Tải bản đầy đủ (.pdf) (109 trang)

Quan hệ bang giao và những sứ thần tiêu biểu trong lịch sử Việt Nam: Phần 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (12.59 MB, 109 trang )

(^utUi ỉiè ỊìíUiịị ịiiut) rà Cíh sử tỉuìn tiiùí

A/ắ’Ìí.. 105

III - M Ộ T SỐ sứ T H Ả N VIỆT N A M
TIÊU BIỂU
NHỮNG SỨ THÂN ĐẠI VIỆT NGÀY XƯA
NHƯ TH Ế ĐẤ y
Thực hiện đường lối ngoại giao giữ vững độc lập, chù
quyền, toàn vẹn lảnh thổ, nêu cao chính nghĩa, hoà hiếu là
một nhiệm vụ cực kỳ khó khán của một nước nhó luôn phải
đối phó với những âm mưu bành trướng thôn tính của nước
lớn. Các vương triều Đại Việt ngày xưa chưa có cơ quan
chuyên trách ngoại giao, chưa có người làm ngoại giao
chuyên nghiệp, khi cần người đi sứ hay tiếp sứ thì vua, chúa
cử trong số các quan lại triều đình. Trong việc bang giao
ngày xưa, ngoài những việc về lễ nghi như triều cống theo
lệ, xin phong vương, báo tang, chúc mừng Thiên tử lên ngôi
hay chia buồn, thì công việc ngoại giao quan trọng nhất của
các sứ thần là giải quyết những tranh chấp về đất đai, đấu
tranh giữ gìn toàn vẹn lãnh thổ không để cho các biên thần
của Thiên triều lấn chiếm vùng biên giới của nước ta, làm
những việc đã rồi, hoặc xin hoãn binh hoặc giải quyết
những hậu quả chiến tranh giữa hai nước, duy trì hòa bình
là nhừng việc lớn liên quan đến an nguy của đất nước.
Vì vậy những quan lại được cử làm ngoại giao, lập sứ
hay đi sứ đều là những quan lại giỏi, “trí dũng song toàn”.
Những nhà ngoại giao Đại Việt là đại diện cho một quốc gia
văn hiến luôn chứng tỏ cho Thiên triều biết nước ta cũng là
một nước văn hiến không kém gì thượng quốc. Những



106 7 li ĩnh li ỉ

ú’f

iVíi/ii - i/iíl

nưiịí',

(0/1 niịười '

người đi sứ ngày xưa đều đã ihuộc lòng những câu trong
sách Luận ngữ: “Sứ ư tứ phương, bất nhục quân mệnh, khả
vi sĩ hỉ”. Nghĩa là: Kẻ sĩ đi sứ bốn phương, không làm nhục
mệnh vua, được như thế mới gọi là kẻ sĩ. “Sứ ư tứ phương,
bất năng chuyên đối, tuy đả diệc hề dĩ vi”. Nghĩa là: Đi sứ
bốn phương, tự mình không cỏ lài ứng đối, thì học nhiều
mà làm gì.
Đến đời Lê, các nhà ngoại giao hầu hết là những người
dã dỗ đại khoa, nhiều người là trạng nguyên, bảng nhãn,
thám hoa, có người là những nhà ngoại giao chiến lược như
Lý Thường Kiệt, Nguyền Trãi, Ngô Thì Nhậm với chủ
trương đường lối ngoại giao được thi hành trong vài ba chục
năm và có rất nhiều nhà ngoại giao đã thực hiện xuất sắc
nhiệm vụ của triều đình giao phó, đã “Đem chuông đi đấm
nước người”. Không làm nhục mệnh vua, giữ gìn được quốc
thể, bảo vộ được lợi ích dân tộc, đòi hòi sứ thần phải tinh
thông địa lý, lịch sử, văn hoá nước mình, nước người, tài
năng mẫn tiệp, ứng đối nhanh trí, thông minh, lịch làm.
Lịch sử còn ghi lại lý lẽ đấu tranh cùa trạng nguyên Lê Văn

