Tải bản đầy đủ (.pdf) (12 trang)

Tìm hiểu về bánh Tteok và các câu tục ngữ, thành ngữ liên quan đến bánh Tteok

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (947.83 KB, 12 trang )

3/2014

HỘI THẢO KHOA HỌC SINH VIÊN-KHOA TIẾNG HÀN QUỐC

TÌM HIỂU VỀ BÁNH TTEOK VÀ CÁC CÂU TỤC NGỮ,
THÀNH NGỮ LIÊN QUAN ĐẾN BÁNH TTEOK
SVTH: Nguyễn Hồng Ngọc, Nguyễn Thị Như Hoa 2H-13
GVHD: ThS Lê Thành Trang

I. PHẦN 1:MỞ ĐẦU
1. LÝ DO LỰA CHỌN ĐỀ TÀI
Nổi bật lên nhƣ một trong”Bốn con rồng của châu Á”vào giữa thập niên 1960 và thập
niên 1990, Hàn quốc ngày nay không chỉ đƣợc biết đến là một đất nƣớc năng động , hiện
đại, có nền kinh tế phát triển mà còn là một đất nƣớc có truyền thống văn hóa lâu đời đƣợc
xây dƣ̣ng và gì n giƣ̃ qua hàng ngàn năm lị ch sƣ̉
. Văn hóa Hàn Quốc giàu có , đa dạng ,
phong phú và ẩ n chƣ́a trong mì nh rất nhiều điều vô cùng kì thú . Chính vì vậy khám phá
văn hóa Hàn Quốc luôn là một đề tài hấp dẫn mà nhiều ngƣời nƣớc ngoài đặc biệt là nhƣ̃ng
ngƣời trẻ giống nhƣ chúng tôi muốn tìm tòi và nghiên cƣ́u một cách sâu sắc hơn.
Nhắc đến văn hóa Hàn Quốc không thể không kể đến một nền ẩm thƣ̣c độc đáo luôn
đƣợc ngƣời dân Hàn Quốc tƣ̣ hào giới thiệu mỗi khi quảng bá hì nh ảnh đất nƣớc mì nh ra
với bạn bè năm châu . Và trong nền ẩm thực đ ã trải qua bao năm lịch sử ấy chúng tôi bắt
gặp hì nh ảnh bánh tteok (떡) - biểu tƣợng văn hóa điển hình của đất nƣớc và con ngƣời xứ
Cao Ly. Hơn là một loại bánh đơn thu ần, Tteok đã mang cả giá trị tinh thần của con ngƣời
nơi đây. Có một câu nói vẫn thƣờng đƣợc nhắc đến rằng: “태어나 죽을 때까지, 한국인의
삶 속엔 떡이 있었다”nghĩa là ”Tƣ̀ khi sinh ra đến lúc chết đi trong cuộc đời của ngƣời
Hàn Quốc đều có bánh tteok” . Câu nói này th ể hiện tầm quan trọng của bánh tteok trong
đời sống tinh thần của ngƣời dân Hàn Quốc. Bánh tteok là m ột món ăn không thể thiếu,
luôn gắn liền với mỗi phút giây trong cuộc s ống của họ.Hình ảnh tteok còn đƣợc ngƣời dân
Hàn Quốc ƣu ái đƣa vào chính những lời ăn tiếng của mình từ xa xƣa , mà cụ thể hơn là
nhƣ̃ng câu tục ngƣ̃ hay nhƣ̃ng thành ngƣ̃ .. Chính vì muốn tìm hiểu sâu sắc hơn về điều này


mà bài nghiên cứu khoa học”Tìm hiểu về bánh tteok thông qua ngôn ngƣ̃ Hàn Quốc ”đã
đƣợc thƣ̣c hiện.
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
- Để đáp ƣ́ ng nhu cầu tì m hiểu về bánh Tteok và hì nh ảnh bánh Tteok trong tục ngƣ̃
và thành ngữ tiếng Hàn Quốc.

252


3/2014

HỘI THẢO KHOA HỌC SINH VIÊN-KHOA TIẾNG HÀN QUỐC

- Nâng cao khả năng thu thập, phân tích và tổng hợp tài liệu, rèn luyện kĩ năng nghiên
cứu khoa học, kĩ năng viết và biên dịch của bản thân.
3. PHẠM VI NGHIÊN CỨU
- Giới thiệu sơ lƣợc và khái quát về bánh Tteok.
- Phân tích khái quát về khái niệm và đặc điểm tục ngữ, thành ngữ, đặt cơ sở lí luận
cho vấn đề nghiên cứu.
- Nghiên cứu tập trung vào phân tích ngữ nghĩa của các câu tục ngƣ̃ , thành ngữ.
- Phân loại và có đối chiếu với một số các câu thành ngữ, tục ngữ tƣơng đồng trong
Tiếng Việt
4. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
- Khảo sát tài liệu liên quan và các công trình nghiên cứu đã có để xây dựng cơ sở lí
luận và thực tế cho nghiên cứu. Ngoài ra, còn sƣu tầm thêm tƣ liệu thông qua sách báo và
Internet.
- Sƣu tập và chọn lọc các đơn vị tục ngữ có liên quan đến nội dung nghiên cứu, dịch
nghĩa và phân tích ý nghĩa, các yếu tố văn hóa hàm chứa tron g các đơn vị tục ngữ tiếng
Hàn.
- Tìm và đối chiếu với các đơn vị tục ngữ trong tiếng Việt có nghĩa tƣơng đƣơng.

