Tải bản đầy đủ (.pdf) (15 trang)

Áo dài và Hanbok - Trang phục truyền thống trong cuộc sống hiện đại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.71 MB, 15 trang )

HỘI NGHỊ KHOA HỌC SINH VIÊN KHOA HÀN LẦN THỨ 5

Tháng 3 - 2011

ÁO DÀI VÀ HANBOK - TRANG PHỤC TRUYỀN THỐNG
TRONG CUỘC SỐNG HIỆN ĐẠI
SVTH: Nguyễn Bảo Trâm (2H-10)
GVHD: Vương Thị Năm
I. Các khái niệm lí thuyết.
1.

Văn hóa.

Theo Giáo sư Viện sĩ Trần Ngọc Thêm định nghĩa trong cuốn “Cơ sở văn hóa
Việt Nam”thì “Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con
người sáng tạo và tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác giữa
con người với môi trường tự nhiên và xã hội”. Phải nói thêm rằng văn hóa ở đây là sản
phẩm do con người làm ra, nhưng đó phải là sản phẩm mang nhân tính, phục vụ đời
sống của con người chứ không phải hủy hoại nó. Vì bản thân từ “văn”trong tiếng Trung
Quốc đã có nghĩa là “đẹp”, bởi vậy những thứ như bom nguyên tử, các vũ khí giết
người,… cũng là sản phẩm do con người làm ra, nhưng đều không được xã hội coi là
văn hóa.
2. Trang phục truyền thống.
Trang phục truyền thống của mỗi quốc gia là bộ quần áo đặc trưng cho văn hóa
của đất nước đó, có nguồn gốc lâu đời, trải qua những thăng trầm thời gian cùng với đất
nước, phản ánh những nét đẹp về văn hóa, lịch sử, địa lí cũng như con người của đất
nước ấy. Một quốc gia có thể có nhiều trang phục truyền thống như Việt Nam có áo tứ
thân, áo mớ ba mớ bảy, Áo Dài… Có quốc gia còn chọn một bộ trang phục truyền thống
trở thành quốc phục (trang phục biểu tượng của quốc gia).
3. Hanbok.
Hanbok trong tiếng Hàn Quốc là 한복, nghĩa là “Hàn phục”, chỉ bộ trang phục


truyền thống của người Hàn Quốc. Theo định nghĩa trong 국어사전 (Từ điển Quốc
ngữ) của Hàn Quốc thì Hanbok là “trang phục truyền thống của quốc gia chúng ta (Hàn
Quốc). Ra đời trong thời đại Joseon, hiện nay Hanbok chủ yếu được mặc nhiều hơn
thường phục trong các dịp lễ tết, hội hè, ngày cúng giỗ, tang lễ. Đàn ông mặc jeogori
(áo ngắn) dài đến hông, bên dưới là quần rộng được buộc chặt ở gấu bằng daenim (dây
lưng), phụ nữ thì mặc jeogori ngắn và nhiều loại váy khác nhau. Cả nam và nữ đều
mang beoseon (tất trắng) dưới chân. Khi đi đâu đó thì mặc thêm durumagi (áo choàng
dài) cho lịch sự”. Hanbok còn có một tên gọi khác là 조선옷, để chỉ thời gian Hanbok
ra đời là vào thời đại Joseon (Triều Tiên).
4. Áo Dài.
Áo Dài là trang phục truyền thống của người Việt Nam. Tên gọi Áo Dài xuất phát
từ đặc điểm của chiếc áo là dài đến quá ngang đùi của người mặc. Gọi tên sự vật bằng
đặc điểm của nó cũng là một cách gọi phổ biến của người Việt. Vào khoảng thế kỉ thứ
29


HỘI NGHỊ KHOA HỌC SINH VIÊN KHOA HÀN LẦN THỨ 5

Tháng 3 - 2011

XIX, người phương Tây biết đến áo dài với tên gọi “long dress”, nghĩa là chiếc váy dài,
dựa trên đặc điểm bên ngoài của chiếc áo. Nhưng “long dress”hiện nay đã không còn
được sử dụng vì từ này không thể lột tả hết cái hồn dân tộc Việt ẩn chứa trong Áo Dài
mà chỉ làm cho người nghe hình dung ra một chiếc váy dài mà không có nét gì đặc biệt.
Bởi vậy mà trong các văn bản dịch về sau, “Áo Dài”được giữ nguyên để đảm bảo ý
nghĩa của nó, cũng như “bánh chưng”hay “nước mắm”… cũng đã không dịch sang các
thứ tiếng khác để người đọc có thể phần nào cảm nhận được “hồn Việt”trong bản thân
những con chữ ấy.
II. Nghiên cứu Áo Dài và Hanbok trong thời hiện đại.
1. Khái quát lịch sử và nguồn gốc ra đời của Áo Dài và Hanbok.

a.

Vài nét về lịch sử và nguồn gốc ra đời của Áo Dài.

Chưa có một tài liệu nào cho biết nguồn gốc chính thức của Áo Dài. Nhiều người
cho rằng bản “ghi chép”đầu tiên về Áo Dài chính là chiếc trống đồng Đông Sơn – Ngọc
Lũ, Hà Nam, trên mặt trống có khắc hình người mặc áo xẻ hai tà. Theo cuốn kể chuyện
“Chín Chúa, Mười Ba Vua Triều Nguyễn”của Tôn Thất Bình, trong bài “Những Trang
Ðầu của Lịch Sử Áo Dài”có đoạn như sau: “Thế là do tinh thần độc lập, muốn dân
chúng trong địa phận mình cai trị mang y phục riêng để phân biệt với miền Bắc,
Nguyễn Phúc Khoát hiểu dụ: “Y phục bản quốc vốn có chế độ, địa phương này từ trước
cũng chỉ tuân theo quốc tục, nay kính vâng thượng đức, dẹp yên cõi biên, trong ngoài
như nhau, chính trị và phong tục cũng nên thống nhất... Ðổi may y phục thì theo tục
nước mà thông dụng vải, lụa, duy có quan chức thì mới cho dùng xen the, là, trừu, đoạn,
còn gấm vóc và các thứ hoa rồng phượng thì nhất thiết không được quen thói cũ dùng
càn. Thường phục thì đàn ông, đàn bà dùng áo cổ đứng ngắn tay, cửa ống tay hoặc
rộng hoặc hẹp tùy tiện. Áo thì hai bên nách trở xuống phải khâu kín liền không cho xẻ
mớ. Duy đàn ông không muốn mặc áo cổ tròn và hẹp tay cho tiện làm việc thì cũng
được. Lễ phục thì dùng áo cổ đứng tay dài, vải xanh chàm hoặc vải đen, hay vải trắng
tùy nghi. Còn các bức viền cổ và kết lót thì đều theo như điều hiểu dụ năm trước mà chế
dùng”. Nếu căn cứ theo tài liệu kể trên thì chiếc Áo Dài Việt Nam đã ra đời vào thế kỷ
XVIII, trong thời Chúa Nguyễn Phúc Khoát (1739-1765). Cũng có tài liệu cho rằng
trang phục ra đời trong thời Nguyễn Phúc Khoát có hình dáng khá giống với tứ thân
ngày nay và đó được coi là tiền thân của chiếc Áo Dài.
Từ đó tới nay Áo Dài đã trải qua nhiều thay đổi. Vào những năm 1930, nhóm văn
sĩ trong Tự Lực Văn Ðoàn đã chủ xướng cuộc cải cách văn hóa, tư tưởng mới cho thế
hệ trẻ. Trong nhóm này có hai họa sĩ du học từ Pháp về, đó là Nguyễn Cát Tường và Lê
Phổ, dùng hai tờ báo Ngày Nay và Phong Hóa làm phương tiện truyền bá của nhóm.
Hai họa sĩ đã vẽ và chỉnh trang kiểu áo dài phụ nữ gọi là áo “Le Mur Cát Tường”(Le
Mur tiếng Pháp nghĩa là bức tường) cổ cao, không có eo. Sau đó bà Trịnh Thục Oanh,