Thịnh, tài ứng đối của trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi với
quan lại triều Nguyên trong bao nhiêu việc đến mức độ lưu
truyền trong nước là ông dưỢc phong “Lường quốc trạng
nguyên”, tài biện luận của Nguyễn Trung Ngạn, Phùng
Khàc Khoan, Nguyễn Đăng Đạo, Nguyễn Công Hãng, Hồ
Phi Tích, Nguyền Công Nhuận trong việc đòi đất bị lấn
chiếm ở vùng biên giới. Lê Quý Đôn đi sứ đã làm cho các
quan nhà Thanh phải hết lời khen ngợi, kính phục mà nói
ràng nhân lài nước Nam như Lê tiên sinh thì ngay cả Trung
Hoa cũng chỉ có đến 1, 2 người. Không những thế, với học
vấn uyên bác, lịch lãm Lê Quý Đôn còn làm cho cả sứ thần
các nước láng giềng như Lưu cầu, Triều Tiên phải kính


(Jiu in /i»’ L in ^ ựíí/o Cí) ( í/( str lỉiíín /íV/í

107

phục, ông lại xây đắp thêm tình hữu nghị giữa hai nước với
việc giới thiệu nền vãn hiến nước nhá. Dưới triều Tây Sơn,
những nhà ngoại giao như Ngô Thì Nhậm, Phan Huy Ich,
Đoàn Nguyễn Tuấn đều là những nhà vãn hoá lớn đã làm
nén trang sử ngoại giao vé vang của triều đại Quang Trung.
Một biểu hiện nữa của chử “Trí” cùa các nhà ngoại giao
Đại Việt là phải biết làm thơ, làm thơ thù liếp các quan lại
địa phương ra đón, làm thơ thù phụng với các quan sứ trong
triều, làm thơ mừng chúc thọ vua, làm thơ khi đón tiếp sứ
thần nước ngoài đến kinh đỏ phong vương, làm thơ tiền
biệt... Việc là thơ tuy không bắt buộc nhưng là một biểu
hiện trình độ văn hoá của sứ thần, của thần dân một nước có

văn hiến. Chính một sứ thần Trung Hoa là Tiền Phổ sang
phong vương cho Lê Thánh Tông năm 1462 đã yêu cầu khi
tiếp đón sứ phải biết làm thơ để bộc lộ cái chí cho người
khác biết, v ề việc làm thơ của các sứ thần thì có lẽ không
lấy gì làm khó khăn vì người nào ngày xưa cắp sách đi học
mà không biết làm thơ, huống chi những sứ thần đều là
những người đã đỗ đạt trung, đại khoa. Làm thơ tưởng như
là chuyện thong thả vui chơi, hàn huyên tâm sự, nhưng đối
với các sứ thần thì quả thật không chi là chuyện giao hảo,
phải tuỳ theo quan hệ giữa 2 nước trong từng thời kỳ mà thể
hiện tình hòa hiếu, tự cường dán tộc. Trong dàn gian ta
thường có câu; “Miếng trầu là dầu câu chuyện”, còn trong
việc bang giao giữa các sứ thần ngày xưa thì bài thơ cũng có
thể coi như mở đầu cho việc giao dịch bàn bạc thuận lợi.
Phùng Khắc Khoan sang Yên Kinh cầu phong vương cho
vua Lê Thế Tông năm 1597 dã bị dể nằm ở công quán 4, 5
tháng trời không được dâng biểu. Nhân dịp vua Minh Thần
Tông mừng thọ 80 tuổi, ông dã làm 31 bài thơ chúc thọ
trong tập Vạn thọ vô cươtig dâng lên, đến được tay vua Minh


108 7 1/ ĩitích

V ic t l^ a m -
CO/I tiịịườt

xem, được khen là trung hậu và sau đó đả nhận biếu phong
cho vua Lê. Đường lối “ngoại giao vàn chương” đã do sứ
thần Phùng Khắc Khoan sáng tạo sử dụng từ thế ký XVI.