II.PHẦN 2: TÌM HIỂU CHUNG VỀ BÁNH TTEOK
Truyền thống ẩm thực của Hàn Quốc kéo dài xuyên suốt lịch sử phát triển và tồn tại
của nó: khoảng hơn 5000 năm về trƣớc. Với quãng thời gian tồn tại dài nhƣ vậy thì chẳng
có gì đáng ngạc nhiên khi những công thức, bí kíp nấu ăn lại phát triển cực kì hƣng thịnh.
Đầu tiên và trên hết phải khẳng định 1 điều rằng, món ăn Hàn Quốc là đại diện cho sự
cân bằng và sức khỏe, sự đa dạng, hòa hợp giữa âm- dƣơng về cả màu sắc lẫn hƣơng vị. Và
bánh Tteok chính là một minh chứng tiêu biểu cho những đặc trƣng ấy.
1. Ý NGHĨA TÊN GỌI CỦA BÁNH”떡”
Chƣ̃”tteok”có thể hiểu theo hai nghĩa: Thứ
nhất,”tteok”là một từ thuần Hàn chỉ loại bánh đƣợc làm
từ gạo,tạm đƣợc dịch là”bánh gạo”. Thứ hai,
chữ”tteok”còn có thể đƣợc hiểu nhƣ cách làm món bánh
từ gạo với các quy trình sẽ đƣợc nói ở phần sau. Ở đây,
chữ”tteok”có thể đƣợc dịch nhƣ chữ”chƣng”hay
chữ”hấp”trong tiếng Việt. Ngoài ra loại bánh này còn có
một tên gọi kh ác là”pyeon”nghĩa là”phiến”. Đây là một
từ tiếng Hán có nghĩa là”tấm”, hay nó còn có ý nghĩa là nhỏ và phẳng. Ngày nay, bánh
Tteok có rất nhiều loại, cùng với đó là rất nhiều tên gọi khác nhau. Từ chiếc bánh tteok

253


3/2014

HỘI THẢO KHOA HỌC SINH VIÊN-KHOA TIẾNG HÀN QUỐC

thuần túy, ngƣời ta đặt tên các loại bánh tteok theo các loại nguyên vật liệu đƣợc trộn vào
trong quá trình làm bánh.
2.NGUỒN GỐC , CÁC GIAI ĐOẠN PHÁT TRIỂU VÀ MỘT SỐ LOẠI BÁNH
TTEOK TIÊU BIỂU TRONG TƢ̀NG THỜI KÌ .

Từ kỉ nguyên đồ đồng, cƣ dân sinh sống ở bán đảo Hàn đã bắt đầu gieo trồng lúa.Vì
vậy có thể nói, ngƣời dân Hàn Quốc đã có truyền thống gắn bó với nền nông nghiệp trồng
lúa từ lâu đời. Họ coi lúa gạo là nguồn gốc của tất cả các loại hạt trong vũ trụ, là quà tặng
quý giá nhất cho sự sống trên mặt đất. Một hạt lúa cũng đƣợc coi nhƣ một bảo vật, là loại
hạt đại diện cho bầu trời. Chính vì thế,nó không thể thiếu trong nghi thức tế lễ của ngƣời
dân Hàn Quốc. Từ hạt gạo đơn thuần ban đầu, con ngƣời đã sáng tạo ra những món ăn
khác đƣợc làm từ gạo. Ngƣời ta biết giã gạo và nặn thành hình bánh thật đẹp để dâng lên
trời đất. Và sau đó bánh Tteok ra đời.
Ttoek không chỉ là một trong những món ăn mang tính biểu tƣợng cho Hàn Quốc mà
còn là một trong món ăn xuất hiện sớm nhất của đất nƣớc này. Youn- một nhà nghiên cứu
ngƣời Hàn đã nói: “Tại Hàn Quốc, ngƣời ta đã làm làm bánh Tteok từ khoảng 2000 năm
trƣớc, tức là vào thời Tam quốc (Silla, Beakje và KoKuryo), tính đến nay đã có gần 200
loại bánh gạo khác nhau_nói một cách chính xác là 198 loại.”. Sau đây, hãy cùng nhìn lại
quá trình phát triển của bánh Tteok qua các thời kì:

Trước thời Tam Quốc:
Hầu hết các nhà nghiên cứu đều chỉ ra rằng ngƣời Hàn Quốc đã biết làm thức ăn từ
bột của các loại lƣơng thực và ngữ côc, đem hấp chín trong nồi đất. Đồ ăn đƣợc làm từ các
loại hạt và đƣợc hấp chín trong nồi đất đầu tiên đƣợc gọi là”시루떡”(“Sirutteok”trong
đó”Siru”nghĩa là”nồi đất”). Sau đó, theo một số ghi chép của tác giả ngƣời Nhật Totaychi
trong tác phẩm”Jongjangwonseomun”năm 752, ta thấy có sự xuất hiện của các loại bánh
giống bánh tteok ngày nay nhƣ: “Tetupyeong”(bánh đậu xanh),”Sotupyeong”(bánh đậu
đỏ)”Jeonpyeong”(giống bánh đa) gọi là”Irimochihi”nghĩa là”bánh tteok rán trong
dầu”…Chứng tỏ, vào thời điểm đó, ngƣời Hàn đã biết làm các loại tteok đa dạng. Ngƣời ta
dùng các loại tteok này chủ yếu trong các bữa ăn chung tƣợng trƣng cho sự đoàn kết và
hƣng thịnh của cộng đồng.
Thời Silla thống nhất
Trải qua thời Tam Quốc, đến thời Silla thống nhất, xã hội ổn định và nền nông nghiệp
với trọng tâm là việc trồng lúa ngày càng phát triển. Vì vậy trong thời kì này, việc làm


