Tải bản đầy đủ (.doc) (91 trang)

Phát triển cộng đồng đối với người dân tộc ba na từ thực tiển tỉnh kon tum

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (517.16 KB, 91 trang )

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng, số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn
Thạc sĩ Công tác xã hội về “Phát triển cộng đồng đối với người dân tộc Ba
na từ thực tiển tỉnh Kon Tum” là hoàn toàn trung thực, là kết quả nghiên
cứu nghiêm túc của cá nhân, không trùng lặp với các đề tài khác trong cùng
lĩnh vực.
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan này.

Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Hải Âu


LỜI CẢM ƠN
Luận văn được nghiên cứu tại địa bàn tỉnh Kon Tum và được hoàn
thành tại Học viện Khoa học xã Hội Việt Nam. Trong quá trình làm luận
văn, tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới GS.TS Võ Khánh Vinh là người đã
trực tiếp định hướng Đề tài, hướng dẫn tôi trong suốt quá trình thực hiện
đề tài này.
Tôi chân thành cảm ơn Lãnh đạo Ban Giám đốc, Ban Chủ nhiệm và tất
cả các thầy, cô trong Khoa Công tác xã hội - Học viện Khoa học xã hội Việt
Nam đã tận tình trang bị kiến thức và tạo điều kiện thuận lợi cho các học viên
ở các tỉnh xa như tôi hoàn thành được nhiệm vụ trong thời gian học tập và
thực hiện luận văn tại Học viện Khoa học – xã hội.
Tôi trân trọng cảm ơn lãnh đạo UBND tỉnh, Ban Tuyên giáo tỉnh Ủy,
Ban Dân tộc tỉnh, Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh Kon Tum, Sở VHTT& DL
tỉnh, UBND thành phố Kon Tum, UBND Huyện Kon Rẫy tỉnh Kon Tum; các
xã, phường nơi tôi khảo sát điều tra thực địa và đặt biệt là 100 hộ dân người
dân tộc Ba na đã tham gia nhiệt tình các hoạt động nghiên cứu có liên quan,
đã tạo điều kiện, hỗ trợ để tôi hoàn thành quá trình nghiên cứu một cách thuận
lợi nhất.


Đồng thời, tôi cũng xin gửi lời cảm ơn tới những người thân trong
gia đình, bạn bè, đồng nghiệp đã luôn bên cạnh quan tâm, động viên, giúp
đỡ tôi trong suốt quá trình làm luận văn.
Kon Tum, Ngày 30 tháng 7 năm 2016
Tác giả
Nguyễn Thị Hải Âu


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

CTXH

Công tác xã hội

Nxb

Nhà xuất bản

UBND

Ủy ban nhân dân

PTCĐ

Phát triển cộng đồng

DTTS

Dân tộc thiểu số


HTCT

Hệ thống chính trị

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU…………………………………………………………………… 1


Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN CỘNG ĐỒNG ĐỐI VỚI
NGƯỜI DÂN TỘC BA NA……………………………………………....... 10
1.1. Lý luận về người dân tộc Ba na………………………………………... 10
1.2. Lý luận về phát triển cộng đồng đối với người dân tộc thiểu số………..13
1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến phát triển cộng đồng đối với người dân tộc
thiểu số…………………………………………………………………… .. 20
1.4. Cơ sở chính trị, pháp lý của phát triển cộng đồng đối với người dân tộc
thiểu số………………………………………………………………………24
Chương 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG PHÁT TRIỂN CỘNG ĐỒNG
ĐỐI VỚI NGƯỜI DÂN TỘC BA NA TẠI TỈNH KON TUM……………. 29
2.1. Khái quát về địa bàn nghiên cứu………………………………………. 29
2.2. Thực trạng hoạt động phát triển cộng đồng đối vơi người dân tộc Ba na từ
thực tiển tỉnh Kon Tum…………………………………………………….. 31
2.3. Thực trạng yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động cộng đồng đối vơi người Ba
na từ thực tiển tỉnh Kon Tum………………………………………………. 42
Chương 3: CÁC GIẢI PHÁP HỔ TRỢ PHÁT TRIỂN CỘNG ĐỒNG ĐỐI
VỚI NGƯỜI DÂN TỘC BA NA TẠI TỈNH KON TUM…………………. 57
3.1. Một số giải pháp chung………………………………………………... 57
3.2.Một số giải pháp tiếp cận dưới góc độ công tác xã hội nhằm phát triển
cộng đồng đối với người dân tộc Ba na tại tỉnh Kon Tum…………………. 61
KẾT LUẬN………………………………………………………………… 76



DANH MỤC BẢNG VÀ BIỂU ĐỒ

1
2
3
4
5
6

Biểu đồ 2.1

Ông/ bà có đi cúng khi gia đình có người

Trang 35

Biểu đồ 2.2
Biểu đồ 2.3

ốm đau
Cây trồng chính của gia đình Ông/ Bà
Sở thích mặc trang phục truyền thống của

Trang 36
Trang 38

Biểu đồ

người thanh niên Ba na
Hiểu biết của Ông/ Bà về nghề truyền


Trang 45

Sơ đồ 1.1
Sơ đồ 2.1

thống
Sơ đồ phát triển cộng đồng
Thiết chế tự quản truyền thống của người

Trang 17
Trang 43

Ba na


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết đề tài
Đảng cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi công tác
dân tộc là nhiệm vụ chiến lược của Đảng. Văn kiện Đại hội XII của Đảng đã
xác định, đoàn kết các dân tộc có vị trí chiến lược trong sự nghiệp cách mạng
của đất nước.
Nước ta có 54 dân tộc anh em cùng chung sống từ ngàn đời nay. Đoàn
kết, giúp đỡ nhau cùng tồn tại và phát triển là truyền thống quí báu của đồng
bào ta. Với những điều kiện, trình độ, phong tục tập quán khác nhau, cộng
đồng các dân tộc Việt Nam luôn đoàn kết một lòng phấn đấu vì mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, nếu không có sự cảm thông
chia sẻ, đồng thuận, giúp đỡ nhau, bình đẳng, tôn trọng nhau thì khó có thể
bền vững. Để đảm bảo công bằng, bình đẳng xã hội, Đảng và Nhà nước ta đã
có nhiều chính sách, cơ chế để hổ trợ, giúp đỡ đồng bào dân tộc thiểu số vùng