Cùng với chữ Trí, tài nàng văn hoá sâu rộng tiêu biểu cho
nền văn hiến của quốc gia, các nhà ngoại giao Đại Việt đã thấm
nhuần chữ Dũng, nghĩa là có dũng khí, can đảm, bất khuất,
không sỢ chết trước mặt đối phương, không sỢ gian khổ khi đi
làm nhiệm vụ vua giao phó: Kiều Văn ứng vâng lệnh Lý
Thường Kiệt sang trại giặc bàn với Quách Quỳ, bao nhiêu sứ
thần đời Trần đi sứ quần Nguvên trong 3 lần chiến tranh là coi
như đi vào cái chết nhưng tất cả đều vâng mệnh vua. Đỗ Khắc
Chung xung phong vào trại Ô Mã Nhi xin hoãn binh... Nhiều
sứ thần bị giam giữ như Đào Tử Kỳ bị giam ở Giang Lăng 1
năm, Trịnh Đình Toàn, Nguyễn Nghĩa Toàn và 34 hành nhân
đã bị nhà Nguyên giam giữ. Lâu hơn cả là Lê Quang Bí đi sứ
năm 1548, bị giam cầm đến 18 năm mới được tha về. Ngô Tử
Can đi sứ Chiêm Thành củng bị giữ lại. Hơn thế nữa, có sứ
thần còn bị giết hại như Nguyễn Nhật Tư và Lê Ngân sang cầu
phong cho Trần Quý Khoáng vào năm 1411 đã bị vua Minh
giết hại, Nguyễn Biểu đã bị tướng Minh thử thách tinh thần
bằng cách dọn cho ăn cỗ là đầu một người Việt Nam đã bị
chúng bắt giết rồi sau đó đem trói dưới chân cầu cho nước
dâng lên dìm chết.
Không những phải có dũng khí trước mặt đối phương,
các sứ thần Việt Nam còn phải dũng cảm vượt qua bao
nhiêu gian khổ trên đường đi sứ. Phải vượt hàng vạn km
bằng đường bộ, đường thuỷ, khi đi xe ngựa, khi đi thuyền
trong thời gian cả đi và về kéo dài đến gần hai năm, khi
mưa, khi nắng gió, khi tuyết rơi lạnh buốt, khi đắm thuyền,
khi mưa dột không chỗ che thân, khi bị mất trộm cả tư
trang lẫn đồ triều phục, khi ốm đau bệnh tật phải bỏ xác nơi



( ^ u a n ỈU'

/)íì;hj {ịiíiu

rò fík '

sir tỉiầ n

tiữii

109

đất khách quê người trên đoạn đường dài hàng vạn km mà
sử sách cũ đả không ghi lại hết. Sứ thẩn Phạm Mưu chết
trên đường đi sứ Nguyên năm 1295, Doãn Bang Hiến chết
năm 1322, Phó sứ Phan Ninh, hành nhân Nguyễn Cát Phu
cùng 7 nhân viên đi sứ Minh bị bệnh dịch chết nãm 1435,
Phạm Quang Tiến đời Mạc đi sứ chết trên dường đi nãm
1530, Bùi Binh Quân chết nàm 1632, Đinh Nho Hoàn di sứ
nhà Thanh chết nãm 1821, sứ bộ Phạm Hi Lượng di sứ nhà
Thanh nãm 1870 bị chết 3 người, sứ bộ Phan Thanh Giản di
sứ Pháp năm 1863 cũng có 2 người bị chết...
Một chuyện nữa mà chúng ta không thể không nhắc
đến là ngoài nhiệm vụ chính là công việc chính trị được
giao, các sứ thần Đại Việt đã góp phần quan trọng trong việc
tiếp thu và phổ biến những kỳ thuật học tập dược trong khi
đi sứ. “Đi một ngày dàng học một sàng khôn”, trong nhiều
chuyến đi sứ, một số sứ thần dã chú ý học nghề, tìm hiểu
các bí mật nghề nghiệp, kỷ thuật cao, dê mang về nước,
truyền bá cho dân. Trong dân gian vẫn thường kể chuvện về

một số sứ thần đã dể công học hỏi kỷ thuật các nghề thú
công ở nước ngoài dem về dạy cho dân trong nước. Trần Lư
quê làng Bình Vọng, nay thuộc huyện Thường Tín, Hà Nội,
tinh thông nghề thuốc nén trong lần đi sứ nàm 1488 sang
Trung Quốc, dưỢc cừ làm người bốc thuốc cho các sứ thần.
Năm 1502 ông thi dỗ Tiến sĩ, dến năm 1505 ông được cử
làm Phó sứ sứ bộ sang Trung Quốc. Trong 2 lần đi sứ ông
đều có V tìm tòi học hỏi nghề vẽ sơn trang tri. Khi về nước
ông đã dạy cho dân trong làng và xung quanh nghề vẽ sơn
trang trí. Phùng Khắc Khoan qué làng Phùng Xá (còn gọi là
làng Bùng), huyện Thạch Thất, tính Hà Tây, thi dỗ Hoàng
giáp nãm 1580, dược cử đi sứ 2 lần vào nãm 1597 và 1606.
Trên đường đi sứ qua các vùng dệt lụa ở Trung Quốc, ông