254


3/2014

HỘI THẢO KHOA HỌC SINH VIÊN-KHOA TIẾNG HÀN QUỐC

bánh tteok với nguyên liệu chủ yếu là gạo nếp trở nên phổ biến hơn. Ngoài ra, một số câu
chuyện về thời Silla cũng cho chúng ta thấy một số loại bánh tteok mà họ ăn thời đó là ngũ
cốc đƣợc hấp chín rồi trộn lên nhƣ”Huintteok”(bánh tteok trắng),”Injolmi”(bánh phủ bột
đậu), hay”Jolpyeon”(bánh tteok in hình hoa)… Đồng thời, phong tục ăn bánh tteok vào dịp
cuối năm của ngƣời dân Hàn đã có từ thời kì đó.
Tiếp nữa, trong”Tam Quốc di sử”, thời vua
Hyoso(692~702) cũng có loại bánh tteok đƣợc gọi
là”Solpyeong”.”sol”ở đây có nghĩa là”lƣỡi”và âm này cũng gần
giống với âm”jol”trong”Injolmi”và”Jolpyeon”nên các loại bánh
này đều có hình dáng giống nhƣ chiếc lƣỡi. Tteok thời kì này
cũng đã đƣợc coi là một trong những món ăn quan trọng dùng để
tế lễ.
Thời Goryeo
Đây là thời kì hƣng thịnh nhất so với các thời kì
trƣớc. Cùng với sự phát triển kinh tế, việc tăng sản lƣợng
của lƣơng thực và các loại ngũ cốc nhờ chính sách
khuyến nông đã mang đến sự dƣ thừa về kinh tế và sự
phát triển của văn hoá tteok lại đƣợc thúc đẩy thêm một
bƣớc nữa. Trong tác phẩm có tên”Geogapilyong”của
Trung Quốc có nói đến 1 loại tteok tên gọi
là”Goryeoyulgo”và trong tác phẩm”Lịch sử Haetong”của Han Ji Yun cũng giới thiệu
những kiến thức về loại bánh này, đồng thời khen ngƣời Goryeo làm”Yulgo”rất
ngon.”Yulgo”là một loại”Pamsolki”(bánh tteok hạt dẻ) đƣợc làm từ bột gạo nếp và bột hạt

dẻ trộn vào nhau, rƣới mật ong lên và hấp trong nồi đất. Trong tác phẩm”Jipongyusol”của
Lee Su Kwang có viết”làm”Jongaepyeong”vào ngày”sangsa”(Tết đoan ngọ) để ăn”. Để
làm bánh này, ngƣời ta trộn lá ngải nhỏ vào bột gạo làm bánh. Với cách làm nhƣ thế này,
ta có thể đoán đây chính là nguyên hình của bánh”Ssuksolki”thời nay. Ngoài ra, thời đó
cũng đã có các loại bánh nhƣ”Songkitteok”(bánh có vị vỏ thông) và”Sansamsolki”(bánh có
vị sâm núi).Trong một số tác phẩm khác còn có nhắc đến loại bánh tên”Sutan”(bằng bột mì
và bột gạo, ăn với mật ong) và”Susujonpyeong”(bột kê,đậu đỏ, rán trong dầu) Trong
cuốn”Lịch sử Goryeo”cũng nói đến việc ăn bánh”Jongaepyeong”vào ngày”sangsa”và ăn
bánh”Sutan”vào dịp rằm tháng 6, cho thấy bánh tteok đã dần dần chiếm đƣợc vị trí nhƣ
một món ăn trong các dịp lễ tết của dân tộc.
Thời Joseon
Bƣớc sang thời Joseon, cùng
với sự phát triển của kĩ thuật sản
xuất và các phƣơng pháp gia công
chế biến trong nông nghiệp, văn

255


3/2014

HỘI THẢO KHOA HỌC SINH VIÊN-KHOA TIẾNG HÀN QUỐC

hoá ẩm thực của ngƣời dân Hàn Quốc cũng ngày càng phát triển. Theo đó, các loại bánh
tteok và mùi vị của bánh cũng ngày càng trở nên đa dạng và phong phú. Đặc biệt bánh
tteok ngày càng đƣợc phát triển để phục vụ cho nhiều tầng lớ p nhân dân. Khác với loại
bánh tteok thuần tuý đầu tiên chỉ đƣợc làm từ bột gạo hay bột ngũ cốc hấp chín, các loại
bánh tteok này đƣợc kết hợp giữa các loại ngũ cốc khác nhau cùng với các loại trái cây,
hoa, cây cỏ hoang dã, hay các loại thuốc, đã đem lại sự biến hoá đa dạng về hình dáng
cũng nhƣ màu sắc.”Peksolki”(bánh gạo nếp),”Pamsolki”(bánh nhân hạt

dẻ),”Ssuksolki”(bánh nhân ngải) giống nhƣ hiện nay.”Seoktanpyeong”(bánh làm từ bột
nếp, hạt thông, táo tàu trộn vào rồi rắc đậu đỏ lên),”Tohaengpyeong”(bánh làm từ bột nếp
trộn với nƣớc đào ép rồi hấp lên),”Kkulsolki”(bánh mật ong),”Sokipyeong”(bánh
nấm),”Mutteok”(bánh củ cải),”Songkitteok”(bánh làm từ bột gạo và vỏ thông
non),”Sangjapyeong”(bánh làm từ bột gạo tẻ, hạt dẻ và mật ong),”Sansampyeong”(bánh
nhân sâm núi),”Kamjapyeong”(bánh khoai tây),”Kitangao”,”Yulgo”... Ngoài các loại bánh
quen thuộc là”Sirutteok”,”Patsirutteok”,”Kongsirutteok”, còn có một số loại bánh khác
nhƣ”Kkuljalpyeon”(bánh mật ong),”Noktupyeong”(bánh đậu xanh),”Kkejalpyeon”(bánh
vừng),”Hopakpyeon”(bánh