khó khăn phát triển kinh tế, cơ sở hạ tầng, xóa đói giảm nghèo, giáo dục đào
tạo, mở mang văn hóa…
Các hổ trợ xã hội đã tác động, cải thiện đáng kể trong việc nâng cao
chất lượng sống, môi trường sống cho các cộng đồng người dân tộc thiểu số,
tại các tỉnh miền núi khó khăn trong cả nước. Song điều quan trọng và mang
tính quyết định đó là bản thân người dân tộc thiểu số phải chủ động vươn lên,
phát huy nội lực cộng đồng, tranh thủ sự hổ trợ của Nhà nước, sự giúp đỡ của
các dân tộc anh em để phát triển.
Vấn đề dân tộc, chính sách dân tộc là những vấn đề lớn, phức tạp và
nhạy cảm, nhiều nội dung của vấn đề này đang cần được nghiên cứu giải
quyết cả về lý luận và thực tiễn. Những vấn đề thời sự liên quan đến dân tộc,
quan hệ dân tộc trên thế giới cũng như trong nước đang làm cho việc tìm
hiểu, nghiên cứu vấn đề phát triển cộng đồng đối với các dân tộc thiểu số một
1


cách bền vững, phù hợp với tiến trình phát triển kinh tế, xã hội của đất nước
càng trở nên quan trọng và cấp thiết.
Từ trước đến nay, phát triển cộng đồng (PTCĐ) dựa theo phương pháp
tiếp cận truyền thống đã giải quyết những vấn đề xã hội của cộng đồng như
đói nghèo, bảo tồn văn hóa truyền thống, hổ trợ các nhóm yếu thế… chủ yếu
vào sự giúp đỡ của các cơ quan nhà nước, các doanh nghiệp, các dịch vụ hỗ
trợ từ nguồn lực bên ngoài cộng đồng, đã khiến bản thân các cộng đồng dân
tộc thiểu số và người dân tộc thiểu số trở nên phụ thuộc, tạo tâm lý trông chờ,
ỷ lại vào nhà nước mà không phát huy được nguồn nội lực của cộng đồng một
cách tốt nhất. Thực tiển đã chứng minh khi và chỉ khi chính người dân trong
cộng đồng có nhận thức đầy đủ, sâu sắc về vấn đề của cộng đồng từ đó cùng
tham gia với lãnh đạo địa phương đề ra giải pháp giải thực hiện, thì lúc ấy vấn
đề mới được thực hiện một cách triệt để và duy trì hiệu quả, bền vững trong
cộng đồng.

Kon Tum là một trong các tỉnh miền núi nghèo của Việt Nam, hộ dân
tộc thiểu số chiếm 52% so với dân số toàn tỉnh (62.680/120.608 hộ). Đời sống
của cộng đồng các dân tộc thiểu số thuộc vùng sâu, vùng xa gặp rất nhiều khó
khăn, tỉ lệ hộ nghèo người DTTS là 29.187 hộ chiếm 46,56% hộ DTTS và
chiếm 92,6% hộ nghèo toàn tỉnh. Đẩy mạnh các hoạt động PTCĐ sẽ là giải
pháp hữu hiệu để cộng đồng người dân tộc Bana nơi đây phát triển bền vững
về cả 3 yếu tố: kinh tế, môi trường xã hội và con người.
Thực tế, Kon Tum đã có nhiều công trình nghiên cứu về đồng bào dân
tộc thiểu số ở các khía cạnh khác nhau: Nghiên cứu về văn hóa, về hổ trợ
chính sách đối DTTS ... nhưng nghiên cứu về PTCĐ dưới góc độ công tác xã
hội đối với người dân tộc thiểu số còn ít và chưa đồng bộ.
Xuất phát từ thực tế, từ nhu cầu phát triển cộng đồng người dân tộc Ba
na trên địa bàn, tác giả chọn đề tài “Phát triển cộng đồng đối với người dân
2


tộc Bana từ thực tiển tỉnh Kon Tum” để nghiên cứu và làm Luận văn Thạc
sỹ chuyên ngành công tác xã hội.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
2.1. Tình hình nghiên cứu nước ngoài
Tác giả Griul Guillminet đã viết tác phẩm “Bộ lạc Ba na ở Kon Tum”
gồm 2 tập được xuất bản tại pháp năm 1939. Đây có thể được nhìn nhận là tác
giả đầu tiên là người nước ngoài nghiên cứu cơ bản và có hệ thống về một
dân tộc ở Kon Tum. Tác phẩm đề cập đến rất nhiều lĩnh vực thuộc đời sống
vật chất, tinh thần, xã hội, văn hóa… của người Ba na. Đây là tư liệu quan
trọng có thể kế thừa trong quá trình nghiên cứu hoạt động phát triển cộng
đồng người dân tộc Ba na của đề tài.
Cuốn sách “ Miền đất huyền ảo” của tác giả Dambo (Jacque Dournes),
xuất bản tại Pháp năm 1950 có tựa đề “Các dân tộc miền núi Nam Đông
Dương”, được nhà văn Nguyên Ngọc dịch từ nguyên bản tiếng Pháp năm

2003. Trong công trình nghiên cứu của mình, tác giả Jacque Dournes đã đề
cập đến hầu hết các dân tộc Tây nguyên trên nhiều phương diện khác nhau.
Ngoài việc ông đi vào phân tích sâu các yếu tố đặc trưng của từng tộc người
như: diện mạo, điều kiện sống, phong tục tập quán, tổ chức đời sống - xã
hội…thì điều ông đặt biệt quan tâm đó chính là làng, tổ chức xã hội cơ bản,
duy nhất ở vùng các dân tộc thiểu số Tây nguyên. Qua cách đề cập của tác
giả, đã cung cấp một cái nhìn tổng quan về tổ chức xã hội truyền thống của
các tộc người bản địa Kon Tum. Ông nghiên cứu trong mối quan hệ tương
quan, không tách rời từ gia đình - dòng họ - cộng đồng làng. Đây cũng chính
là tiền đề để tác giả nhìn nhận rõ nét khi nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến
phát triển cộng đồng người dân tộc Ba na trong truyền thống và những vấn đề
mới nảy sinh trong cộng đồng hiện tại, để có những đánh giá một cách đầy đủ