một hiệu trưởng của trường nữ Trung học Hà Nội, đã làm thêm một cuộc cải cách táo
bạo hơn, bà nhấn eo chiếc áo, ôm sát theo đường nét mỹ miều duyên dáng của phái nữ.
30


HỘI NGHỊ KHOA HỌC SINH VIÊN KHOA HÀN LẦN THỨ 5

Tháng 3 - 2011

Vậy là chiếc áo dài gần giống với ngày nay nhất đã ra đời (cổ cao, tay dài, tà áo dài tầm
đầu gối, đi cùng quần dài đến gót, nam đội khăn xếp, nữ đội khăn vấn).
b.

Vài nét về lịch sử và nguồn gốc ra đời của Hanbok.

Hanbok đại diện cho một trong những khía cạnh dễ thấy nhất của văn hóa Hàn
Quốc, đó chính là văn hóa mặc. Hanbok truyền thống của Hàn Quốc có nguồn gốc cách
đây rất nhiều năm, căn cứ theo những hình vẽ trên những bức tường trong các lăng tẩm
của nhà vua từ tận thời Tam Quốc Triều Tiên (thời đại Goguryeo, Silla và Baekje, từ
năm 57 trước Công Nguyên đến năm 668 sau Công Nguyên). Vào thời Goguryeo, trang
phục của người Hàn chịu ảnh hưởng rất nhiều của Trung Hoa và Phật giáo. Đó chính là
thời điểm khởi đầu của Hanbok.
Cuối thời Tam Quốc Triều Tiên, những người phụ nữ quý tộc mới bắt đầu mặc áo
khoác dài tới ngang hông (được thắt lại ở eo) và váy dài phủ kín chân, còn đàn ông quý
tộc thì mặc quần rộng, bo lại ở mắt cá chân và áo chẽn có thắt lưng ở eo. Ở thời Cao Ly
(918–1392), chima được mặc ngắn hơn, jeogori chỉ mặc tới eo và trên ngực có thắt một
chiếc nơ (thay cho thắt lưng) còn ống tay áo được cắt lượn một đường cong rất nhẹ
nhàng và thanh thoát. Trong triều đại Triều Tiên, jeogori của phụ nữ được thiết kế chật
hơn và ngắn hơn. Vào thế kỷ XVI, jeogori rất rộng và dưới tận dưới eo, nhưng đến cuối
triều vua Triều Tiên (thế kỷ XIX), chiếc áo này còn được thiết kế ngắn lại tới mức nó

không che được hết ngực. Thời cuối triều Triều Tiên người dân Hàn Quốc mặc
chima dài và jeogori ngắn, vừa vặn. Dưới lớp chima người ta phải mặc rất nhiều lớp váy
lót để váy phồng lên và đẹp hơn. Như vậy có thể khẳng định một số thành phần cơ bản
của Hanbok ngày nay như áo jeogori, quần (baji) và váy (chima) có lẽ đã được mặc từ
rất lâu đời nhưng mãi đến thời Tam Quốc Triều Tiên thì kiểu áo hai phần như ngày nay
mới định hình.
2. Đặc điểm của Áo Dài và Hanbok trong cuộc sống hiện đại.
Thời xưa khi tình trạng phân chia giai cấp còn nặng nề thì ở cả Việt Nam và Hàn
Quốc, chất liệu và màu sắc, hoa văn của trang phục chính là căn cứ phân biệt tầng lớp
xã hội. Thời tiết ở Việt Nam nóng hơn nhưng cả hai nước đều có mùa đa dạng nên chất
liệu làm trang phục truyền thống rất nhiều loại, màu sắc hoa văn cũng theo chất liệu mà
biến đổi cho phù hợp và nói chung rất phong phú, bắt mắt, thể hiện sự tinh tế trong cách
sáng tạo. Nếu như thời xưa sự đa dạng ấy là để phân biệt giai cấp thì ở thời nay chúng
được phục vụ cho nhu cầu mặc đẹp ngày càng cao của người dân. Các nhà thiết kế cũng
đã biến đổi chất liệu, kết cấu, kiểu dáng và màu sắc rất nhiều để làm phong phú thêm sự
lựa chọn cho khách hàng. Áo Dài và Hanbok vẫn giữ nguyên được những nét đẹp đặc
trưng, những ý nghĩa tiềm ẩn sâu xa mà lại được cách tân để có thêm nhiều đặc điểm
phù hợp hơn với cuộc sống hiện đại. Không còn chuyện người có tiền mới có thể mặc
trang phục sặc sỡ, làm từ lụa, tơ tằm hay các loại vải cao cấp nữa. Ở thời hiện đại, bất
cứ ai cũng có thể mặc trang phục truyền thống bằng chất liệu bất kì với màu sắc, hoa
văn nào mà mình mong muốn. Điều quan trọng hơn cả là Áo Dài và Hanbok đã trải qua
31