10 / 1/

Mií

/i



it'l \ í i m

- íỉíìl n in r t , i o n

tnỊirờ i

đả để ý xcm xcl dân địa phương kéo tơ từ kén tằm sao cho

nhỏ, kỹ thuật làm cho sợi tơ thêm bóng, mềm và mượt, ô n g
cũng đê ý đcn kết cấu của các khung cửi sao cho dệt được
nhiều loại lụa, cách dệt lụa sao cho mịn và bóng. Khi về
nước ông dã phổ biến kỹ thuật đó cho dân làng, vì thế nên
dán làng Hùng dã dệt dược một thứ lụa mượt, mềm và bóng,
gọi là lưm. Lượt của làng Bùng nổi tiếng trong cả nước từ
dó, dần dần nghề dệt lượt dưỢc lan truyền di các vùng khác.
Trong nhiều sách cùng đều chép ông là người đã đem các
hạt giống dậu den, đậu nành (đậu tương) và hạt ngô, giấu
trong chỗ kín trong người khi qua cửa ái về nước, để phổ
biến cho dân trong nước gieo trồng, làm cho ngũ cốc thêm
phong phú hơn. 'Trần Quốc Khái người xã Quất Động,
huyện 'Thường 'Tín, Hà Nội, đ ỗ Tiến SI nãm 1637 được cử đi
sứ nhà Minh, ông dã lìm cách học được nghề thêu và nghề
làm lọng. Khi về nươc ông truyền dạy cho dán làng và xung
quanh. Khi ỏng mất, dân làng đã lập dền thờ và tôn là tổ
nghề thêu. Đặng Huy 'Thứ người xã Hưthig Xuân, huyện
Hương Điền, tính 'Thừa 'Thiên Huế, dố 'Tiến sĩ nảm 184?
đưỢc vua 'Tự T)ức cử di sứ 2 lần đến Quàng Châu, Hồng
Kông, Ma Cao. Khi về nước, ông dã dề xuất nhiều cải cách
về kinh tế, mớ mang việc thương mại. Chính ông là người
dã mua máy ánh và phụ tùng về mớ hiệu ánh dầu liên ở Hà
Nội vào năm 1869, lấy tén hiệu là Cám Hiếu Đường. Mục
dich mở hiệu ánh không phải là kinh doanh kiếm lời mà là
dế quảng cáo khoa học kỹ thuật mới trên thế giới và giúp
cho con cháu có lấm ành thờ cha mẹ khi qua đời cho trọn
chừ hiếu (nên có tén hiệu là Cảm Hiếu Đương).
Nãm 1863, vua Tự Đức cử sứ bộ Phan 'Thanh Giản sang
Pháp để điều đinh xin chuộc lại 3 tinh miền Đông. Trong
thời gian ớ Pháp, Chánh sứ Phan Thanh Gián đã mời đại sứ



c^ìuin lữ luiinị

rà ííỉr .'•ứ llhìn lit'11 lìirit...

111

nưức Ao và Thố Nhĩ Kỳ đến để lìm hiểu vc các loại thuế
liàng hoa ớ hai nước nàv vứi hi vọng làm cho ncn lài chinh
đấl nước ihoát khoi khó khàn. Cũng chính trong dịp đi sứ
nàv, Phó sứ Phạm Phú Thứ dã học hỏi người dán Ai (^ip
cách lấy nước tưới ruộng bàng xe trâu và dã phố biến ớ miền
Trung khi ỏng về nước, mọi người dều làm theo vì thấy rất
có lợi so vởi dùng sức người.
rhật đáng kính trọng biết bao những nhà ngoại giao
Đại Việt mang trong mình nhừng phẩm chất cao quý, “trí
dũng song toàn”, truyền thống anh hùng bất khuất của dấi
nước Việt Nam. Thiết nghĩ những phấm chất của họ vẫn là
những bài học bổ ích cần thiết cho các nhà ngoại giao ngày
nay. Tất nhiên chừ Trí ngày nay cũng bao hàm một nội
dung mới phù hỢp với thời dại (như tinh thõng ngoại ngừ,
hiếu biết dịa lý, lịch sứ, chính trị, kinh tế, van hoá, dường
lối của đói phương, hiểu biết dến một mức dộ nhất dịnh
khoa học kỹ thuật...). Chừ Dũng thể hiện ở chỗ vưm lén mọi
khỏ khàn dê hoàn thành nhiệm vụ dược giao, luôn dặt lợi
ích cùa dấi nước lên trên, dám nêu những nhận định chu
quan, nhừng kiến giải phục vụ sự phát iriến cua dân tộc.
Ngày nay vai trò cúa các nhà ngoại giao trong việc tiếp thu
những thành tựu của khoa học xã hội, nhân vãn và khoa họckỹ thuật liền bộ trên thế giới, góp phần thúc dẩy sự phát