3


nhất, đưa ra những giải pháp phát triển cộng đồng phù hợp trong tiến trình
phát triển xã hội.
2.2. Tình hình nghiên cứu trong nước
Phát triển cộng đồng tại Việt Nam được biết đến lần đầu tiên vào giữa
năm 1950 thông qua một số các hoạt động phát triển cộng đồng tại các tỉnh
phía nam, chủ yếu là lĩnh vực giáo dục, thông qua các chương trình phát triển
nông thôn của sinh viên thời bấy giờ. Từ năm 1980 cho đến nay, phát triển
cộng đồng được biết đến rộng rãi hơn qua các chương trình viện trợ phát triển
của nước ngoài tại Việt Nam, các chương trình phát triển có ứng dụng
phương pháp phát triển cộng đồng như: Chương trình xóa đói giảm nghèo,
tiêm chủng mở rộng, phổ cập giáo dục, bảo hiểm y tế, dân số kế hoạch hóa
gia đình, tín dụng cho hộ nghèo… mà ở đó cần có sự tham dự của người dân
tại cộng đồng như một trong những nhân tố quyết định, để chương trình đạt
được tính hiệu quả bền vững.

Đã có nhiều nghiên cứu về phát triển cộng đồng trong nước, tác giả
Hoàng Anh Dũng (2013), phát triển cộng đồng dựa vào nguồn lực và tài sản
cộng đồng, đã nhấn mạnh về phương pháp tiếp cận dựa vào nhu cầu và sự kết
nối cộng đồng (Kết nối mạng lưới, tổ chức, cá nhân, ..) để phát triển. Ông
xem yếu tố phát huy nội lực cộng đồng là yếu tố quyết định sự thay đổi, phát
triển của cộng đồng chứ không phải các yếu tố hổ trợ từ bên ngoài.
Đối với vấn đề nghiên cứu về hoạt động của cộng đồng người Ba na
cuốn “ Dân tộc Ba na ở Việt Nam” của tác giả Bùi Minh Đạo xuất bản năm
2006. Đây là chương trình chuyên khảo về dân tộc Ba na ở Tây nguyên, sách
nghiên cứu chuyên sâu và toàn diện nhất về dân tộc Ba na từ trước đến nay.
Hầu như những vấn đề cơ bản về dân tộc Ba na đã được nghiên cứu: môi
trường cư trú, dân cư, văn hóa xã hội, văn hóa đảm bảo đời sống, truyền
thống yêu nước,.. tuy nhiên, về các hoạt động có ý nghĩa đến PTCĐ như: Phát
4


huy nội lực của cộng đồng trong phát triển kinh tế xã hội, hoạt động tuyên
truyền nâng cao nhận thức,… chưa được đề cập.
Một trong những tài liệu nghiên cứu sớm nhất trong nước về dân tộc Ba
na đó là cuốn “ Mọi Kon Tum” của 02 tác giả Nguyễn Kinh Chi - Nguyễn
Đổng Chi xuất bản năm 1937. Nội dung đề cập chủ yếu về đời sống xã hội
của người Ba na, trong đó vấn đề về tổ chức làng và các thiết chế xã hội của
làng được quan tâm song chỉ dừng lại ở mức độ quan sát, ghi chép thực tế mà
chưa nghiên cứu sâu. Đây cũng là nguồn tư liệu quí để tác giả tiếp tục nghiên
cứu về sự ảnh hưởng của thiết chế xã hội của làng đến quá trình phát triển của
cộng đồng. So sánh những yếu tố đã có sự thay đổi, phát triển theo thời gian
cùng với sự phát triển chung của xã hội. Nhìn nhận được các giá trị bền vững
đã được cộng đồng lưu giữ suốt gần 8 thập kỷ qua.
Phát triển cộng đồng và nghiên cứu về người dân tộc Ba na trong nước
đã được nghiên cứu khá nhiều so với các dân tộc bản địa khác của Kon Tum.

Song sự nghiên cứu chuyên sâu về phát triển cộng đồng đối với người dân tộc
Ba na tại tỉnh Kon Tum thì chưa có đề tài nào đề cập. Hiện tại cộng đồng
người Ba na Kon Tum vẫn đang đoàn kết một lòng, cùng các dân tộc anh em
tích cực xây dựng và phát triển Kon Tum. Nhiều chế độ chính sách về hổ trợ
xã hội đối với người dân tộc thiểu số đã được áp dụng, nhiều dự án phát triển
cộng đồng đã được triển khai thực hiện, song thực tế đời sống của người dân
tộc Ba na vẫn còn gặp rất nhiều khó khăn. Ngay tại địa bàn thành phố Kon
Tum, tỉnh Kon Tum nơi có đa số người Ba na sinh sống thì tỉ lệ hộ nghèo
DTTS chiếm 73,72% tổng số hộ nghèo toàn thành phố, tỉ lệ hộ cận nghèo
chiếm tỉ lệ 71,43%.
Để nâng cao chất lượng cuộc sống cho các cộng đồng người dân tộc
thiểu số Kon Tum nói chung và người dân tộc Ba na tỉnh Kon Tum nói riêng,

5


phương pháp phát triển cộng đồng chính là công cụ hữu hiệu để xây dựng và
thúc đẩy cộng đồng người Ba na thoát nghèo và phát triển bền vững.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu:
Nghiên cứu thực trạng hoạt động phát triển cộng đồng đối với người
dân tộc Bana từ thực tiễn tỉnh Kon Tum và các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt
động này. Từ đó đưa ra một số giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả hoạt
động phát triển cộng đồng đối với người dân tộc Bana tỉnh Kon Tum.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu:
Nghiên cứu về lý luận phát triển cộng đồng đối với người dân tộc thiểu
số (Dân tộc Ba na).
Nghiên cứu thực trạng hoạt động phát triển cộng đồng đối với người dân
tộc Bana từ thực tiển tỉnh Kon Tum.
Phân tích những yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động phát triển cộng đồng