HỘI NGHỊ KHOA HỌC SINH VIÊN KHOA HÀN LẦN THỨ 5

Tháng 3 - 2011

cuộc cách mạng cách tân rất độc đáo để phục vụ tối đa nhu cầu của người dân, để trang
phục truyền thống có thể trở thành một phần thường trực trong cuộc sống của người dân

hiện đại.
2.1.Chất liệu của Áo Dài và Hanbok.
Chất liệu may Áo Dài truyền thống là lụa tơ tằm. Khi thời tiết nóng thì satin hay
được dùng, thậm chí ngày nay vải bông thấm mồ hôi trên nền vải co dãn còn được sử
dụng để tạo cho người dùng sự thoải mái nhất trong mùa hè. Đó là áo còn đối với quần
của Áo Dài thì vẫn thường được may bằng satin trắng, những màu nhạt hoặc tùy vào
màu của áo. Mùa đông thì thường các chị em sẽ mặc thêm một chiếc áo khoác lửng để
giữ ấm, đàn ông sẽ mặc thêm áo khoác gile. Tuy vậy cũng có một cách khác là sử dụng
vải nhung hay may cho người có tuổi, và để tạo sự trẻ trung thì chỉ cần thắt eo, may cổ
thuyền ở áo nữ, hay sử dụng tà nhỏ, ôm sát người là được.
Thời xưa ở Hàn Quốc, màu sắc, hoa văn và chất liệu của Hanbok cũng chính là
căn cứ phân biệt giai cấp. Hanbok của tấng lớp thượng lưu được dệt từ cây gai hoặc một
loại vải nhẹ cao cấp. Người dân thường thì chỉ được phép mặc áo làm bằng vải bông
đơn thuần. Hiện nay thì chất liệu phổ biến cho Hanbok là vải gai, bông, muslin, lụa và
satin. Mùa hè thì những chất liệu mỏng và nhẹ hơn được sử dụng để khắc phục phần
nào sức nóng của nhiều lớp áo. Đặc biệt vào mùa thu, phụ nữ Hàn Quốc rất chuộng
Hanbok may bằng lụa tơ, bởi khi đi lại sẽ tạo ra âm thanh xào xạc như bước trên lá khô
vậy. Vì là đất nước hàn đới nên mùa đông ở Hàn Quốc rất lạnh. Người Hàn thường mặc
thêm áo khoác dày hoặc mặc Hanbok may bằng vải bông dày. Người dân ở phương Bắc
thì còn có thêm lông ở trong vải áo để giữ ấm.
2.2. Kết cấu, kiểu dáng của Áo Dài và Hanbok.
2.2.1. Kết cấu và kiểu dáng của Áo Dài.
Đối với cả nam và nữ Áo Dài đều gồm hai bộ phận: áo dài quá đầu gối và quần
dài tới gót chân. Thời xưa tà áo dài được may ngắn hơn, có khi trên đầu gối và áo dài
của nữ thì không được thắt eo. Hiện nay thì tà áo của cả nam và nữ đều dài quá đầu gối
hoặc hơn, áo nữ được thắt eo. Ống tay may dài đến cổ tay, ống quần rộng và dài đến gót.
Ống tay của Áo Dài nữ hiện nay được cách tân cho điệu đàng hơn như may tay lỡ, tay
bồng, tay xòe. Cố tay áo có thể không may trơn như trước mà được đính trên ren hay
thêu thùa rất tỉ mỉ để tạo điểm nhấn cho chiếc áo. Mạnh dạn hơn cũng đã có nhà thiết kế
làm tay áo trở thành tay cánh tiên (tay áo rất ngắn gần sát vai) hoặc bỏ hẳn phần tay áo

để nhấn mạnh nét cá tính táo bạo và trẻ trung của người mặc.
Cúc của Áo Dài được may từ cổ áo chéo xuống vai phải và kéo dài đến eo bên
phải, kết thúc bằng một móc gài. Trước đây là may cúc cài nút vải nhưng sau này được
thay bằng cúc bấm tiện lợi hơn và không làm cho Áo Dài bị lộ nét. Thậm chí ở Áo Dài
nữ hiện nay, cúc không còn mà thay vào đó là khóa kéo đằng sau lưng giống như váy
Tây. Cổ Áo Dài cũng không đơn giản chỉ là cổ cứng may cao nữa. Tuy với Áo Dài nam
32


HỘI NGHỊ KHOA HỌC SINH VIÊN KHOA HÀN LẦN THỨ 5

Tháng 3 - 2011

vẫn chuộng kiểu cổ áo này để tạo sự trang trọng nhưng Áo Dài nữ đã có nhiều biến hóa
hơn để tôn thêm vẻ đẹp của các chị em. Áo Dài nữ có thể may cổ tròn, cổ vuông, cổ chữ
V, cổ rộng lộ hai vai hay cổ đứng… Cũng có trường hợp Áo Dài được thay thế phần cổ
bằng dây vải, hai dây hoặc một dây dài vòng qua cổ để làm Áo Dài dự tiệc hay biểu
diễn.

Kết cấu Áo Dài truyền thống

Áo Dài nam được mặc che kín người, cả áo và quần đều khá rộng rãi, dễ mặc và
dễ cử động . Trong khi đó Áo Dài nữ lại có đặc điểm là ôm sát thân hình người mặc và
tà áo xẻ trên cạp quần. Đây là đặc điểm làm cho Áo Dài được đánh giá là bộ trang phục
kín đáo và tinh tế mà không hề kém phần quyến rũ. Dáng áo bó làm tôn lên nét đẹp thể
hình của người phụ nữ và tà áo xẻ cao để lộ ra một phần cơ thể rất gợi cảm. Cả quần của
Áo Dài nam và nữ trước đây đều được may cạp đi cùng cúc cài, nhưng hiện nay quần
cạp chun được ưa chuộng hơn vì tiện lợi và phù hợp với nhiều cỡ người.
Phụ kiện đi kèm với Áo Dài là khăn vấn cứng, của nam là khăn vấn nhiều lớp và
to bản, còn của nữ là khăn vấn bản mỏng và được vấn cao. Áo Dài nữ còn thường đi

cùng với nón lá, một đặc trưng của trang phục Việt Nam. Nữ sinh trung học mặc Áo Dài
ngày nay cũng thường đội mũ rộng vành nhiều kiểu rất phong phú. Người Việt trước
mặc Áo Dài thường đi guốc mộc, thời nay thì nữ đi guốc nhiều kiểu, nam thường đi
giày da.
2.2.2. Kết cấu và kiểu dáng của Hanbok.
Không như những bộ Hanbok trong hoàng gia hoặc Hanbok cầu kì mặc trong dịp
lễ hội, Hanbok thường ngày rất đơn giản. Jeogori và chima được thay đổi độ dài, nơ
33


