng gặp nhiều khó khăn. Tổng sản lượng sợi
của Tổng Công ty Dệt May Việt Nam hiện nay là 90.000 tấn /năm, trong đó có
22% sợi bông chải kỹ; 40% sợi bông chải thô và OE, 36% sợi PE/Co và 2% các
loại sợi khác. Nguồn sợi này chưa đáp ứng cho sản xuất, phải nhập ngoại. Đến
năm 2009 khi nhà máy lọc dầu Dung Quất ra đời thì sản phẩm polypropylen của
nhà máy chỉ đáp ứng được 20% tổng nhu cầu của cả nước, còn toàn bộ các xơ
sợi khác đều vẫn phải nhập khẩu. Dự kiến khi Liên hợp lọc hoá dầu Nghi Sơn ra
đời và sản xuất 100% công suất thì cũng chỉ đáp ứng một phần nhu cầu tiêu thụ
các loại xơ sợi trong nước, còn khoảng gần 50% tổng sản phẩm vẫn phải nhập
khẩu.
Ngành dệt may sử dụng một lượng khá lớn sản phẩm hoá dầu như xơ, sợi
tổng hợp, hoá chất,thuốc nhuộm, nhiên liệu xăng dầu cho lò hơi, vận tải và một
số công đoạn…Cho đến nay, tất cả các sản phẩm lọc dầu tiêu thụ trong nước
đều phải nhập khẩu. Hiện nay chúng ta đang triển khai xây dựng nhà máy lọc
dầu Dung Quất công suất 6,5 triệu tấn/năm và chuẩn bị xây dựng nhà máy lọc
dầu số 2 tại Nghi Sơn Thanh Hoá công suất 6,5 – 7 triệu tấn/năm. Nhà máy lọc
dầu Dung Quất dự kiến sẽ đi vào hoạt động vào năm 2009 và nhà máy lọc dầu
Nghi Sơn dự kiến triển khai xây dựng trước năm 2010.
Tỷ trọng giá trị của nguyên liệu nhập khẩu trong tổng giá trị sản phẩm quá
lớn biến ngành công nghiệp DMVN trở thành nơi gia công sản phẩm trước khi
xuất khẩu ra thị trường thế giới. Trong tổng số sản phẩm mà Việt Nam sản xuất
ra thì có đến hơn 70% là hàng được thực hiện theo phương thức gia công. Theo
phương thức này, các hãng nước ngoài đặt gia công sẽ cung cấp mẫu mã sản
phẩm và các nguyên phụ liệu chủ yếu; các doanh nghiệp Việt Nam sử dụng lao
động và cơ sở vật chất của mình, tổ chức quá trình sản xuất theo yêu cầu của
bên đặt hàng và nhận số tiền theo đơn giá và sản lượng đã nghiệm thu. Phương

thức này phù hợp với điều kiện năng lực kỹ thuật, vốn và tiếp cận thị trường
nước ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam còn nhiều hạn chế. Tuy độ rủi ro
trong sản xuất – kinh doanh thấp, nhưng hiệu quả kinh tế mà các doanh nghiệp
Việt Nam thu được cũng thấp kém vì các doanh nghiệp chủ yếu xuất khẩu “sức
lao động”. Chênh lệch giữa xuất khẩu và nhập khẩu của ngành dệt may rất nhỏ.
Nguyên phụ liệu khác
Các thiết bị, công nghệ và nguyên vật liệu phụ trợ cho ngành Dệt May bao gồm công nghệ kéo sợi và dệt
vải; công nghệ nhuộm, in hoa và hoàn tất; công nghệ may mặc và thời trang.
Một thực tế là ngành Dệt May Việt Nam phải nhập khẩu hầu hết các máy móc, thiết bị, phụ tùng, hoá chất,
thuốc nhuộm…Nhu cầu và tình hình cung cấp nguyên phụ liệu cho ngành dệt may năm 2004 được trình bày
trong bảng sau đây:
Bảng 7: Nhu cầu và tình hình cung cấp nguyên phụ liệu
cho ngành dệt may năm 2004
Mặt hàng Đơn vị Sản xuất Nhập khẩu Sử dụng Tỷ lệ nhập khẩu
1. Bông 1000 tấn 10,4 136 146,4 93%
2.Xơ sợi tổng hợp 1000 tấn 0 126 126 100%
3.Sợi dệt 1000 tấn 239 216 455 47,5%
4.Vải Tr.m2 518 1.152 2.130 71%
5.Chỉ may 1000 tấn 3,5 1,5 5,0 30%
6.Khoá kéo Tr.m 60 140 200 70%
7.Mex dựng Tr.m2 25 40 65 61%
Nguồn Vinatex và Niên giám thống kê 2004
Có thế thấy, ngoài sợi dệt và chỉ may, còn lại hầu hết các nguyên phụ liệu
khác Việt Nam phải nhập đến 70%, đặc biệt là một số nguyên liệu chính như
bông, xơ sợi tổng hợp phải nhập khẩu từ 90 đến 100%.
Ngành cơ khí chế tạo phụ tùng, chi tiết cho ngành dệt cũng như các ngành
cung ứng các phụ tùng chi tiết phi kim loại cho dệt may hiện chưa phát triển,
hầu hết phụ tùng chi tiết của máy móc thiết bị cũng như các nguyên phụ liệu
may hàng xuất khẩu phải nhập khẩu. Hàng may mặc thường phải xuất khẩu qua
nước thứ ba nên hầu hết nguyên liệu, phụ tùng được đều được khách đặt hàng