đối với người dân tộc Bana từ thực tiển tại tỉnh Kon Tum.
Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động phát triển
cồng đối với người dân tộc Bana tại tỉnh Kon Tum.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1 Đối tượng nghiên cứu:
Phát triển cộng đồng đối với người dân tộc Bana từ thực tiễn tỉnh Kon Tum.
- Đối tượng nghiên cứu:
+ Các hộ dân người Bana (100 hộ), đã bao gồm già làng, trưởng thôn,
các nhóm trưởng.
+Lãnh đạo Đảng ủy, UBND xã (4 người. Các tổ chức chính trị - xã hội
có liên quan (Hội Liên hiệp Phụ nữ, Hội nông dân, UBMTTQVN, Đoàn thành
niên.) (10 người)
4.2. Phạm vi nghiên cứu đề tài
6


4.2.1. Phạm vi về đối tượng nghiên cứu:
- Nghiên cứu về thực trạng phát triển cộng đồng đối với người dân tộc
Bana từ thực tiển tỉnh Kon Tum
4.2.2. Phạm vi về không gian, thời gian:
- Về không gian: Nghiên cứu cồng đồng người Bana của phường
Thắng Lợi, xã ĐăkRơwa, Thành phố Kon Tum, xã ĐăkTơRe, huyện Kon
Rẫy, tỉnh Kon Tum.
- Về thời gian: Đề tài được thực hiện từ tháng 03/2016 đến tháng
7/2016
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp lý luận:
Sử dụng phương pháp luận nghiên cứu khoa học, vận dụng quan
điểm, đường lối chỉ đạo của Đảng, Nhà nước,.. về quyền công dân, về quyền
con người, về chính sách phát triển kinh tế, xã hội để phân tích chính sách

nhằm phát triển cộng đồng đối với người dân tộc thiểu số nói chung, khu vực
tây nguyên nói riêng trong đó có người dân tộc Bana tỉnh Kon Tum.
5.2. Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp nghiên cứu và phân tích tài liệu:
Phương pháp phân tích tài liệu là phương pháp sử dụng các kỹ thuật
chuyên môn nhằm thu thập thông tin, số liệu, nội dung từ các nguồn tài liệu
đã được công bố hoặc kết luận rút ra từ các nguồn tài liệu những thông tin cần
thiết trong quá trình nghiên cứu của bản thân.
- Phương pháp phỏng vấn sâu:
Tiến hành phỏng vấn sâu đại diện cán bộ lãnh đạo địa phương, già làng,
các hộ dân tộc Ba na tại địa bàn nghiên cứu nhằm tìm hiểu, đánh giá về nội
lực cộng đồng, các chính sách hổ trợ để phát triển cộng đồng...
- Phương pháp điều tra bảng hỏi:
7


Xây dựng bảng hỏi để đo lường mức độ nhận thức của người dân về
các hoạt động PTCĐ, thực tế việc áp dụng các phương pháp, cách tiếp cận
của cộng đồng đối với hoạt động PTCĐ, vai trò của tác nhân cộng đồng...
- Phương pháp quan sát:
Phương pháp này được thực hiện thường xuyên trong quá trình nghiên
cứu và thực hiện đề tài để có cái nhìn thật sự khách quan và chân thực, cụ thể
nhất về vấn đề cần nghiên cứu.
- Phương pháp tham gia:
Những thông tin thu được từ quá trình trực tiếp tham gia hoạt động phát
triển cộng đồng với người dân tại địa bàn, cùng với thông tin thu thập được
qua xử lý tài liệu, phỏng vấn sâu, sẽ cho tác giả cái nhìn sâu sắc, đầy đủ và
bao quát, khách quan, độ chính xác cao về vấn đề nghiên cứu.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của Luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận:

Đề tài sử dụng hệ thống khái niệm, phạm trù, lý thuyết, phương pháp
công tác xã hội, PTCĐ vào phân tích thực trạng và đưa ra các đề xuất nhằm
phát triển cộng đồng đối với người dân tộc Bana tại tỉnh Kon Tum.
Kết quả của đề tài sẽ làm phong phú thêm, bổ sung thêm những thông tin
về phát triển cộng đồng đối với người dân tộc Bana tại tỉnh Kon Tum nói
riêng và đồng bào dân tộc thiểu số nơi đây nói chung, góp phần vào việc tăng
cường tình đoàn kết dân tộc, phát huy đồng thuận xã hội, dân chủ, tạo sự bình
đẳng, tích cực xây dựng quê hương Kon Tum ổn định và phát triển.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn:
Kết quả nghiên cứu giúp cho các nhà hoạch định chính sách nhìn nhận rõ
hơn những mặt được và hạn chế của chính sách hổ trợ, chế độ ưu đãi của
Đảng và nhà nước ta trong việc góp phần phát triển cộng đồng các dân tộc
thiểu số, trong đó có người dân tộc Bana tỉnh Kon Tum.
8


Kết quả nghiên cứu sẽ giúp cho chính người dân tộc Bana tỉnh Kon Tum
nhìn nhận được một cách đầy đủ về các nguồn lực của cộng đồng, tài sản, thế
mạnh của cộng đồng, từ đó nâng cao nhận thức về việc bảo tồn, phát huy các
giá trị truyền thống, phát huy sức mạnh nội lực để PTCĐ bền vững, không
trông chờ, ỉ lại, thụ động vào sự hổ trợ, giúp đỡ từ bên ngoài cộng đồng.
Giúp cho các tác viên cộng đồng nói riêng và các ngành khoa học khác
nói chung có những hiểu biết thêm về sự cần thiết phải đẩy mạnh các hoạt
động của công tác xã hội trong PTCĐ đối với người dân tộc Bana.
Đảm bảo thực hiện tốt quan điểm đoàn kết các dân tộc, tạo cơ hội bình
đẳng, hổ trợ nhau cùng nhau phát triển của Đảng và Nhà nước ta.
Làm tài liệu nghiên cứu các đề tài tiếp theo của chính bản thân và các
bạn đồng nghiệp.
7. Cơ cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục thì

nội dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vẫn đề lý luận về phát triển cộng đồng đối với người
dân tộc Ba na.
Chương 2: Thực trạng hoạt động phát triển cộng đồng đối với người dân
tộc Banna tại tỉnh Kon Tum.
Chương 3: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động phát
triển cộng đồng đối với người dân tộc Bana tại tỉnh Kon Tum.