HỘI NGHỊ KHOA HỌC SINH VIÊN KHOA HÀN LẦN THỨ 5

Tháng 3 - 2011

otgoreum cũng có thể ngắn cho gọn lại hay váy chima được làm xòe ít hơn nhưng vẫn
đảm bảo rộng rãi và dễ cử động. Dáng Hanbok nữ tuy không ôm sát người như Áo Dài
nữ nhưng chính đặc điểm jeogori ngắn và chima dài ở nữ và thắt lưng delleyong được
thắt cao ở nam đã làm cho người mặc có dáng vẻ cao và thanh thoát hơn.
Hanbok nữ bao gồm hai phần chính là jeogori và chima. Jeogori là áo khoác ngắn,
chima là váy thắt eo cao. Jeogori có thể ngắn chỉ vừa đủ che ngực hoặc dài đến eo (với
hình dáng lưỡi liềm cong lên hoặc đơn giản là gấu áo thẳng). Đi kèm với jeogori là nơ
otgoreum, được tạo nên từ hai dải vải dài buộc chặt vào nhau. Bên cạnh đó cũng không
thể thiếu tất trắng beoson và những đôi giày hình chiếc thuyền. Ngoài ra còn mặc một
lớp “hanbok trong”cũng có thể có jeogori nhưng tất cả đều là màu trắng.
Hanbok nam bao gồm jeogori, quần baji và áo choàng durumagi. Áo choàng
durumagi dài đến đầu gối hoặc hơn, jeogori ngang hông, quần baji thì rộng và bó ở gấu.
Đi kèm với Hanbok nam là mũ (gat), dây buộc ngang lưng dalleyong và giày. Cũng như
hanbok nữ, hanbok nam cũng có một lớp mặc trong màu trắng.
Đi cùng với hanbok ngoài các kiểu mũ đội đầu của nam ra còn có rất nhiều phụ
kiện của nữ như trâm, hoa cài, mũ, dây buộc tóc,… đặc biệt rất nhiều màu sắc và đa

dạng. Cũng như Áo Dài, Hanbok không có túi nên người mặc thường mang những túi
nhỏ làm bằng lụa, có thể thêu thêm họa tiết, gọi là joomeoni.

Kết cấu Hanbok nam và nữ
2.3. Màu sắc và hoa văn, họa tiết trên Áo Dài và Hanbok.
2.3.1. Màu sắc và hoa văn, họa tiết trên Áo Dài.
Tất cả nam nữ, già trẻ đều có thể mặc, lại có thể mặc trong nhiều dịp khác nhau
nên màu sắc và hoa văn của Áo Dài rất phong phú.

34


HỘI NGHỊ KHOA HỌC SINH VIÊN KHOA HÀN LẦN THỨ 5

Tháng 3 - 2011

Đối với nam thường dùng màu đơn giản, hoặc một tông màu trầm lịch sự, hoặc
một tông màu sáng nhạt trẻ trung nhưng không quá màu mè, ví dụ như người xưa
thường dùng các sắc trắng, đen hoặc lam thẫm, ngày nay thì các tông đậm nhạt của màu
lam là thường được sử dụng, ngoài ra có thể thêm các màu khác như xanh lá nhạt, cam
nhạt, huyết dụ… Đối với nữ thì sự lựa chọn rộng rãi hơn nhiều, bất cứ màu nào cũng có
thể dùng được.
Nếu xét về độ tuổi thì cả già trẻ cũng đều mặc được Áo Dài. Những người lớn tuổi
thường mặc màu tối dù là nam hay nữ để nhấn mạnh sự đứng đắn. Các bác trai thì
thường chọn tông trắng đen, lam đậm; các bác gái thì thường ưa tông nâu, lam… Ngoài
ra vải may Áo Dài cho các bác gái thường là vải nhung vì nhung ấm hơn và làm cho
người mặc có nét khá sang trọng. Còn về phần Áo Dài cho trẻ em thì sử dụng màu sắc
trong sáng và tươi tắn cho phù hợp với lứa tuổi và sự ngây thơ, nghịch ngợm của các em,
và vì các em rất năng động nên loại vải bông pha thường được sử dụng vì thấm mồ hôi
rất tốt.

Màu sắc của Áo Dài cũng phụ thuộc vào dịp mặc nữa. Người Việt thường sử dụng
màu đỏ cho Áo Dài của cô dâu hoặc để may Áo Dài vào ngày Tết Âm Lịch, với ý nghĩa
cầu mong may mắn và hạnh phúc. Những người đi dự đám cưới hoặc đi tới các lễ hội
truyền thống, tập trung vào thời gian Tết Âm Lịch hoặc Trung Thu, thì thường mặc Áo
Dài nhiều màu nhiều kiểu khác nhau để thể hiện tính chất vui mừng của sự kiện. Người
Việt không thường mặc Áo Dài trong tang lễ mà mặc đồ xô gai trắng, nay thì trang phục
tang chủ yếu màu đen, hoặc không màu trắng cũng có thể mặc được.
Thêm vào đó, hoa văn và họa tiết của Áo Dài cũng có rất nhiều kiểu. Đơn giản
nhất là Áo Dài trơn, nghĩa là may bằng vải không có trang trí thêm hoa văn họa tiết gì
mà chỉ tạo nên vẻ đẹp dựa vào màu sắc và bản thân chất liệu vải. Đây là chất liệu mà
các nữ sinh miền Nam Việt Nam thường lựa chọn để may Áo Dài làm đồng phục đi học.
Vì yêu cầu của trường nên Áo Dài đồng phục nhất thiết phải là màu trắng. Nhưng hiện
nay họ đã có
nhiều sự lựa chọn hơn. Vẫn dựa trên chất liệu Áo Dài trắng nhưng vải có thể có in
hoa văn chìm (vải giả gấm) rất đẹp mắt, cầu kì hơn thì kết hợp vải lụa pha bông cho
phần áo trên, còn phần tà và tay áo thay bằng voan mỏng, hoặc kết thêu hoa, đính
cườm,… tăng vẻ đẹp cho chiếc áo. Có thể kết hợp nhiều chất liệu trên một chiếc Áo Dài,
trang trí bằng những họa tiết thêu tay tỉ mỉ và tinh tế, hay đính cườm, đính đá, đính ngọc
trai, v.v…
Hoa văn trên áo dài rất đa dạng, nhưng nói chung thường thiên về thiên nhiên như
hoa lá hoặc những hình ảnh đặc trưng của đất nước như hoa sen, hình danh lam thắng
cảnh, hoặc trang trọng hơn là hình rồng phượng. Đặc biệt trong dịp Tết, Áo Dài màu đỏ
thường in hình những đồng tiền vàng với mong muốn năm mới giàu sang phú quý.