cung cấp.
Toàn bộ số thuôc nhuộm hiện đang sử dụng đều phải nhập khẩu; Tỷ lệ chất
trợ và hoá chất cơ bản trong nước sản xuất cung cấp cho ngành dệt chiếm từ 5-
15% nhưng hầu hết là những sản phẩm có giá trị thấp, mặc dù về số lượng nhiều
nhưng giá trị chỉ đạt 4,55% tổng nhu cầu của ngành dệt.
Hiện tại ngành may công nghiệp nước ta phát triển chủ yếu dưới hình thức
sản xuất gia công do Việt Nam chưa chủ động nguồn nguyên liệu chính. Ngành
công nghiệp thời trang còn quá yếu, đặc biệt là các ngành sản xuất phụ liệu còn
quá nhỏ bé, chưa đáp ứng kịp với sự phát triển tăng tốc về năng lực sản xuất của
ngành may và biến động thị trường. Khi ngành may phát triển sang thị trường
Mỹ, gặp các đơn hàng lớn, khách mua trực tiếp, thời gian giao hàng yêu cầu
nhanh và đúng thời vụ là các doanh nghiệp sản xuất hàng may lúng túng không
đáp ứng được.
Mặc dù Chính phủ và Nhà nước đã dành nhiều sự quan tâm hơn cho các
ngành công nghiệp phụ trợ, nhưng tính đến thời điểm này, tại Việt Nam mới chỉ
có các cơ sở sản xuất một số chủng loại phụ liệu chính như chỉ may, bông tấm,
mếch dính, cúc nhựa, khoá kéo, băng chun, nhãn mác, bao bì và chỉ đáp ứng
được một phần nhỏ nhu cầu của thị trường nội địa. Tính riêng như ở TP.HCM,
trung tâm kinh tế lớn nhất của cả nước, chỉ có 2 chợ nguyên phụ liệu là Soái
Kình Lâm và Thương xá Đại Quang Minh. Hai chợ này có qui mô không lớn,
chỉ có thể đáp ứng nhu cầu của các tiểu thương và DN phục vụ thị trường nội
địa. Trong khi yêu cầu nguyên phụ liệu làm hàng xuất khẩu của ngành dệt may
lại rất lớn. Tháng 11/2003, TCT Dệt may Việt Nam đã khánh thành Trung tâm
kinh doanh nguyên phụ liệu ngành dệt may. Tuy nhiên, với qui mô nhỏ, Trung
tâm chỉ mang tính trưng bày sản phẩm hơn là nơi giao dịch nguyên phụ liệu cho
ngành dệt may. Đối với những khâu đòi hỏi nguồn vốn lớn và kỹ thuật cao như:
in, dệt, nhuộm, hoàn tất, nhiều ý kiến đưa ra về việc kêu gọi đầu tư nước ngoài.
Song, môi trường đầu tư của Việt Nam vẫn không thể cạnh tranh với Trung
Quốc. Riêng các dự án in nhuộm và hoàn tất, vấn đề cung cấp nước sạch và xử
lý nước thải có ý nghĩa quyết định. Giá nước sạch tại Việt Nam hiện nay là 25-