9


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN CỘNG ĐỒNG
ĐỐI VỚI NGƯỜI DÂN TỘC BANA
1.1. Lý luận về người dân tộc Bana
1.1.1. Khái niệm Tộc người, dân tộc, dân tộc thiểu số
- Tộc người (Ethnoc, Ethnie): là hình thái đặc thù của một tập đoàn
người, một tập đoàn xã hội, xuất hiện trọng quá trình phát triển tự nhiên và xã
hội được phân biệt bởi ba tiêu chí cơ bản, mang tính ổn định và tương đối bền
vững qua hàng nghìn năm lịch sử là : ngôn ngữ, văn hóa và ý thức tự giác về
cộng đồng.
- Dân tộc (Nation) được hiểu theo hai nghĩa:
+ Một hình thái phát triển cao của một tộc người.
+ Một cộng đồng chính trị của nhiều tộc người có nguồn gốc lịch sử khác
nhau, có trình độ phát triển kinh tế - xã hội khác nhau, cùng sống trong một quốc
gia, được quản lý bởi một Nhà nước chung ( Như dân tộc Việt Nam).
Theo từ điển Bách khoa Việt Nam định nghĩa: “ Dân tộc hay quốc gia
dân tộc là một cộng đồng chính trị - xã hội được chỉ đạo bởi một nhà nước,
thiết lập trên một lãnh thổ nhất định, ban đầu được hình thành do sự tập hợp
của nhiều bộ lạc và liên minh bộ lạc, sau này của nhiều cộng đồng mang tính

tộc người của bộ phận tộc người. Tính chất dân tộc phụ thuộc vào những
phương thức sản xuất khác nhau…”
Tuy nhiên, đã từ lâu, ở Việt Nam có sự lẫn lộn khi sử dụng các khái
niệm “Tộc người” và “Dân tộc”. Ngoài dùng để chỉ toàn bộ cộng đồng 54 tộc
người hay quốc gia dân tộc (Dân tộc Việt Nam), khái niệm “ Dân tộc” còn
được dùng trong các trường hợp sau: Chỉ một tộc người cụ thể (như dân tộc
Thái, dân tộc Mường, dân tộc Khơ - me, dân tộc Ba - na…). Hoặc dùng như
một tính từ để chỉ các tộc người thiểu số, như người dân tộc, học sinh dân tộc,
10


vùng dân tộc…(nếu chính xác phải gọi là người dân tộc thiểu số, học sinh dân
tộc thiểu số, vùng dân tộc thiểu số…).
Một tộc người đạt tới trình độ “Dân tộc” phải hội tụ đủ các tiêu chí hay
các yếu tố sau: Đầu tiên là lãnh thổ (đối tượng của lao động, nơi cư trú lâu
dài của tộc người) được mở rộng và ổn định, xác định rõ ràng đường biên giới
quốc gia; giải quyết các tranh chấp đường biên dựa trên công ước quốc tế.
Thứ hai là thị trường quốc gia thống nhất, xóa bỏ ngăn cách thị trường, khác
biệt quá lớn về giá cả, mối liên kết kinh tế giữa các nhóm, các địa phương bền
chặt nhờ hệ thống giao thông và thông tin liên lạc rất phát triển. Ba là ngôn
ngữ, thổ âm (tiếng địa phương) bị thu hẹp, tiếng thủ đô là chuẩn cả về âm và
giọng và ngày càng lan rộng ảnh hưởng các nơi. Bốn là văn hóa thống nhất,
các phong tục tập quán riêng rẽ từng bước bị suy giảm. Cuối cùng là ý thức về
cộng đồng quốc gia – dân tộc phát triển và luôn thắng thế, xóa bỏ những tư
tưởng cục bộ địa phương, tộc người.
* Tộc người (Dân tộc) đa số: tộc người chiếm số đông nhất, có ảnh
hưởng lớn nhất đến sự phát triển của các tộc người khác và của quốc gia dân
tộc (còn gọi là tộc người chủ thể)
* Tộc người (Dân tộc) thiểu số: các tộc người ngoài tộc đa số;
Khái quát những nội dung trên có thể nói, dân tộc là một khái niệm đa

nghĩa, nhưng có hai nghĩa chính: Hoặc để chỉ cộng đồng dân cư của một quốc
gia, hoặc để chỉ cộng đồng dân cư của một tộc người. Sự liên kết cộng đồng
dân tộc được tạo lên từ yếu tố có chung ngôn ngữ, văn hóa, lãnh thổ và biểu
hiện thành ý thức tự giác tộc người. [5, 11-14]
1.1.2.Vài nét về dân tộc Ba na trong thành phần dân tộc Việt Nam
Dãi đất Việt Nam từ bao đời là nơi cộng cư của nhiều tộc người. Trên
cơ sở các kết quả nghiên cứu, xác minh qua hai đợt của Viện Dân tộc học.
Đợt 1 vào năm 1968 và đợt 2 năm 1978; Ngày 02 tháng 3 năm 1979, thừa ủy
11


nhiệm của Thủ tướng Chính phủ, Tổng cục Thống kê ra quyết định số
121/TCTK công bố “Bảng danh mục các thành phần dân tộc Việt Nam”.
Theo đó, Việt Nam có 54 dân tộc (tộc người), với tính cách là cộng đồng, có
chung các đặc điểm về ngôn ngữ, sinh hoạt văn hóa và ý thức tự giác về cộng
đồng mình, thuộc 3 ngữ hệ: Nam Á (5 nhóm ngôn ngữ, 40 tộc); Ngữ hệ Nam
đảo (hay Đa Đảo, hoặc Ma lai ô – Pô li nê xi a, 5 tộc); Ngữ hệ Hán Tạng (2
nhóm ngôn ngữ, 9 tộc). [5, 42].
Xếp theo ngôn ngữ và thứ tự theo số dân cư, tại kết quả cuộc tổng điều
tra dân số năm 2009 của Tổng cục thống kê, dân tộc Ba na đứng vị trí số 12
với tổng dân số là 227.716 người, thuộc nhóm ngôn ngữ Môn Khơ - me nơi
cư trú chính tại các tỉnh Gia Lai, Kon Tum, Bình Định, Quãng Ngãi, Phú Yên.
Ba na là dân tộc lớn nhất nói tiếng Môn Khơ - me ở vùng Nam trung bộ
và Tây Nguyên. Người Ba na cư trú trên vùng lãnh thổ tương đối khác biệt,
địa bàn sinh sống của người Ba na là vùng cao nguyên và núi rừng rộng lớn,
bao gồm phần lớn khu vực phía đông của 2 tỉnh Gia Lai, Kon Tum và một
phần vùng núi phía tây các tỉnh Bình Định, Phú Yên. Ranh giới tộc người của
người Ba na liền kề với người Xơđăng ở phía Bắc, người Việt ở phía Đông,
người Gia rai ở phía Tây và phía Nam. Theo số liệu thống kê năm 2009, dân
tộc Ba na có 227.716 người, riêng tại tỉnh Kon Tum có 53.997 người chiếm