35


HỘI NGHỊ KHOA HỌC SINH VIÊN KHOA HÀN LẦN THỨ 5

Tháng 3 - 2011


2.3.2. Màu sắc và hoa văn, họa tiết trên Hanbok.
Hoa văn trong Hanbok cũng thường thiên về các họa tiết thiên nhiên hoặc những
hình sang trọng như rồng phượng, có thể là in chìm trên nền vải lụa, satin, gấm,… hoặc
thêu tay đủ các hình thù rất cầu kì và tinh tế. Một họa tiết cũng khá phổ biến trên
Hanbok là hình tròn âm dương, hoặc hình tròn chia làm ba phần với ba màu cơ bản là
đỏ, vàng và lam.
Cũng giống như Áo Dài, tất cả mọi lứa tuổi đều mặc được Hanbok. Thời xưa ở
Hàn Quốc giới thượng lưu được mặc quần áo nhiều màu sắc sặc sỡ, những màu sáng
được dành cho trẻ em và các bé gái, còn màu dịu hơn thì dành cho những người trung
niên. Luật xưa còn quy định người dân thường chỉ được phép mặc quần áo mà trắng,
nhưng trong những dịp đặc biệt họ được cho phép mặc các trang phục màu hồng nhạt,
xanh lá cây nhạt, xám và màu than. Lịch sự hơn, khi đàn ông đi ra ngoài, họ mặc thêm
durumagi dài tới đầu gối. Hanbok cho giới trẻ và cho trẻ em chung một đặc điểm là đa
sắc màu, thường là màu sáng và hoa văn khá phong phú. Còn Hanbok cho người lớn
tuổi thường sử dụng vải trơn, gam màu ít nổi bật hơn để tạo sự trang trọng.
Hanbok vốn nổi tiếng cả thế giới về sự đa sắc bởi màu sắc Hanbok không phụ
thuộc nhiều vào dịp mặc, chỉ trừ tang lễ thì người Hàn Quốc thường mặc Hanbok bằng
vải gai trắng hoặc dùng vải đen, nếu là người thân của người đã mất thì nữ thường đeo
một chiếc nơ nhỏ màu trắng trên tóc. Hanbok cho lễ cưới thì thường có họa tiết rồng
phượng, những họa tiết xưa được thêu rất tỉ mỉ trên các bộ Hanbok của hoàng gia hoặc
Hanbok mặc khi tham gia vào những sự kiện lớn.
3. Sự cách tân và ứng dụng của Áo Dài và Hanbok trong cuộc sống hiện đại.
3.1. Những nét cách tân của Áo Dài.
Trải qua quá trình ra đời và phát triển gần bốn thế kỉ, từ thế kỉ XVIII đến nay, Áo
Dài đã có những sự cách tân đáng kể. Không chỉ chất liệu và hoa văn trở nên phong phú
hơn, mà kết cấu của Áo Dài cũng phần nào thay đổi.

Một hình dáng Áo Dài hiện đại
36



HỘI NGHỊ KHOA HỌC SINH VIÊN KHOA HÀN LẦN THỨ 5

Tháng 3 - 2011

3.1.1. Về hoa văn.
Về cơ bản họa tiết trên Áo Dài ít thay đổi, chỉ là phong phú chủng loại hơn. Vẫn
là những hình dáng quen thuộc như hoa sen, con cò, đồng tiền, các loại cây, hoa hay in
rồng phượng. Điều đáng chú ý là trước đây họa tiết Áo Dài chủ yếu là thêu thủ công.
Nhưng giờ đây công nghệ đã rất phát triển, họa tiết có thể được thêu bằng máy, được
dệt, được in hoặc như các chi tiết kiểu cườm, đá, kim sa,… thì có thể được đính rất tỉ mỉ.
3.1.2. Về chất liệu.
Chất liệu truyền thống của Áo Dài là lụa. Vải lụa được dệt từ tơ, loại lụa tốt nhất
là tơ tằm. Đặc tính của lụa là phản chiếu ánh sáng tốt nên có vẻ ngoài óng ánh, bên cạnh
đó chất vải mịn và mượt mà thích hợp để may trang phục tôn dáng phụ nữ. Lụa bền
chắc, giữ nhiệt tốt nên rất tốt trong thời tiết lạnh. Tuy nhiên lụa dễ dính vào cơ thể, độ
bền chắc giảm khi bị ướt hoặc phơi nắng, bị vàng bởi mồ hôi nên không thích hợp với
khí hậu nóng ẩm mưa nhiều của Việt Nam. Độ co giãn của lụa cũng không tốt. Bởi vậy
mà chất liệu lụa không thích hợp với Áo Dài trong cuộc sống năng động hiện nay.
Cách sản xuất không phức tạp như lụa dẫn đến giá thành rẻ hơn, chất vải cũng
mịn và mượt, dày và bền hơn nhưng cấu trúc vải lại thoáng hơn lụa nên satin bắt đầu
được ưa chuộng hơn trong may Áo Dài. Một xu hướng cũng rất thịnh hành hiện nay là
sử dụng vải nhân tạo pha bông may trên nền vải co dãn. Tác dụng của loại vải này là
thấm mồ hôi, kết cấu vải thoáng mát, lại co dãn nên phù hợp với cả những người ngoại
cỡ. Vải nhân tạo pha bông vì thường được thêm đặc tính co giãn nên khi may rồi mặc
thường khá bó sát người, vẫn giữ được tính chất tôn lên dáng vẻ cơ thể của người phụ
nữ. Nền vải nhân tạo pha bông cũng dễ dàng thêu, in, đính họa tiết và nhiều kiểu trang
trí khác. Những đặc tính rất phù hợp với cuộc sống hiện đại mà lại vẫn giữ được những
nét đẹp truyền thống của Áo Dài đã khiến loại vải này trở nên rất phổ biến trong thời đại

hiện nay.
Một loại vải nữa cũng thường dùng khi may Áo Dài là vải nhung. Đặc điểm của
vải nhung là mềm, óng và khá ấm áp. Vải nhung mịn và óng tạo cảm giác sang trọng,
chất lại khá dày nên thường dùng để may Áo Dài cho người cao tuổi. Vải nhung thường
nhuộm màu trầm nên thích hợp với những họa tiết thêu hoặc đính đá, đính cườm óng
ánh, sẽ khiến cho chiếc áo vừa nữ tính mà vừa sang trọn, đứng đắn.
Vải may Áo Dài nữ cũng thường kết hợp với vải voan. Voan tuy không thấm mồ
hôi nhiều nhưng cũng khá mỏng, lại có màu đục nên khi may lên không che được hết
thân thể, thường được dùng để may tà, tay Áo Dài hoặc xen vào trên áo cho thêm phần
duyên dáng và gợi cảm. Nếu may thêm voan thì ren cũng thường được sử dụng để tăng
nét nữ tính.
3.1.3. Về kết cấu.
Hai bộ phận chính của Áo Dài là quần và áo vẫn không thay đổi. Tuy nhiên các
chi tiết trên áo đã có sự chuyến biến khá nhiều, làm đa dạng thêm kiểu dáng của Áo Dài,
37