30 cents/m
3
, trong khi giá của Trung Quốc là 13 cents. Được biết, các nước xuất
khẩu hàng dệt may mạnh như Trung Quốc, Ấn Độ, Thái Lan, Indonesia... đều
có những trung tâm giao dịch nguyên phụ liệu chuyên ngành với quy mô lớn,
thuận tiện, tạo nhiều thuận lợi cho các DN sản xuất hàng FOB.
Mặc dù Việt Nam đã có chủ trương khuyến khích đầu tư nước ngoài vào lĩnh
vực sản xuất nguyên phụ liệu cho ngành dệt may nhưng việc vận động đầu tư
cũng gặp nhiều khó khăn. Bộ Công nghiệp và Hiệp hội dệt may Việt Nam cũng
đã đi vận động tại một số thị trường nhưng nhìn chung các nhà đầu tư không
mấy mặn mà với Việt Nam. Theo VINATEX, sau mấy năm thực hiện chiến lược
tăng tốc phát triển dệt may Việt Nam, tỷ lệ giá trị nguyên phụ liệu nội địa trên
tổng trị giá nguyên phụ liệu của sản phẩm dệt may xuất khẩu đạt 31,8% năm
2004 so với mức 20% năm 2000, nhưng so với kế hoạch ở mức 50% vào năm
2005 là không thực hiện được.
b. Chi phí dịch vụ
Chi phí vận chuyển
Nhìn chung giá nguyên liệu đầu vào của doanh nghiệp dệt may Việt Nam và
Trung Quốc không cách xa nhau mấy, nhưng tổng giá thành lại có sự cách biệt
do nhiều chi phí phát sinh, đặc biệt là chi phí vận chuyển. Có nhiều nguyên
nhân khiến cho chi phí này ở Việt Nam cao hơn các nước khác. Thứ nhất là do
chi phí sử dụng cảng cao do độc quyền vì hầu hết các cảng được điều hành bởi
các công ty nhà nước. Thứ hai là cảng của Việt Nam nhiều nhưng nhỏ, tầu lớn
không vào được nên phải mất thêm chi phí chuyển tải đến Singapore hoặc một
cảng khác trước khi đưa ra tầu lớn. Chí phí vận chuyển cao còn do các chi phí
không chính thức khi làm thủ tục hải quan, nhất là khi xuất nhiều lô nhỏ cần
phải xin giấy phép nhiều lần. Chất lượng đường xá và xe tải đang là một vấn đề
khiến giá thành vận chuyển cao. Hệ thống đường sá Việt Nam nhỏ hẹp làm phát
sinh nhiều khoản chi phí không đáng có như phải đi đường vòng do làm đường,
xe trọng tải lớn chỉ được đi vào ban đêm, ban ngày lái xe phải nghỉ dọc

đường…không kể đến các loại phí vận tải và các loại phí thông thường. Theo
thống kê chưa đầy đủ, xuất nhập khẩu bằng đường biển, đường hàng không có
trên 20 loại phí. Ví dụ, phí phát hành lệnh giao hàng đường biển từ 50.000 đồng
đến 120.000 đồng/bộ chứng từ, đường hàng không từ 200.000 đồng đến
350.000 đồng/bộ chứng từ, phí nâng hạ container từ 480.000 đồng đến 610.000
đồng loại 40 feet tuỳ theo cảng biển, phí đại lý từ 10 USD đến 30 USD/bộ
chứng từ. Nếu cải thiện được tình trạng này có thể sẽ giúp doanh nghiệp hạ giá
thành vận chuyển ít nhất là 30%.
Bên cạnh đó, hệ thống cảng biển Việt Nam quá nhỏ, chưa đồng bộ, năng lực
bốc xếp cũng như khả năng tiếp nhận tàu trọng tải lớn thấp, dẫn đến không đáp
ứng được nhu cầu vận chuyển trong nước và quốc tế. Dọc chiều dài bờ biển
nước ta có 91 cảng và điểm cảng, nhưng hầu hết chưa đạt quy mô quốc tế, công
suất khoảng trên dưới 1 triệu tấn hàng hoá/năm, hiện nay mới có duy nhất cụm
cảng Thị Vải - Vũng Tàu có khả năng tiếp nhận tàu có trọng tải 50.000 DWT,
sau đó là cảng Sài Gòn 20.000 DWT và cảng Hải Phòng 10.000 DWT. Phí cảng
biển cao; phí dịch vụ ở cảng Sài Gòn cao hơn mức bình quân trong khu vực là
146% còn ở cảng Hải Phòng con số này là 64%. Phí giao nhận hàng bằng
container của Việt Nam cao gấp 3 lần Singapore, khoảng 2,5 lần so với
Malaysia, 2 lần so với Indonesia. Gần đây, Hiệp hội Dệt may Việt Nam đã kiến
nghị tới Chính phủ nhằm qui hoạch lại các cảng biển và đặc biệt lưu ý các cảng
cho tầu công-ten-nơ, nên cổ phần hoá việc điều hành cảng để tạo nên sự cạnh
tranh và giúp các doanh nghiệp xuất nhập khẩu hạ chi phí.
Chi phí về cơ sở hạ tầng
Đối với chi phí điện, tiền điện hiện nay của Việt Nam là 7 cents/KWh, cao
hơn phí điện năng của Trung Quốc (4,8 - 6). Cước dịch vụ viễn thông Việt Nam
cao gấp 3,5 lần Singapore, 2 lần so với Thượng Hải, hơn 2,5 lần so với Băng
Cốc. Giá điện kinh doanh tại Việt Nam là 0,07 US cent/KWh, trong khi ở Băng
Cốc là 0,03 US cent/KWh. Chi phí hoạt động nhà cửa, khấu hao, điện nước...
trên một đồng vốn vay ngân hàng là 4,2%, cao gấp 2 lần Malaysia. Xu hướng
trong thời gian tới, giá điện sẽ ngày càng tăng cao. Gần đây nhất sẽ là việc tăng