12,55% dân số toàn tỉnh và chiếm 25,5% so với 6 dân tộc bản địa tại Kon
Tum.
Người Ba na tự gọi mình là Bahnar. Tộc danh này được một số nhà
nghiên cứu trước đây đã gọi, như sách “Bộ lạc Bahnar ở Kon Tum” của
P.Guilleminet, xuất bản năm 1952, cuốn “Mọi Kon Tum” của Nguyễn Kinh
Chi và Nguyễn Đổng Chi, xuất bản năm 1937, gần đây được tái bản với tên
sách “Người Ba na ở Kon Tum” năm 2011. Ngoài tên tự gọi Ba na, người Ba
na còn tự gọi mình là Kon Kông (người ở núi) để phân biệt với Kon Doan
12


(người kinh – người đồng bằng lên). Là dân tộc có dân số đông, lại cư trú trên
địa bàn rộng lớn, người Ba na bao gồm nhiều nhóm địa phương khác nhau, có
ít nhất 8 nhóm địa phương chính sau:
Nhóm Tơ Lô, nhóm Krum, nhóm Vân Canh, nhóm Thồ Lô, 4 nhóm
này sinh sống ở các tỉnh từ Phú Yên đến Bình Định và Gia Lai. Trên đất Kon
Tum gồm 3 nhóm chủ yếu:
* Nhóm Kon Tum: phân bố tập trung tại thành phố Kon Tum.
* Nhóm Jơlơng: Phân bố quanh thành phố Kon Tum và huyện Kon Rẫy.
* Nhóm Rơngao: Do cư trú ở những vùng khác nhau, dù là một dân tộc
nhưng có sự khác biệt nhất định về ngôn ngữ và văn hóa giữa các nhóm địa
phương, như 3 nhóm địa phương của dân tộc Ba na ở Kon Tum là: Rơngao,
Kon Tum, Jơlơng do sống gần với người Xơđăng và Giarai nên chịu ảnh
hưởng nhất định về văn hóa, ngôn ngữ của hai dân tộc trên. Như nhóm
Rơngao do dân số không nhiều, địa bàn cư trú lại nằm giữa hai dân tộc lớn là
Ba na và Xơđăng nên người Rơngao bộ phận phía bắc chịu ảnh hưởng văn
hóa và ngôn ngữ của người Xơđăng nhiều hơn.
Cho đến nay, vấn đề chuyển cư ban đầu của dân tộc Ba na từ đâu đến
cũng còn là vấn đề chưa rõ ràng và chưa có một tư liệu chính xác nào đề cập.
Các nhà khoa học đưa ra giả định rằng, khi bốn dân tộc nói ngôn ngữ Nam

Đảo là Giarai, Ê đê, Raglay, Churu cùng với người Chăm di cư vào đồng
bằng ven biển Nam trung bộ Việt Nam. Tại đây, họ cộng cư với số ít dân cư
nói tiếng Môn Khơ - me là chủ nhân của văn hóa Sa Huỳnh. Vào thời điểm
trước công nguyên, người Chăm ở lại sau này lập nên Vương quốc Chăm Pa,
còn các tộc nói ngôn ngữ Nam Đảo khác, đầu tiên là Giarai, Êđê, men theo
núi đi về phía tây tiến dần lên chiếm cứ miền cao nguyên màu mỡ ở Trung
Tây Nguyên đẩy dạt các tộc người Ba na, Xơđăng lên phía bắc và tộc người
Mnông xuống phía nam [4, 44].
13


Việc ban hành Bảng danh mục các thành phần dân tộc Việt Nam, lần
đầu tiên, các tộc người trên đất nước ta có một tên gọi (tộc danh) chính thức,
dựa trên cơ sở khoa học, xóa bỏ những tên gọi mang tính miệt thị trước đây,
như Mán, Mọi…giúp cho các tộc người hiểu biết hơn về bản thân mình và các
cộng đồng khác, góp phần củng cố khối đại đoàn kết giữa các dân tộc.
Do đặc điểm riêng về vị trí địa lý và địa hình, từ xưa Trường Sơn – Tây
Nguyên là khu vực cư trú riêng biệt của các tộc người thiểu số. Mãi đến đầu
thế kỷ XIX, Nhà nước Phong kiến Đại Việt mới nắm được vùng đất này, qui
tụ vào nước Việt Nam thống nhất. [5, 214-216].
1.2. Lý luận về phát triển cộng đồng đối với người dân tộc thiểu số
1.2.1. Phát triển
Thuật ngữ “phát triển” được dùng tương đối phổ biến trong các lĩnh vực
của đời sống xã hội có nhiều quan điểm khác nhau:
Theo Liên Hiệp Quốc (1997): “Phát triển là tạo ra những cơ hội ngày
càng nhiều cho tất cả mọi người để có đời sống tốt hơn, điều thiết yếu là tăng
cường và cải thiện các điều kiện cho giáo dục, sực khỏe, dinh dưỡng, nhà ở và
an sinh xã hội cũng như bảo vệ môi trường” [29, 45].
Dưới góc độ nhìn nhận của tác giả Phạm Đình Thái (1996): “Phát triển là
một tiến trình giúp dân chúng tháo gỡ những trở ngại ngăn cản họ thể hiện

toàn bộ tiềm năng của họ” [3, 23]
Theo từ điển tiếng việt: “Phát triển là làm cho biến đổi từ ít đến nhiều, từ
thấp đến cao, hẹp đến rộng, đơn giản đến phức tạp”.
Qua các khái niệm trên, chúng ta có thể hiểu chung nhất về phát triển
như sau: phát triển là quá trình biến đổi từ tình trạng thấp kém, chưa hài lòng
lên tình trạng tốt hơn, ổn định hơn, đáp ứng nhu cầu của con người và mang
lại những thay đổi tích cực cho xã hội.