HỘI NGHỊ KHOA HỌC SINH VIÊN KHOA HÀN LẦN THỨ 5

Tháng 3 - 2011

phù hợp với nhu cầu và thể hiện cá tính của người mặc. Quần của Áo Dài không có
nhiều thay đổi, có chăng chỉ là bên cạnh loại cạp thường có thêm cạp chun để phù hợp
với nhiều cỡ người hơn. Những thay đổi chủ yếu diễn ra ở phần áo của Áo Dài.
Tà Áo Dài là bộ phận có ít sự thay đổi. Tà Áo Dài cả trước và sau dài bằng nhau,
đều có hình chữ nhật. Cũng có trường hợp góc cạnh tà được vát đi nhưng vì nếu làm
vậy sẽ mất đi hình dáng đặc trưng của Áo Dài nên kiểu tà này không thịnh hành. Từ khi
ra đời đến nay, tà Áo Dài chủ yếu thay đổi về chiều dài. Trước đây tà áo ngắn hơn, chỉ
quá đầu gối một chút, nay được kéo dài đến tầm ngang ống đồng. Sự thay đổi này nhằm
mục đích tạo cho người mặc một dáng vẻ cao và thanh lịch hơn.

Nếu như cả tà Áo Dài nam và nữ đều thay đổi như trên thì phần tay và cổ của Áo
Dài nữ mới có nhiều cải biến, còn của nam vẫn gần như Áo Dài truyền thống. Phần tay
của Áo Dài cũng đã được cách tân khá nhiều. Mặc dù người dân bình thường vẫn mặc
kiểu dài tới cổ tay nhưng với một số dịp đặc biệt lại khác. Tay Áo Dài có thể được làm
thành tay lỡ duyên dáng hoặc tay ống loe với vải mềm rủ xuống rất nữ tính. Cá tính hơn
là kiểu tay Áo Dài cánh tiên ngắn chỉ quá bắp tay, hoặc hơn nữa là cộc tay, cổ áo trở
thành kiểu áo yếm tứ thân. Cũng có thời mốt Áo Dài tay bồng, nhưng sau kiểu này
không được sử dụng rộng rãi vì nhìn giống kiểu váy Tây, làm mất đi nét đặc trưng của
Áo Dài. Hầu hết các kiểu cách điệu của tay Áo Dài làm tăng nét nữ tính hoặc nhấn
mạnh cá tính của người mặc nên đối tượng sử dụng chính là giới trẻ.
Cổ Áo Dài truyền thống được may cao, che gần hết cổ người mặc, xẻ ra từ chính
giữa sang hai bên cổ người mặc theo hình rẻ quạt. Dáng cổ Áo Dài kiểu này tôn lên vẻ
đẹp của phần cổ, vì sẽ làm cho nó trở nên thon gọn hơn. Tuy nhiên cổ Áo Dài ôm sát
thường tạo cảm giác cứng, nên cổ Áo Dài hiện nay đã được cách tân thành nhiều kiểu,
không những để thoải mái hơn mà còn bộc lộ cá tính người mặc. Cổ Áo Dài hiện nay
thường là cổ tròn, nếu thoải mái hơn thì cổ áo khoét sâu xuống, theo hình chữ V hoặc
hình ovan vắt ngang vai. Cổ Áo Dài cũng có thể vẫn giữ dáng cũ, nhưng thay vì may
trơn có thể may nhún ren. Một kiểu cổ Áo Dài hiện nay cũng được các nữ sinh khá ưa
chuộng đó là kiểu cổ “giả tứ thân”, nghĩa là phần cổ Áo Dài được thiết kế giống như có
mặc áo yếm của tứ thân ở bên trong, nhưng thực chất đó chỉ là cổ giả… Rất nhiều kiểu
dáng của cổ Áo Dài đã góp phần làm cho bộ trang phục này ngày càng đáp ứng tốt hơn
nhu cầu mặc đẹp của công chúng.
3.1.4. Ứng dụng của Áo Dài trong cuộc sống hiện đại.
Những người thường xuyên mặc Áo Dài chính là các nữ sinh trung học phổ thông
ở miền Nam Việt Nam. Hầu hết các trường trung học phổ thông ở đây đều yêu cầu nữ
sinh mặc Áo Dài trắng khi đi học, một số trường thì chỉ yêu cầu mặc vào ngày thứ hai
đầu tuần. Không giống trong miền Nam, nữ sinh trung học miền Bắc không bắt buộc
mặc Áo Dài, nhưng ở các sự kiện quan trọng của trường như kỉ niệm ngày thành lập
trường, khai giảng, bế giảng thì hình ảnh Áo Dài trắng vẫn thường xuất hiện. Nữ sinh
miền Trung, đặc biệt là thành phố Huế thì nổi tiếng với tà Áo Dài tím đi cùng nón lá Bài

38


HỘI NGHỊ KHOA HỌC SINH VIÊN KHOA HÀN LẦN THỨ 5

Tháng 3 - 2011

Thơ, hình tượng đã trở thành đặc trưng của vùng đất này và cũng đã đi vào rất nhiều các
tác phẩm văn học. Ngoài ra Áo Dài còn được mặc khi chụp ảnh cưới và trong các buổi
liên hoan nghệ thuật, trình diễn thời trang.
Áo Dài còn đi vào cuộc sống hằng ngày ở các công sở. Đến Việt Nam có thể thấy
nhân viên tiếp tân của một số công ty, khách sạn, các nhân viên nhà sách hay đặc biệt
hơn tiếp viên hàng không của Hãng hàng không Quốc gia Vietnam Airlines cũng đều
dùng Áo Dài làm đồng phục khi làm việc. Những hình ảnh nữ sinh mặc Áo Dài đã khắc
sâu vào tâm trí người Việt, và qua trang phục của các nữ tiếp viên hàng không, tà Áo
Dài của Việt Nam lại càng được bạn bè quốc tế biết đến. Thậm chí tại Diễn đàn kinh tế
châu Á - Thái Bình Dương (APEC) năm 2006 tại Trung tâm hội nghị quốc gia, Hà Nội,
21 nhà lãnh đạo APEC đã cùng mặc Áo Dài chụp ảnh kỉ niệm khi kết thúc hội nghị. Áo
Dài không chỉ ảnh hưởng đến cuộc sống của người dân Việt Nam nữa mà đã được đông
đảo bạn bè thế giới biết đến và ngưỡng mộ.
3.2. Những nét cách tân của Hanbok.
Bên cạnh Hanbok truyền thống thì Hanbok cách tân ngày nay có hai loại phổ biến
là Saenghwal Hanbok và Gaeryang Hanbok, ả hai loại này đều được thiết kế đơn giản đi
so với Hanbok truyền thống. So với Áo Dài thì hai loại Hanbok có rất ít sự thay đổi về
chất liệu và hoa văn mà phần nhiều là ở kết cấu, chủ yếu là ở chiều dài của jeogeori và
chima. Nếu như ban đầu jeogeori dài đến ngang eo, cạp trên của chima cũng cao đến đó
thì sau này jeogori được rút ngắn lại, chỉ vừa đủ che hết ngực, còn cạp của chima thì
được nâng cao lên, mặc đến quá ngực và độ dài được giảm bớt. Vì đặc điểm của chima
là xòe khá rộng nên thay đổi như vậy làm giảm sự vướng víu của bộ trang phục và tạo
cho người mặc dáng vẻ cao ráo thanh thoát hơn. Cũng giống như Áo Dài, những cách