đao),”Tutoptteok”,”Hontonpyeong”..”Kyeongtan”và”Tanjaryu”cũng là hai loại bánh tteok
mới đƣợc làm ra ở thời Joseon. Thời kì sau này, bánh”Tanjaryu”ngày càng trở nên đa dạng
với nhiều loại mới, nhƣ bánh”tanja hạt dẻ”,”Tanja vỏ chanh”,”Tanja khoai sọ”,”Tanja
hồng khô”,”Tanja khoai mỡ”,”Tanja mật ong”... Hơn nữa, ở thời Joseon, các phong tục
trong các ngày lễ kỉ niệm đều đƣợc phổ biến rộng khắp, và trong tất cả các nghi lễ, dù bữa
tiệc lớn hay nhỏ, trong các nghi thức cúng bái, bánh tteok đều đƣợc coi nhƣ một món ăn
thiết yếu.
Từ sau cận đại
Cuối thế kỉ XIX, cùng với những
biến động mạnh mẽ của xã hội, lịch sử
của bánh tteok cũng bị thay đổi. Điểm
thay đổi lớn nhất là bánh tteok từ lâu đã
đƣợc ngƣời dân Hàn Quốc yêu thích và
coi nhƣ đồ ăn vặt, thức ăn trong những ngày đặc biệt hay dùng để thay thế cho cơm đã dần
dần bị loại trừ trong thực đơn Thay vào đó là món bánh có nguồn gốc từ phƣơng Tây –
bánh mì. Ở thời kì này, có thêm một số loại”Sirutteok”đƣợc trộn thêm đậu xanh
nhƣ”Kongpeomuritteok”,”Kongsolki”,”Kongsirupyeon”,”Soemeoritteok”.”Injeolmi”,”Tor
anpyeong”đƣợc

làm


khô,”Paekhappyeong”là

từ
bánh

bánh”Songpyeon”hoặc
hấp

bằng

bột

gạo

từ

bột
trộn

khoai
với

rễ

tây

sấy

cây


bách

hợp,”Sinseonpugwipyeong”,”Heuntteok”,”Puktteok”... là các bánh đƣợc trộn các loại dƣợc
liệu nhƣ bạch thuật, cây irit, sơn dƣợc... là các loại tteok mà ngƣời dân thƣờng tự làm để
ăn.Tuỳ theo các nguyên liệu bên trong nhân bánh tteok mà tên gọi của bánh tteok cũng rất

256


3/2014

HỘI THẢO KHOA HỌC SINH VIÊN-KHOA TIẾNG HÀN QUỐC

đa dạng, nhƣ”Susutteok”(bánh tteok nhân kê),”Pattteok”(bánh tteok nhân đậu
đỏ),”chapsaltteok”(bánh

tteok

gạo

nếp),”Ssuktteok”(bánh

tteok

nhân

cây

ngải),”Hopaktteok”(bánh tteok nhân bí đao)...“Paekseolki”là tên gọi dành cho bánh tteok

đƣợc hấp lên có màu trắng nhƣ tuyết.“Tuteoptteok”là bánh tteok đƣợc ví nhƣ cuộc trò
chuyện ấm áp và thân mật.“ssuktteok”là loại bánh tteok mà khi nhào bột, ngƣời ta trộn
thêm ngải vào rồi rán lên.“Kaetteok”là tên gọi dành cho bánh tteok đƣợc nhào và nặn ra
một cách tuỳ ý, không theo khuôn mẫu.”Pintaetteok”là loại bánh tteok đƣợc nặn phẳng
giống nhƣ chiếc giƣờng.”Jangtteok”là loại bánh mà khi nhào bột, ngƣời ta nêm gia vị là
tƣơng ớt và tƣơng toenjang.”Joraengitteok”là loại bánh tteok đƣợc làm có hình dáng nhƣ
chiếc rổ. Vì vậy loại bánh này còn có ý nghĩa giúp ngăn chặn đƣợc những tai hoạ và điềm
xấu….
Ngoài ra, còn một số loại bánh tteok khác, nhƣ”Joyaktteok”có màu giống nhƣ đá
thạch anh hay mã não,”Kyeongtan”tròn và đẹp giống nhƣ ngọc bích,”Taltteok”có hình tròn
giống nhƣ mặt trăng,”Kochitteok”có hình dáng giống nhƣ cái kén của con
tằm,”Karaetteok”là bánh tteok nặn tròn rồi đƣợc kéo dài ra,”Ssukkulle”có hình dáng cuộn
lại,”Songpyeon”là bánh tteok nhỏ với hƣơng thơm của lá thông,”Jeolpyeon”là bánh đƣợc
cắt ra từ những chiếc bánh tteok nặn hình phẳng,”Seokryupyeong”đƣợc nặn hình giống
nhƣ quả lựu,”Mujikaetteok”lại là bánh tteok có màu sắc đẹp nhƣ cầu vồng.... Dù không
còn chiếm vị trí độc tôn nhƣ trƣớc nhƣng bánh tteok vẫn là món ăn thiết yếu không thể
thiếu để dâng lên trong nghi thức tế lễ và các dịp quan trọng.
Có thể thấy rằng bánh tteok là loại bánh có lịch sử từ lâu đời, đã cùng với ngƣời dân
Hàn Quốc trải qua các thăng trầm và biến động trong lịch sử.Bánh tteok gắn bó mật thiết
đối với đời sống hằng ngày con ngƣời. Chính vì vậy, việc hình ảnh bánh”tteok”tồn tại từ
rất sớm trong tục ngữ, quán ngữ của ngƣời đân nơi đây là một điều hoàn toàn tự nhiên, dễ
hiểu.
III. PHẦN 3: BÁNH TTEOK (떡) TRONG TỤC NGỮ, THÀNH NGỮ HÀN
QUỐC
1.