14


1.2.2. Cộng đồng
Khái niệm cộng đồng được hiểu dưới nhiều góc độ khác nhau, sau đây là
một số cách tiếp cận cơ bản:
Theo quan điểm Mac xít: “cộng đồng là mối quan hệ qua lại giữa các cá
nhân, vì lợi ích của các thành viên có sự giống nhau về các điều kiện tồn tại và hoạt
động của những người hợp thành cộng đồng đó (hoạt động sản xuất, tư tưởng gần
gủi, tín ngưỡng, giá trị, chuẩn mực, tương đồng về điều kiện sống)”
Dưới góc độ những nhà nghiên cứu phát triển cộng đồng: “cộng đồng là
một nhóm các cư dân cùng sinh sống trong một địa vực nhất định, có cùng
giá trị và tổ chức xã hội cơ bản ( cộng đồng đô thị, cộng đồng nông thôn,
cộng đồng người theo đạo thiên chúa,…)” [7, 43]
Trung tâm Nghiên cứu và tập huấn các dự án phát triển cộng đồng đưa ra
cách hiểu: “cộng đồng là một tập thể có tổ chức, bao gồm các cá nhân con
người sống ở một địa bàn nhất định, có chung một đặc tính xã hội hoặc sinh
học nào đó và cùng chia sẻ với nhau một lợi ích vật chất hay tinh thần nào
đấy” [27,14]
Như vậy, chúng ta có thể hiểu:
- Cộng đồng là một tập thể người có thể cùng nhau chung sống trên một
địa bàn nhất định.

- Cộng đồng là một tập thể người có chung một nguồn gốc văn hóa,
hoặc ngôn ngữ nhưng không nhất thiết cùng chung sống trên một địa bàn.
- Cộng đồng là một tập thể người có chung sự ràng buộc về thể chế, về
qui định, về quyền lợi.
- Cộng đồng là một tập thể người có chung nguyện vọng, mục đích
nhưng cũng có thể không cùng chung sống trên một địa bàn nhất định.

15


1.2.3. Định nghĩa Phát triển cộng đồng
Theo quan điểm của chính phủ Anh, khái niệm phát triển cộng đồng
được sử dụng lần đầu tiên năm 1940: “PTCĐ là một chiến lược phát triển
nhằm vận động sức dân trong các cộng đồng nông thôn cũng như đô thị
nhằm phối hợp cùng những nỗ lực của nhà nước để cải thiện hạ tầng cơ sở
và tăng khả năng tự lực của cộng đồng” [7,35]
Theo Murray G.Ross (1955): “PTCĐ là một diễn tiến qua đó cộng đồng
nhận rõ nhu cầu hoặc mục tiêu phát triển của cộng đồng; biết sắp xếp ưu tiên các
nhu cầu vì mục tiêu này; phát huy sự tự tin và ý muốn thực hiện chúng; biết tìm
đến tài nguyên bên trong và ngoài cộng đồng để đáp ứng chúng thông qua đó sẽ
phát huy những thái độ và kỹ năng hợp tác trong cộng đồng” [7, 45]
Định nghĩa chính thức của Liên hiệp quốc từ năm 1956: “PTCĐ là một
tiến trình qua đó nỗ lực của dân chúng kết hợp với nỗ lực của chính quyền để
cải thiện các điều kiện kinh tế, xã hội, văn hóa của các cộng đồng và giúp
cộng đồng này hội nhập và đồng thời đóng góp vào đời sống quốc gia” [6,
21]
Theo Nguyễn Thị Oanh : “PTCĐ là một tiến trình làm chuyển biến cộng
đồng nghèo, thiếu tự tin thành cộng đồng tự lực thông qua việc giáo dục
nhận thức về tình hình, vấn đề hiện tại của họ, phát huy các khả năng và tài
nguyên sẳn có, tổ chức các hoạt động tự giúp, bồi dưỡng và củng cố tổ chức

và tiến tới tự lực, phát triển”. [12, 28]
Từ những quan điểm trên, chúng ta có thể hiểu về phát triển cộng đồng
như sau: phát triển cộng đồng là một chuỗi những hoạt động tác động tích
cực lên một cộng đồng dân cư, khiến cho cộng đồng đó nhận thức về vấn đề
của mình, phát huy khả năng và tiến đến tự lực, tự vận động theo chiều
hướng đi lên về chất lượng cuộc sống.
Sau đây là mô hình về quá trình phát triển cộng đồng
16


PTCĐ là một quá trình luôn luôn tiếp diễn từ thấp đến cao
(Sơ đồ 1.1: Sơ đồ phát triển cộng đồng)

còn yếu kém

Tự tim
hiểu và
phân tích


tăng năng lực


Thức tỉnh

Phát huy
tiềm năng

Huấn
luyện


Hình
thành các
nhốm liên
kết


Tự lực

Tăng
cườngcá
c động
lực

Chương trình hành động chung
có lượng giá

Phát triển cộng đồng được nhìn nhận, xem xét dưới các góc độ sau:
Thứ nhất, về mục tiêu của phát triển cộng đồng nhằm hướng đến:
- Đáp ứng được nhu cầu cơ bản và cung cấp cho người dân những cơ hội
để phát triển toàn diện các tiềm năng và nâng cao chất lượng cuộc sống.
PTCĐ đặc biệt quan tâm đến các nhóm đối tượng yếu thế trong cộng đồng để
cải thiện các điều kiện sống của họ và thỏa mãn những nhu cầu cơ bản như
việc làm, nhà ở, giáo dục, y tế, môi trường…
- Người dân được tham gia vào quá trình phát triển cộng đồng một cách
tích cực vào việc ra quyết định liên quan đến chính đời sống của họ, giúp họ
nhận thức được giá trị và tin vào khả năng của mình. Thông qua đó trình độ
họ được tăng lên và cải thiện cuộc sống.