điệu của Hanbok chủ yếu diễn ra ở Hanbok nữ. Hanbok nam đương đại chỉ có điểm
khác là áo choàng durumagi dài thường được người mặc thay bằng áo khoác cộc tay và
chỉ dài qua hông. Hanbok nam kiểu này thường xuyên được đông đảo người dân sử
dụng vì vẫn giữ được vẻ trang nghiêm đứng đắn mà khi mặc lại thuận tiện hơn mặc
durumagi dài.
Tuy nhiên mục đích sử dụng của hai loại Hanbok này là khác nhau nên những nét
cách tân cũng có phần khác. Saenghwal Hanbok được thiết kế để thuận tiện hơn trong
sinh hoạt hằng ngày. Tuy phần lớn người dân Hàn Quốc mặc trang phục hiện đại khi đi
làm và Hanbok chỉ được mặc vào các dịp lễ tết, hiếu hỉ, nhưng cũng có rất nhiều người
mặc loại Saenghwal Hanbok này hằng ngày để làm việc. Bởi vải của Saenghwal
Hanbok là những loại vải bền, dễ mặc, dễ bảo quản. Saenghwal Hanbok cũng được giản
lược đi, chỉ còn quần bó gấu hoặc váy ngắn hơn so với Hanbok truyền thống, đi cùng
với áo dài đến ngang hông. Vì mục đích chính là để sinh hoạt hằng ngày thuận tiện hơn
nên màu sắc và họa tiết của Saenghwal Hanbok có phần đơn giản. Saenghwal Hanbok
đa phần được những người đứng tuổi và trẻ em ưa thích vì dễ cử động khi mặc và rất
tiện lợi trong cuộc sống đời thường.
39


HỘI NGHỊ KHOA HỌC SINH VIÊN KHOA HÀN LẦN THỨ 5

Tháng 3 - 2011

Một số kiểu dáng Saenghwal Hanbok
Nếu như Saenghwal Hanbok nhấn mạnh vào sự đơn giản và tiện dụng hằng ngày
thì Gaeryang Hanbok nhấn mạnh vào vẻ ngoài thời trang rất bắt mắt với mục đích làm
phong phú vẻ đẹp của Hanbok và quảng bá hình ảnh của Hanbok nói riêng cũng như
Hàn Quốc nói chung đến với thế giới. Gaeryang Hanbok có những cách tân hết sức táo
bạo. Tay áo của jeogori được làm thay tay bồng, cắt ngắn, hoặc bỏ hẳn cùng với cả phần
cổ áo, để lộ bờ vai trần của người mặc. Chima có thể xẻ tà cao, cũng có thể chỉ là rút

ngắn đi với độ dài có thể bớt đến một nửa giống như một chiếc váy cỡ trung. Hầu hết
Gaeryang Hanbok dù có cách điệu đến cỡ nào cũng vẫn giữ lại nét đặc trưng của
Hanbok là nơ otgoreum, tuy vậy cũng có nhiều trường hợp nơ không còn mà chima chỉ
được mặc với một chiếc áo ngắn may liền vào váy. Gaeryang Hanbok thường được mặc
ở những sự kiện lớn, hoặc trong các cuộc thi sắc đẹp, trên các sàn diễn thời trang của
Hàn Quốc.
Hanbok được mặc trong các dịp truyền thống của Hàn Quốc như các lễ hội, và đặc
biệt là hai kì nghỉ lớn nhất Tết Âm Lịch và Trung Thu (Chuseok). Hanbok của hoàng
cung, hoặc Hanbok của người dân thường trong ngày cưới thì đặc biệt lộng lẫy và cầu kì.
Vải được sử dụng là gấm lụa cao cấp, các chi tiết thêu dày đặc và rất tỉ mỉ. Thêm vào đó
là những phụ kiện như mũ đội đầu, trâm cài,… làm cho bộ trang phục càng trở nên bắt
mắt và thu hút người xem. Trong tang lễ cả nam và nữ giới Hàn Quốc mặc Hanbok tông
đen hoặc trắng, nữ thường có thêm bông hoa trắng nhỏ cài trên tóc nếu là người nhà của
người mất. Hanbok tang trắng làm từ vải gai thô, Hanbok tang đen thường làm từ satin.
40


HỘI NGHỊ KHOA HỌC SINH VIÊN KHOA HÀN LẦN THỨ 5

Tháng 3 - 2011

Một số kiểu dáng Gaeryang Hanbok
4. Cách mặc.
4.1. Áo Dài.
Vì Áo Dài chỉ có một lớp nên khá dễ mặc. Quần được mặc trước, vì dáng quần hai
ống giống quần Tây bây giờ nên không có gì xa lạ. Sau đó luồn hai tay vào ống tay áo
để mặc áo. Nếu là áo truyền thống thì cần cài hết các khuy, các cúc bấm trên áo là đủ
kín, nếu có móc kết thúc thì cài cho chắc chắn. Nếu là áo cách tân không có cúc mà kéo
khóa đằng sau thì chỉ cần kéo khóa lên là được.
4.2. Hanbok.