giá điện lên 20% kể từ ngày 1/7/2006, chi phí tiền điện trong giá thành sản
phẩm dệt may chắc chắn sẽ tăng lên ít nhất từ 5-7%.
Chi phí cơ sở hạ tầng cũng ở mức cao, Trung Quốc là 10-12 USD/m
2
/50 năm,
thấp hơn nhiều so với mức chi phí hiện tại của Việt Nam.
Công đoàn phí
Một chi phí khác cũng góp phần làm tăng chi phí cho ngành may là công
đoàn phí. Theo qui định của Nhà nước, phí công đoàn là 2% tổng thu nhập của
người lao động và chi phí này do chủ doanh nghiệp đóng. Do dệt may là ngành
sử dụng nhiều lao động nên cơ cấu chi phí nhân công rất lớn, chiếm 50-60%
trên đơn giá gia công, có nghĩa là công đoàn phí chiếm tới 1% giá thành sản
phẩm, quá cao. Hiện nay tại các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, chủ
doanh nghiệp không phải đóng công đoàn phí nữa và khoản này do công đoàn
viên tự đóng.
c. Chi phí về hạn ngạch
Chi phí hạn ngạch là một loại chi phí vô cùng đặc biệt và riêng có trong
ngành công nghiệp Dệt May của Việt Nam. Chi phí chạy hạn ngạch là một
khoản chi phí không chính thức nhưng lại chiếm một tỷ trọng khá lớn. Chính vì
đây là một khoản chi phí không chính thức nên rất khó kiểm soát và được coi
như một hiện tượng tiêu cực của xã hội. Chi phí hạn ngạch phát sinh từ việc
phân bổ hạn ngạch tại các nước xuất khẩu hàng dệt may phải chịu hạn ngạch.
Đối với Việt Nam, hạn ngạch thường áp dụng đối với các doanh nghiệp muốn
xuất khẩu sang thị trường Mỹ hay EU do các thị trường này vẫn áp đặt hạn
ngạch đối với các nước chưa gia nhập WTO như Việt Nam. Theo quy chế, việc
phân bổ hạn ngạch do một tổ điều hành phân bổ hạn ngạch thực hiện. Tổ điều
hành này sẽ kê khai danh sách các doanh nghiệp được nhận hạn ngạch theo
nhiều tiêu chí đề ra như thưởng thành tích xuất khẩu, doanh nghiệp thuộc vùng
sâu vùng xa, doanh nghiệp có đơn đặt hàng lớn…Có những doanh nghiệp nhận
hạn ngạch nhưng dùng không hết trả lại, nhưng cũng có doanh nghiệp đang