triển kinh tề, vãn hoá, xã hội trong nước, dấy mạnh giao lưu
vàn hoá, xã hội vơi các nước là không thể thiếu dược. Có bao
nhiêu nhà ngoại giao v^iệt Nam dà học tập và thể hiện dược
những phám chất của ông cha ta ngày xưa, góp phần thuc
đấy dất nươc Việt Nam duổi kịp các nước phat triển trong
khu vực và trên thế giới?
Nguyễn Thế Long


1 1—Ị li ,<
ỉ ièt N a m - tlíil nướí , con ìniười

TRƯ ƠNG TR Ọ N G
Theo sách Cố Kim thận ngón (những lời nói hay xưa nay)
của Phạm Thái, Trương Trọng, người quận Nhật Nam có
học hành ít nhiều và làm thuộc lại trong quận.
Bấy giờ nước la đang lệ thuộc phương Bắc, Trương
Trọng dược viên Thái thú Nhật Nam cử sang kinh đô Lạc
Dương (nay thuộc tỉnh Hà Nam, Trung Quốc) thay mật
Thái thú tâu bày công việc trong quận lên vua Hán.
Trương Trọng đến kinh đô vào chầu vua Hán. Hán
Minh đế'*’ thấy Trương Trọng thấp bé lại là dân “man di”
(mọi rỢ) ngoài cõi xa tó ý khinh thường, hỏi xách mé:
- Viên lại nhó kia (tiểu lại) người quận nào?
Trương Trọng khảng khái đáp:
- riiần là Kè lại, ngươi thay mặt Thái thú Nhật Nam
vào chầu vua và dâng sớ lên triều đình, chứ không phải là
một viên lại nhỏ. Bệ hạ muốn dùng người có tài cán hay chỉ
muốn đo xương thịt?

Vua Hán nghe câu trả lời cứng cỏi và dúng dắn của
Trương Trọng xong thì tức lắm nhưng đành im lặng.
.Mấy hôm sau, nhân dịp Tết Nguyên đán, vua mớ tiệc.
Trăm quan vào hầu và chúc tết vua trong đó có Trương
Trọng. Thấy ông, vua Hán nghĩ ngay tơi chuyện hôm trước
' ’ Mán Minh (,lc(2S - 75). con ihứ lư ciiaMán Ụuaniỉ Vũ de. là \ị hoàim
dè ihử hai nhà Dónu I lán troiu; lịch sư Truim Ọuốc. trị \i lừ năm 57
dcn nãni 75, I ronu lịch sư nhà Dônu Mán. Minh de dược coi là một
hoáne dè anh minh, khi ỏne chắp chinh. Ui\ không theo chu irưcaii:
dựa \áo "nhu" tlc tiị lunrc như phụ thăn l .ưu l ú mà ihi hành sự ihoim
irị há khãc nhưne vẫn C('> nhừim cône lao nhầl dịnh. Onu cunu cồ chính
I.|u\cn. thu phục dược I lune Nô sà I â\ \'ực. m o dưừnu cho l’hậl eiáo
phái iriên. mơ ra sự eiao lưu săn hỏa giữa I rung Ọuoc sà râs ,A.