TRONG TỤC NGƢ̃

Tục ngữ là thể loại văn học dân gian nhằm đúc kết kinh nghiệm


, tri thƣ́c của nhân

dân dƣớ i hì nh thƣ́c nhƣ̃ng câu nói ngắn gọn , súc tích, có nhịp điệu, dễ nhớ , dễ truyền. Nội
dung tục ngƣ̃ thƣờng phản ánh nhƣ̃ng khinh nghiệm lao động sản xuất
, ghi lại các hiện
tƣợng xã hội hoặc triết lí dân gian của dân tộc . Trong các câu tục ngƣ̃ Hàn Quốc có sƣ̉
dụng các biện pháp tu từ đa dạng , sƣ̉ dụng nhiều biểu hiện ẩn dụ . Tục ngữ sử dụng ngôn
ngƣ̃ đại chúng và thƣờng mƣợn nhƣ̃ng sƣ̣ vật quen thuộc trong cuộc sống hằng ngày để
đƣa vào làm hình ảnh ví von.Và bánh tteok cũng là một trong những hình ảnh nhƣ vậy.

257


3/2014

HỘI THẢO KHOA HỌC SINH VIÊN-KHOA TIẾNG HÀN QUỐC

Tục ngữ phê phán, châm biếm
Là tục ngữ dùng để công kích nhƣợc điểm hay lỗi lầm,
nhƣ̃ng thói hƣ tật xấu tồn tại trong xã hội
. Nó chứa đựng
những điều thú vị và mang tính chất phê phán nhẹ nhàng
xong cũng rất thâm thúy, sâu sắc.
•”개 그림 떡 바라듯”–”con chó ƣớc ao cái bánh tteok
trong bƣ́c tranh” . Ý của câu nói là ám chỉ nh ững ngƣời luôn
có tâm lí ỷ lại , chờ đợi, mong muốn có đợi một cái gì đó rất xa vời một cách vô í ch , vô
vọng mà không chịu lao động , cố gắng làm việc nên hiển nhiên là không bao giờ đạt đƣợc .
Có thể hiểu nghĩa tƣơng tự nhƣ câu”Há miệng chờ sung”mà ngƣời Việt ta hay dùng.
• Câu”떡 주고 뺨 맞는다”–”cho tteok lại bị ăn tá t”ý nói làm việc tốt để giúp đỡ
ngƣời khác nhƣng cái nhận đƣợc lại là sƣ̣ tƣ́c giận , có khi là la mắng , chƣ̉i bới. Gần nghĩa

với câu”Làm ơn mắc oán”trong Tiếng Việt. Cũng với hàm ý tƣơng tự , tục ngữ Hàn Quốc
còn có câu”떡 달라는데 돌 준다”-”đòi bánh tteok lại đƣa cho đá”nghĩa là bị đối xử hoàn
toàn khác với những gì bản thân mong muốn.
•”남의 떡으로 조상 제 지낸다”hay”남의 떡에 설 쇤다”_“tế lễ bằng bánh tteok của
ngƣời khác”, dùng để ám chỉ hành động cƣớp công của ngƣời khác , dùng công sức thành
quả lao động của ngƣời khác để chuộc lợi cho mình.
• Hai câu tục ngữ”떡도 나오기 전에 김칫국부터
마신다”(bánh chƣa đến đã uống canh kimchi trƣớc), hay”떡
줄 사람은 생각하지도 않는데 김칫국부터 마신다”(ngƣời
ta còn chƣa nghĩ đến việc cho bánh mà đã uống canh kimchi
trƣớc) đều đƣợc dùng với nghĩa cƣời nhạo ai đó mặc dù việc
tốt còn chƣa thấy đâu nhƣng đã mơ ƣớc đến chuyện đón nhận
việc đó. Khi ăn tteok ngƣời ta thƣờng ăn với kim chi củ cải hay kim chi nƣớc và tteok thì
khô nên ăn với kim chi nƣớc thì rất dễ nuốt. Nhƣng chƣa có bánh tteok đã uống canh kim
chi thì thật là vô nghĩa.
•”남의 손의 떡은 커 보인다”hay”남의 손의 떡이 더 커 보이고 남이 잡은 일감이
더 헐어 보인다”–”bánh tteok trong tay ngƣời khác có vẻ to hơn” ,”công việc của ngƣời
khác có vẻ dễ hơn.”Phê phán nhƣ̃ng ngƣời không biết thỏa mãn với nhƣ̃ng gì mì nh đang có ,
mà luôn so đo với những thứ của ngƣời khác.
•”입에 문 떡도 못 먹는다”–”Bánh tteok đến miệng rồi mà lại không ăn đƣợc” . Cũng
giống nhƣ một câu mà ngƣời Việt Nam hay nói ”Miếng ăn đến miệng rồi mà c òn rơi mất”,
câu nói ám chỉ việc gì sắp hoàn thành xong rồi cuối cùng lại đổ bể . Câu nói này nhƣ một
lời than thở hoặc trách móc khi để một cơ hội tốt vụt mất một cách dễ dàng.
Tục ngữ về mối quan hệ con người
Mối quan hệ con ngƣời là mối quan hệ tác động tƣơng hỗ giữa con ngƣời với con