Vì có hai lớp nên Hanbok mặc hơi rắc rối hơn Áo Dài, nhưng giống nhau ở điểm
đều là mặc quần (hoặc váy) trước rồi mới mặc áo.
Với nữ, khi mặc Hanbok lót màu trắng là mặc váy trước, cố định váy bằng dây
buộc hoặc như Hanbok hiện nay có sẵn chun bao quanh, phần chun cao đến che quá
ngực nên có thể mặc thêm jeogori lót hoặc không. Sau đó lớp Hanbok chính bên ngoài
cũng mặc tương tự, phần quan trọng là thắt nơ goreum sao cho đẹp. Goreum cần được
thắt về bên tay phải người mặc, độ rủ mềm mại vừa phải để giữ được nét nữ tính và
thanh lịch của phái nữ. Vải của bộ áo không được để nhàu và chima phải giữ được nếp
và độ phồng ban đầu.
Với nam cũng là mặc baji lót màu trắng trước, sau đó đến jeogori, dáng áo mở có
dây cùng chất liệu buộc lại. Sau đó mặc baji ngoài rồi đến áo khoác. Nếu là durumagi
thì chỉ cần khoác vào và buộc bằng dalleyong là xong. Dalleyong có thể là một sợi dây
mảnh đeo thêm miếng ngọc bội hoặc móc treo thắt nút bằng vải để trang trí, hoặc có thể
là một thắt lưng vải bản to để cố định áo. Nếu là áo khoác cộc tay (cùng kiểu với
jeogori) thì mặc tương tự như jeogori, dây buộc áo khoác này cũng là vải cùng chất liệu
nhưng được thắt chặt và rủ về bên tay phải.

41


HỘI NGHỊ KHOA HỌC SINH VIÊN KHOA HÀN LẦN THỨ 5

5.

Tháng 3 - 2011

Ý nghĩa của Áo Dài và Hanbok.

Áo Dài và Hanbok đều được người dân mỗi nước thường xuyên sử dụng trong các
dịp lễ tết. Bởi vào những dịp ngày tết ngày hội cổ truyền như vậy, mặc trang phục

truyền thống để thể hiện tấm lòng của con cháu luôn nhớ tới tổ tiên cội nguồn. Áo Dài
và Hanbok, một trang phục có một lớp và bó sát người, một trang phục có hai lớp và
được mặc một cách rộng rãi, nhưng đều có điểm chung là tôn lên vẻ đẹp của người mặc.
Với Áo Dài đó là nhấn mạnh vẻ đẹp thể hình rất gợi cảm của người phụ nữ và khí sắc
trang nghiêm của đàn ông. Còn Hanbok toát lên vẻ đẹp kín đáo, e lệ của phái đẹp xứ
Hàn và nét đứng đắn của phái nam. Hanbok được thiết kế nhiều lớp và kín đáo như vậy
cũng là để phản ánh tư tưởng của người Hàn chịu sự ảnh hưởng sâu sắc của Nho giáo
mà tuân theo lễ nghĩa nghiêm ngặt, trong đó bao gồm cả việc ăn mặc nữa.
Vì cùng là trang phục truyền thống nên Áo Dài và Hanbok đều phản ánh những
nét đặc trưng của mỗi nước. Áo Dài một lớp phản ánh khí hậu nhiệt đới nóng ẩm của
Việt Nam, và Hanbok có hai lớp là để thích nghi với khí hậu lạnh và khô. Chất liệu của
hai bộ trang phục cũng cho thấy sự thích nghi của con người với nhiều mùa trong năm,
đồng thời phù hợp với tập quán sinh hoạt sản xuất của dân tộc. Màu sắc và hoa văn của
Áo Dài cũng như Hanbok đặc biệt phong phú, mỗi màu sắc và hoa văn lại ẩn chứa một
ý nghĩa nhất định, nhưng có thể khái quát lên rằng đó chính là mong muốn hòa nhập với
thiên nhiên, có được một cuộc sống ấm no hạnh phúc và ước muốn chung sống với nhau
một cách hòa bình giữa các quốc gia.
III.

KẾT LUẬN

Qua tìm hiểu Áo Dài và Hanbok, ta đã thấy được những nét tương đồng nơi hai bộ
trang phục truyền thống của hai quốc gia có nền văn hóa rất gần gũi. Cả Áo Dài và
Hanbok đều rất đa dạng về chất liệu, màu sắc cũng như họa tiết và hoa văn. Cùng
là trang phục truyền thống của hai đất nước nên Áo Dài và Hanbok đều phản ánh rất rõ
ràng tư tưởng của người dân cũng như những đặc trưng khí hậu của hai nước. Tuy nhiên
chính những điểm khác nhau mới làm nên nét đẹp riêng của hai bộ trang phục này. Áo
Dài chỉ có một lớp và được may ôm sát cơ thể, mỗi người muốn mặc đều phải may một
chiếc thật vừa vặn với mình. Trong khi đó Hanbok có đến hai lớp, áo và quần hoặc váy
lại khá rộng rãi nên mỗi người có thể mua đồ may sẵn được. Bên cạnh đó Áo Dài khá dễ

mặc và dễ bảo quản, còn cách mặc Hanbok lại khá phức tạp và cần phải bảo quản cẩn
thận. Có lẽ chính vì vậy mà giá cả của Áo Dài và Hanbok cũng khá chênh lệch. Nếu
như một bộ Áo Dài có giá trung bình 200 đến 300 nghìn đồng thì các loại Hanbok có
giá rất chênh lệch nhau, nhưng các bộ Hanbok trông thường thì dao động quanh 100
nghìn won, tương đương với hơn 2 triệu đồng.
Qua bài nghiên cứu cũng có thể thấy rằng cả Áo Dài và Hanbok đều đã trải qua
nhiều giai đoạn biến đổi, và đến ngày nay cũng đều được cách tân để phù hợp với nhu
cầu và yêu cầu của người mặc. Cả Áo Dài và Hanbok cách tân không những vẫn lưu giữ
được những nét đẹp truyền thống đặc trưng của từng dân tộc mà còn trở nên tiện dụng
42


HỘI NGHỊ KHOA HỌC SINH VIÊN KHOA HÀN LẦN THỨ 5

Tháng 3 - 2011

hơn trong cuộc sống hằng ngày, hơn thế nữa còn góp phần quảng bá hình ảnh của đất
nước đến với bạn bè thế giới thông qua chính vẻ đẹp sự cách tân của bản thân bộ trang
phục. Áo Dài và Hanbok đối với từng dân tộc của mình từ lâu đã gắn bó chặt chẽ về mặt
tinh thần và hiện nay đã trở thành biểu tượng của đất nước, là niềm tự hào của người
dân đối với bạn bè quốc tế.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
5. Chín Chúa, Mười Ba Vua Triều Nguyễn (Tôn Thất Bình).
6.

Hàn Quốc – Đất nước, con người

7. (Cơ quan thông tin hải ngoại Hàn Quốc, Cơ quan thông tin chính phủ).
8. Cơ sở văn hóa Việt Nam (Trần Ngọc Thêm).
9. thongtinhanquoc.com

10. krdic.daum.net
11. lifeinkorea.com
12. wikipedia.org

43



×