thiếu. Tiêu cực trong việc chạy hạn ngạch xảy ra khi cán bộ nhập số liệu, thông
tin về doanh nghiệp thiếu trung thực. Có những vụ tiêu cực chạy hạn ngạch liên
quan đến các cấp lãnh đạo cao trong các Bộ, Vụ…với giá chạy quota hàng dệt
may sang Mỹ có thể lên tới 1 – 1,4 USD/tá sản phẩm. Thông thường, nếu phi vụ
làm ăn trót lọt, doanh nghiệp phải chi đến 70.000 – 140.000 USD. Chi phí này
tất nhiên sẽ được tính trong giá thành sản phẩm, làm giá thành sản phẩm tăng
lên rất nhiều.
Một vụ án chạy hạn ngạch điển hình làm tốn nhiều giấy mực của báo chí bởi
tính nghiêm trọng khi liên quan đến nhiều cán bộ cấp cao cùng với một số tiền
chạy hạn ngạch khá lớn là vụ án liên quan đến ông Mai Văn Dâu, nguyên Thứ
trưởng Bộ Thương mại. Ông Mai Văn Dâu bị quy trách nhiệm hình sự về 6.000
USD đã nhận hối lộ của một số doanh nghiệp dệt may. Cũng liên quan đến vụ
án, con trai ông Mai Văn Dâu là Mai Thanh Hải – cán bộ Vụ xuất nhập khẩu -
bị tố cáo đã nhận tiền của doanh nghiệp để chạy “quota” dệt may với giá
100.000 USD. Trong vụ án này, các cơ quan pháp luật đã khởi tố 14 bị can, bắt
tạm giam 13 người, trong đó 5 trường hợp là cán bộ Bộ Thương mại.
Thực tế cho thấy, các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu
phần lớn đều không thoát được việc chung chi bất đắc dĩ cho một số mối ở cơ
quan quản lý nhà nước để mua lấy sự thuận tiện trong công ăn việc làm. Đã có
những doanh nghiệp bày tỏ sự bất bình về những hiện tượng liên quan đến việc
môi giới chạy “quota” cho các doanh nghiệp dệt may. Bên mua phải trả cho bên
bán một khoản tiền tính theo đơn vị hàng. Giá mỗi đơn vị hàng từ khoảng 0,4
đến hơn 1 USD tuỳ theo loại hạn ngạch và sự thoả thuận với “cò”, tên gọi dành
cho những đối tượng làm môi giới chạy hạn ngạch. Ví dụ giá mua hạn ngạch
catergory 4 (cat 4) là áo thun, một công ty mua phải trả 0,56 USD/chiếc. Mỗi
phi vụ mua bán vài nghìn đơn vị hạn ngạch, bên mua phải trả cho “cò” từ 5-7
triệu đồng tiền phí. Ngoài ra, có những “cò” còn cố ý không giao giấy phép xuất
khẩu cho công ty mua hạn ngạch (không có giấy phép xuất khẩu thì phía Châu
Âu hay Mỹ sẽ không cho khách nhận hàng) nhằm gây áp lực buộc công ty phải
trả thêm tiền. Do hàng đã xuất đi rồi nên công ty mua hạn ngạch đành phải chi

thêm cho “cò” một ít để lấy được giấy phép xuất khẩu gửi cho khách hàng.
Theo một số doanh nghiệp, có khi họ phải chi cả bạc tỷ chỉ để mong có được
quota vài chục nghìn tá sản phẩm đi Mỹ.
Có thể thấy vấn đề cấp hạn ngạch những năm qua gây khá nhiều khó khăn
cả về thời gian lẫn tài chính cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu. Điều này
làm giảm đi rất nhiều khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp xuất khẩu dệt
may của Việt Nam. Trong tương lai, chỉ khi Việt Nam trở thành thành viên
WTO thì các doanh nghiệp xuất khẩu hàng dệt may mới có thể trút bỏ được
khoản chi phí không chính thức này.

Tóm lại, việc sử dụng không hiệu quả các chi phí trung gian, bao gồm cả chi
phí về nguyên - phụ liệu lẫn các chi phí trung gian phát sinh khác làm cho
ngành dệt may của Việt Nam khác rất xa so với các nước, đó là tính gia công rất
cao, giá trị gia tăng chỉ chiếm tỷ trọng rất thấp (20%) và tính ra chưa đến 1 tỷ
USD. Giá trị tăng thêm đã thấp nhưng các doanh nghiệp dệt may Việt Nam lại
phải gồng gánh bao nhiêu thứ: phải nộp thuế, phải dành một phần để tái đầu tư,
công xá cho người lao động…Vì vậy có thể thấy đằng sau tốc độ tăng trưởng
cao trong những năm qua của ngành dệt may Việt Nam cùng với những khoản
ngoại tệ thu được nhiều hơn so với các ngành kinh tế khác chỉ là một khoản giá
trị tăng thêm rất nhỏ, giá trị thực tế mà các doanh nghiệp và người lao động
được hưởng không là bao nhiêu. Điều đó thể hiện một thực tế đáng buồn về
thực trạng chất lượng tăng trưởng của ngành công nghiệp dệt may Việt Nam
trong thời gian qua.
2. Sự mất cân đối giữa ngành Dệt và ngành May

×