258


3/2014


HỘI THẢO KHOA HỌC SINH VIÊN-KHOA TIẾNG HÀN QUỐC

ngƣời trong cuộc sống. Đó cũng là quan hệ liên kết cá nhân
với tập thể, giữa các cá nhân trong một tập thể với nhau ,
giữa các thành viên trong gia đình,...
•”내떡이 두개면 남의 떡도 두개다”–”của tôi hai cái
bánh tteok thì của ngƣời khác cũng hai cái” . Là muốn đề
cặp đến mối quan hệ giƣ̃a ngƣời với ngƣời trong cuộc sống ,
câu tục ngƣ̃ có nghĩ a n ếu nhƣ mình đối xử tốt, công bằng với ngƣời khác thì ngƣời ta cũng
sẽ đối xử với mình nhƣ thế. Ngoài ra ngƣời Hàn Quốc còn có một câu tục ngƣ̃ khác cũng
mang ý nghĩ a tƣơng đƣơng đó là ”가는 떡이 커야 오는 떡이 크다”_“bánh tteok đi có to
thì bánh tteok đến mới to”. Mình cho đi bao nhiêu thì sẽ đƣợc nhận lại bằng ấy.
•”떡 해 먹을 집안”–”trong nhà
làm bánh ăn tteok”Trƣớc kia, mỗi khi
trong nhà có chuyện lục đục, không
may mắn, suôn sẻ thì ngƣời Hàn Quốc
hay làm bánh Tteok để cúng lễ giải hạn.
Vì vậy ý của câu tục ngữ trên là ám chỉ
nhƣ̃ng gia đì nh mâu thuẫn , cãi vã giữa các thành viên với nhau . Tuy sống chu ng một nhà
nhƣng không hòa thuận nên suốt ngày ồn ào nhƣ đang chuẩn bị làm lễ giải hạn.
• Câu”떡 떼어 먹 듯하다”dùng để chỉ sự bình đ ẳng, phân công công việc rạch ròi , rõ
ràng cho từng ngƣời thực hiện một cách công bằng giống nhƣ việc chia bánh tteok để ăn
vậy.
Tục ngữ kinh nghiệm đời sống
Là tục ngữ chứa đựng những tri thức, lời khuyên răn , dạy bảo mà ngƣời xƣa đúc kết
lại và truyền lại cho nhƣ̃ng thế hệ sau.
•”굿이나 보고 떡이나 먹지”_”gặp thầy bói thì xem quẻ, nhìn thấy bánh nếp thì ăn”.
Câu tục ngƣ̃ này có ý nghĩ a khuyên răn chúng ta nên tập chung hoàn thành công việc của
mình trƣớc thay vì cứ tham gia một cách vô ích vào việc của ngƣời khác.

•”누워서 저절로 입에 들어오는 떡은 없다”–”Nằm một chỗ thì ko dƣng có bánh
tteok để ăn”, nhắc nhở ta nếu không biết nỗ lƣ̣c , cố gắng lao động bằng chí nh công sƣ́c của
mình thì sẽ chẳng đạt đƣợc thành quả gì . Câu tục ngƣ̃ này tƣơng đƣơng với câu ”Tay làm
hàm nhai”hay”Có làm thì mới có ăn, không dƣng ai dễ đem phần đến cho”trong tiếng Việt.
•”떡국이 농간한다”_”Canh bánh Tteok làm càn”.
Tteokkuk còn có tên gọi khác là cheomsebyeong, có nghĩa
là”những miếng bánh gạo mang tuổi đến”vì ngƣời Hàn Quốc
xƣa tin rằng họ tăng thêm một tuổi khi và chỉ khi ăn xong bát
canh bánh gạo lúc Giao thừa. Bởi vậy tteokkuk tƣợng trƣng
cho tuổi tác. Câu nói trên có nghĩa: những ngƣời dù không có

259


3/2014

HỘI THẢO KHOA HỌC SINH VIÊN-KHOA TIẾNG HÀN QUỐC

nhiều tài năng hay quá giỏi giang nhƣng có nhiều kinh nghiệm lâu năm thì vẫn có thể đảm
đƣơng, xử lý công việc hiệu quả, tinh tƣờng mọi việc. Câu tƣơng đƣơng trong Tiếng Việt
là”Già lên lão”
•”노인 말을 들으면 자다가도 떡이 생긴다”–”nếu nghe lời những ngƣời lớn thì
đang ngủ cũng thấy bánh tteok”, khuyên con ngƣời ta nên nghe theo lời dạy của những
ngƣời đi trƣớc, vì họ là những ngƣời đã có nhiều kinh nghiệm trong cuộc sống.
•”떡방아를 찧어도 옳은 방아를 찧어라”–”giã bánh cũng phải giã cho đúng
cách”khuyên ngƣời ta khi làm bất cƣ́ việc gì dù lớn hay nhỏ , dễ hay khó thì đều cần phải
làm theo đúng trình tự bài bản, làm từ cái đơn giản đến cái phức tạp, có thể mới thành công
đƣợc.
•”누워서 떡먹기”–”nằm ăn bánh tteok”. Ngƣời ta nói đến việc thƣ̣c hiện một việc rất
dễ dàng nhƣ là ăn bánh tteok. cũng giống nhƣ câu”Dễ nhƣ trở bàn tay”