17



- Huy động được các tiềm năng và khuyến khích sự tham gia của các cơ
quan, tổ chức, người dân, tài nguyên cộng đồng để cải thiện đời sống mọi mặt
của người dân trong cộng đồng.
- Tạo cơ hội phát triển cho các nhóm yếu thế trong xã hội trên cơ sở củng
cố công bằng, bình đẳng và nhân quyền; tăng cường mối quan hệ đoàn kết
trong cộng đồng với mục đích chung.
- Cải thiện cơ sở vật chất của cộng đồng, góp phần điều chỉnh chính sách
xã hội phù hợp với tình hình thực tế của cộng đồng, qua đó đảm bảo trật tự an
toàn xã hội.
Thứ hai, nội dung của phát triển cộng đồng bao gồm:
- Giáo dục giáo cộng đồng : giúp trang bị các kiến thức, sự hiểu biết và
kỹ năng làm việc, lao động cho người dân trong cộng đồng, để cộng đồng tự
nhận thức ra vấn đề và chủ động xây dựng kế hoạch, quyết định hoạt động
của cộng đồng.
- Quản lý tài nguyên cộng đồng: quản lý môi trường cộng đồng, xử lý
các thảm họa do thiên tai, phát triển các cơ sở kinh doanh sản xuất.
- Tổ chức cộng đồng: củng cố các tổ chức có sẵn như các đoàn thể, tổ
chức chính trị, xã hội tại cộng đồng; thành lập các nhóm nhỏ, nhóm mới hoặc
câu lạc bộ, đội nhóm tình nguyện vì cộng đồng; tổ chức các ngành nghề như
các tổ sản xuất, tổ hợp tác trong cộng đồng; mở rộng liên kết với các nhóm
khác, tiến đến lập hiệp hội, hợp tác xã,…
Ba lĩnh vực trong nội dung phát triển cộng đồng được dùng như điểm
xuất phát của một dự án. Các dự án phát triển cộng đồng được tiến hành tùy
theo lĩnh vực chuyên môn của các tổ chức phát triển và nhu cầu của chính
cộng đồng.

18



1.2.4. Phát triển cộng đồng đối với người dân tộc Ba na.
Mang những đặc điểm chung của các cộng đồng dân tộc thiểu số khác
trong cả nước, cộng đồng người dân tộc Ba na Kon Tum còn rất nhiều khó
khăn, xuất phát kinh tế thấp, việc duy trì quá lâu phương thức sản xuất truyền
thống đã làm cho đời sống người Ba na chậm phát triển, tỉ lệ hộ nghèo cao.
Quản lý và tổ chức cộng đồng đối với các làng dân tộc Ba na vùng sâu, vùng
xa còn ảnh hưởng nặng của hệ thống luật tục và tín ngưỡng dân gian, trong
khi một số đã không còn phù hợp. Việc áp dụng khoa học kỹ thuật, những yếu
tố mới tạo điều kiện cho cộng đồng phát triển thì ngại áp dụng. Do điều kiện
sống ở xa khu trung tâm, hạ tầng cơ sở còn lạc hậu, địa hình nhiều chia cắt,
cùng với nhận thức thấp, nên khi cái mới chưa rõ nét, thì việc cái cũ như thói
quen thống trị vẫn là điều dễ hiểu.
Từ kết quả của việc áp dụng các mô hình phát triển cộng đồng trong thực
tế đã cho thấy càng ngày người ta càng thừa nhận rằng phương pháp phát
triển cộng đồng có khả năng giải quyết vấn đề phát triển và những thách thức
mà những cộng đồng ở nông thôn, đô thị tại các nước đang phát triển (trong
đó có Việt Nam) gặp phải, cũng như những vấn đề của các nhóm bị mất
quyền lợi, bị thiệt thòi và bị gạt ra bên lề xã hội ở những nước đang phát triển.
Phương pháp PTCĐ là phương pháp lấy con người làm trung tâm của
phát triển và quan tâm trước tiên đến nhân phẩm và tiềm năng của họ.
Phương pháp phát triển cộng đồng tạo điều kiện cho các thành viên trong
cộng đồng được tham gia vào mọi phương diện liên quan đến tiến trình phát
triển.
Tuy nhiên qua kinh nghiệm làm công tác PTCĐ ở các nước đang phát
triển đã cho thấy, nếu lấy toàn bộ cộng đồng làm đối tượng thì những lợi ích
phát triển ít đến tay nhóm người nghèo nhất, đa số lợi ích rơi vào nhóm khá
giả, nhóm có tiềm năng kinh tế.
19



Để giải quyết vấn đề này, việc hình thành chiến lược phát triển mà đối
tượng là những nhóm người yếu thế (người nghèo, người khuyết tật, người
dân tộc thiểu số, phụ nữ, trẻ em, người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn…)
được quan tâm hướng đến. Mục đích là nhằm tăng cường quyền tự quyết các
vấn đề cho cá nhân, cộng đồng. Đó là chiến lược “phát triển có sự tham gia”,
“ phát triển lấy người dân làm trung tâm”… để bổ sung vào các chiến lược
phát triển cộng đồng trước đây.
Để đảm bảo an sinh, dân chủ, công bằng xã hội và tinh thần trách nhiệm
của toàn xã hội đối với nhóm yếu thế, mà cụ thể được đề cập tại đề tài là
người dân tộc Ba na, một trong 53 dân tộc thiểu số của Việt Nam với đời sống
còn nhiều khó khăn, môi trường xã hội, cơ hội phát triển không thuận lợi, còn
nhiều cản trở…ảnh hưởng đến sự phát triển của cộng đồng.
Từ việc nghiên cứu các khái niệm và nội dung, mục đích của phát triển
cộng đồng. Từ những hiểu biết về những đặc điểm, tính cách.. của các dân tộc
thiểu số nói chung và dân tộc Ba na nói riêng. Có thể đưa ra định nghĩa về
phát triển cộng đồng đối với người Ba na như sau:
Phát triển cộng đồng đối với người dân tộc Ba na, là một quá trình tác
động lên nhận thức với nhiều hoạt động phù hợp, làm cho người dân tộc Ba
na nhìn nhận được giá trị của cộng đồng, nội lực của cộng đồng để kết hợp
với sự hổ trợ của nhà nước và các nguồn lực bên ngoài, tổ chức lại cộng
đồng một cách tốt nhất, huy động được mạnh mẽ nguồn lực trong dân tham
gia góp phần xây dựng cộng đồng phát triển theo kịp sự phát triển chung của
toàn xã hội.
1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến phát triển cộng đồng đối với người dân tộc
thiểu số.
Có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển của cộng đồng như:
nguồn tài nguyên cộng đồng có được từ lợi thế của vị trí cư trú, chất lượng
20



×