•”여름비는 잠비요 가을비는 떡비다”–”mƣa hè là mƣa ngủ, mƣa thu là mƣa
bánh”nhƣ một câu khắc họa lại thói quen sinh hoạt của ngƣời Hàn Quốc . Đó là mùa hè
mƣa thì tốt nhất là đi ngủ , còn mùa thu mƣa thì ngƣời ta thƣờng làm bánh tteok để ăn cho
đỡ nhạt miệng.
•”떡고리에 손 들어간다”_”xỏ đƣợc tay vào vòng bánh Tteok”chỉ việc cuối cùng
cũng đạt đƣợc những điều mình luôn ao ƣớc bấy lâu.
•”기름떡 먹기다”–”Ăn bánh tteok rán trong dầu ”xuất phát tƣ̀ việc ăn bánh tteok rán
vƣ̀a ngon miệng lại vƣ̀a dễ ăn . Cũng giống nhƣ câu ”Dễ nhƣ chở bàn tay ”ý chỉ việc gì đó
rất dễ thực hiện mà không phải tốn công sức hay nỗ lực gì.
•”싼 게 비지떡”–”bánh rẻ là bánh bã đậu”Câu tục ngƣ̃ có nghĩ a là đồ vật gì giá rẻ thì
chất lƣợng cũng không thể tốt đƣợc , giống nhƣ ngƣời Việt ta có câu”Của rẻ là của
ôi”hay”Tiền nào của nấy”
•”보기 좋은 떡이 먹기도 좋다”–
”Bánh tteok mà nhìn đẹp thì ăn sẽ vừa
miệng.”Hàm ý gần giống với câu ”Nhà
sạch thì mát , bát sạch ngon cơm ”trong
tiếng Việt , có ý nghĩa vật gì đó có hình
thƣ́c bên ngoài đẹp thì nội dung bên trong cũng tốt . Đối với con ngƣời thì những ai có vẻ
về ngoài đƣ́ng đắn, chỉn chu thì bản chất con ngƣời bên trong cũng tốt.
•”떡 본 김에 제사 지낸다”–”Nhân tiện th ấy tteok
thì tế lễ luôn”. Vào thời xa xƣa, bánh tteok là một món ăn
đặc biệt, không phải lúc nào cũng có thể dễ dàng có đƣợc.
Mặt khác, ngày cúng tế hay đám giỗ lại là một dịp quan
trọng trong năm. Mỗi khi đến dịp này, ngƣời Hàn Quốc
ngày trƣớc thƣờng gặp rất nhiều khó khăn trong việc

260


3/2014


HỘI THẢO KHOA HỌC SINH VIÊN-KHOA TIẾNG HÀN QUỐC

chuẩn bị đồ tế lễ (thức ăn). Bánh tteok ở đây tƣợng trƣng cho”cơ hội tốt”còn”제사”chính
là”việc lớn”_ những việc quan trọng. Câu tục ngƣ̃ mang nghĩa : Khi có một cơ hội tốt thì
tiện thể làm những việc cần thiết luôn. Gần tƣơng tự nhƣ câu”Một công đôi việc”. Đồng
thời, câu nói trên khẳng đị nh tầm quan trọng của bánh tteok trên bàn tế lễ của ngƣời Hàn
Quốc, chỉ cần có bánh tteok làm đồ cúng thì cũng đủ thành m ột bàn cúng để dâng lên thần
linh và các vị tổ tiên.
Ngoài những câu tục ngữ kể trên, ngƣời Hàn Quốc còn có những tụ c ngƣ̃ khẳng đị nh
vị trí đ ặc biệt của bánh tteok nhƣ là : “밥 위의 떡”-”tteok đặt trên cơm”ý nói sƣ̣ cuốn hút
và thơm ngon của món bánh này khiến ngƣời ta sau khi ăn cơm no r ồi vẫn có thể ăn thêm
đƣợc. Hay câu”밥 먹는 배 따로 있고, 떡 먹는 배 따로 있다”-”có bụng dành để ăn cơm,
có bụng dành để ăn bánh tteok”cũng có ý nghĩa tƣơng tự.
2. TRONG THÀNH NGỮ
Thành ngữ là những cụm từ mang ngữ nghĩa cố định. Về mặt ngữ pháp, các thành
ngữ phần lớn không phải là một câu đầy đủ, không thể thay thế và sửa đổi về mặt ngôn từ.
Thành ngữ thƣờng đƣợc sử dụng nhƣ một thành phần để tạo thành những câu nói hoàn
chỉnh trong từng trƣờng hợp nhất định.
Không chỉ đƣợc bắt gặp nhiều trong các câu tục ngƣ̃ , tteok còn đƣợc dùng nhƣ một
hình ảnh so sánh thƣờng gặp trong các quán dụng ngữ . Hãy cùng điểm qua một số ví dụ
sau đây:
•”그림의 떡”nói đến những điều , nhƣ̃ng vật mà cho dù có vƣ̀a lòng đến đâu nhƣng
vẫn không thể sƣ̉ dụng đƣợc, không thể có đƣợc.
•”떡(이) 되다”đƣợc dùng trong nhƣ̃ng trƣờng hợp k hi nói đến ai đó bị lăng nhục hay
bị đòn rất nặng.
•”떡국을 먹다”–”Uống canh tteok.”Canh tteok (tteokguk) là món ăn không thể thiếu
trong mỗi dị p Tết của ngƣời Hàn Quốc . Công việc chuẩn bị và nhƣ̃ng công đoạn làm món
canh này tƣợng trƣng cho lời chào năm mới và sƣ̣ tái sinh của vạn vật . Tất cả mọi ngƣời
đều mong muốn đƣợc thƣởng thức ít nhất một bát tteokguk mỗi khi Tết đến . Và câu thành

ngƣ̃ này thƣờng đƣợc sƣ̉ dụng trong hoàn cảnh đó
, ý nói : Tết đến, ăn thêm một bát
tteokguk thì cũng già thêm một tuổi.
• Câu”일주일간 안감았더니 머리가 떡이 됐다”trong
tiếng Hàn nghĩa là”Mái tóc không gội suốt một tuần giống nhƣ
là tteok”. Ở đây ngƣời ta dùng câu nói này nhƣ một lời nhận xét
rằng: mái tóc của ai đó không gội trong suốt một tuần thì sẽ
không đƣợc sạch sẽ , sẽ giống nhƣ bánh tteok dính vào nhau
không thể gỡ ra đƣợc.
• Câu”떡이 되도록 술을 마셨다”nghĩa là”Uống rƣợu đến mức giống nhƣ là bánh
tteok”. Dùng để chỉ trạng thái say bí tỉ c ủa một ngƣời uống quá nhiều rƣợi đến mức không

261


3/2014

HỘI THẢO KHOA HỌC SINH VIÊN-KHOA TIẾNG HÀN QUỐC

kiểm soát đƣợc bản thân, mất hết lí trí, chân tay mềm nhũn nhƣ bột bánh.
• Câu”떡 주무르듯 한다”–”Làm nhƣ nắn bánh tteok vậy ”dùng để chỉ hành động áp
đặt, ép buộc, muốn mọi việc phải theo ý muốn của bản thân mình.
•”떡이 생기다”–”Đột nhiên có tteok” .Ngụ ý nói đến những
chuyện may mắn không ngờ tới hay đột nhiên có lợi lộc .
•”생각이 꿀떡 같다”nghĩa là ”Tâm trí giống nhƣ bánh mật ong
(ggultteok)”. Câu thành ngƣ̃ muốn nói đế n nhƣ̃ng ngƣời một khi đã có
suy nghĩ , kế hoạch làm điều gì đó thì thái độ làm việc đều rất tha thiết ,
đam mê.
•”웬 떡이냐”–”Cái gì thế này./Cái gì đây chứ?”
Ngƣời Hàn Quốc thƣờng dùng câu nói này nhƣ thể

hiện sƣ̣ bất ngờ khi gặp vận may hay lợi lộc một cách
không ngờ.
•”떡함지에 엎어지다”_”Rơi vào hố bánh Ttoek”Câu
thành ngữ có thể hiểu theo hai nghĩa:
- Thƣ́ nhất , câu thành ngƣ̃ nhằm ám chỉ và phê phán
nhƣ̃ng việc xấu xa hay nhƣ̃ng ngƣời có tâm đị a độc á c.
- Thƣ́ hai, khác với lớp nghĩa đầu tiên , câu thành ngƣ̃ lại dùng để nói đến nhƣ̃ng việ c
có kết quả rất tốt đẹp
Thông qua việc tì m hiểu một số hì nh ảnh bánh tteok chƣ́a đƣ̣ng trong ngôn ngƣ̃ Hàn
Quốc cụ thể là trong các câu tục ngƣ̃ , thành ngữ, quán dụng ngữ chúng ta không ch ỉ thấy
đƣợc những phong tục, kinh nghiệm từ ngàn đời xƣa của ngƣời dân Hàn Quốc, mà còn
cảm nhận đƣợc tầm quan trọng và sƣ̣ gắn bó của chiếc bánh tteok đối với sinh hoạt hằng
ngày của con ngƣời sống trên đất nƣớc xinh đẹp này.
IV. KẾT LUẬN
Nhìn chung, chỉ với hình ảnh chiếc bánh Tteok đơn
giản, nhỏ bé nhƣng ngƣời Hàn đã sáng tạo ra khá nhiều
câu tục ngữ, quán dụng ngữ rất có giá trị. Mỗi câu là một
tinh hoa, một vốn quý, một hoàn cảnh, một cách thức và
hoàn cảnh sử dụng cũng nhƣ ý nghĩa khác nhau. Bên
cạnh sự phong phú, đa dạng kể trên không thể phủ nhận
rằng tục ngữ, thành ngữ Hàn gắn liền với hình ảnh”bánh
Tteok”đã phần nào phản ánh đƣợc nhiều khía cạnh của cuộc sống, đem đến cho ngƣời đọc,
ngƣời nghe một thế giới tâm tƣ, những quan niệm đặc trƣng của ngƣời dân”xứ sở Kim
Chi”.
Thêm nữa, hình ảnh”bánh Tteok”gắn liền với tục ngữ, quán dụng ngữ Hàn Quốc còn

262


3/2014


HỘI THẢO KHOA HỌC SINH VIÊN-KHOA TIẾNG HÀN QUỐC

góp phần không nhỏ vào việc làm nên bản sắc văn hóa độc đáo của quốc gia này. Tuy chỉ
chiếm một số lƣợng nhỏ nhƣng đã phần nào phản ánh đƣợc đời sống tinh thần phong phú
của ngƣời dân Hàn Quốc.
Thông qua đề tài nhỏ này, hi vọng sẽ đem đến những cái nhìn mới mẻ cũng nhƣ cung
cấp một số nguồn tƣ liệu cho những ai quan tâm đến tục ngữ, thành ngữ, quán dụng ngữ
Hàn Quốc nói chung và tục ngữ, thành ngữ gắn liền với hình ảnh”bánh Tteok”nói riêng.
Song, đề tài nghiên cứu bánh Tteok trong ngôn ngữ Hàn Quốc chỉ đƣợc tiến hành với
tƣ cách cá nhân, dƣới góc nhìn của sinh viên đang theo học tiếng Hàn nên chắc chắn không
tránh khỏi những sai lầm, thiếu sót. Vì vậy, rất mong nhận đƣợc những ý kiến đóng góp,
phản hồi để những bản báo cáo tiếp sau có thể hoàn thiện hơn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] />[2] />[3] Tiếp cận văn hóa HÀN QUỐC (NXB Văn hóa – Thông tin - 2002)
[4] Traditional Food – A Taste of Korean Life (Copyright © 2010 by The Korea Foundation)
[5] 우리 음식 백가지 1
[6] />[7] Seasonal Customs Of Korea- David E. Shaffer
[8] />[9]
[10] koreacake.org
[11] />[12] />[13] />[14] />[15] 표준국어대사전

263



×