c^titiii htĩ lHJniị ĩịia u

r à i í í í ' sứ

lỉiíìii ticu lĩìèu... 1 13

và muốn rửa hận nên nhân đủ các quan ở đấy, y hỏi kháy;
- “Nhật Nam” có nghĩa là “phía nam mặt trời”. Ta nghe
nói tất cả nhà cửa quận này đều xoay hướng về phương Bắc
để trông thấy mặt trời phải không?
Câu hỏi kiêu ngạo trên ý muốn xưng thiên triều phương
Bắc là mặt trời còn mọi người thì phải phục tùng. Trương
Trọng bình tĩnh đáp;
-Tâu bệ hạ, theo thiển ý của thần thì “Nhật Nam”
không phải là ở phía nam mặt trời. Trung nguyên của bệ hạ

có quận gọi là “Vân Trung” mà đâu có ở giữa mây, có nơi
gọi là “Kim Thành” mà lại không phải là toà thành xây
bằng vàng. Tên thế thôi chứ thực có vậy đâu. Nơi nào thì
mặt trời cũng ở đằng Đông cả.
Lời đối đáp rắn rỏi và sự thông minh nhanh trí của
Trương Trọng đả khiến nhà vua thán phục ông một lần nữa.
Theo diendan.hocmai.vn

NGUYÊN ĐẠI PH Á P "TA LÀ SỨ THẦN CỦA M Ộ T N Ư Ớ C ”*’*
ỏng sinh khoảng năm 1260, ỏng làm Ký lục dưới triều Trần
Nhân Tông. Năm 1292, sau chiếti thắng quân Nguyên Mông lần
thứ 2, vua Trần Nhãn Tông muốn hòa đàm để tránh đổ máu, vua
Nguvên đòi vua Trần phái sang hầu, vua sai ông sang hòa đàm,
cuộc hòa đàm không thành vì vua Nguyên chưa từ bỏ dã tăm xâm
lược nước ta. Năm 1306 ỏng phò công chúa Huyền Trang sang
’ ’ Nguồn: hUp://vanhoangheun.\ n/nhung-goc-nhin-van-hoa/goc-nhin-vanhoa/3962-may-mau-chuycn-di-su-trung-quoc-lhoi-da-doc-lap.hlml


114 7(i .Síír/i

ỉ 'i r / T^ani

- (ỉíit nước,

con inỊirtrì "

làm Hoàng hậu vua Chăm là Chế Mãn. Sau đó làm trấn thủ 2
cháu: Ô, Lý (cháu Thuận, châu Hoá) mất năm I34ĩ.
Sau 3 lần bị thua to tại Đại Việt, vua Nguyên vẫn nuôi ý
định mang quân sang trả thù. Để tránh một cuộc chiến

tranh mới có thể xẩy ra, vua Trần đã cử Nguyễn Đại Pháp
sang sứ với ý định làm dịu quan hệ hai nước. Nguyễn Đại
Pháp đã hoàn thành sứ nìạng, chuyến đi của ông là một
trong mấy nguyên nhân quan trọng khiến nhà Nguyên
không dám cất quân sang xâm lăng nước ta một lần nữa.
Trước khi về nước Nguyễn Đại Pháp đã tới chào từ biệt
mấy quan chức nhà Nguyên. Không ngờ thấy Trần ích Tắc
cũng ngồi ở đó. Trần ích Tắc là con vua Trần Thái Tông,
em vua Trần Thánh Tông và anh ruột tướng Trần Nhật
Duật nổi tiếng. Trần ích Tắc là người thông minh học giỏi
nhưng ngầm có ý tranh ngôi vua từ lâu, nên khi quân
Nguyên sang đánh nước ta lần thứ hai, Trần ích Tắc đã
mang cả gia quyến ra hàng và khi quân Nguyên bại trận đã
theo chúng về Trung Quốc, được chúng phong cho chức
“An Nam quốc vương” hờ. Thấy Nguyễn Đại Pháp không
chào mình, Trấn ích Tắc lên giọng hỏi: “Ngươi có phải là
kẻ ghi chép ở nhà Chiêu Đại vương không? (Chiêu Đại
vương là anh em cùng mẹ với Trần ích Tắc).
Nguyễn Đại Pháp khoan thai trả lời: Thời thế đã đổi
thay. Đại Pháp này trước đây đúng là kẻ ghi chép tại nhà
Chiêu Đại vương, nhưng nay là sứ thần của nước Đại Việt,
còn ông trước đây đúng là con vua một nước nhưng nay đã
là kẻ đầu hàng giặc!
ích Tắc nghe xong vô cùng hổ then!
Theo vanhoanghean.vn


( ^ u a n l ừ Ìui/Iìị iịiíio rù íú r s ứ tỉitìn ỉièu íìiru... I 1 5

ĐOÀN NHỮ HÀI,

SỨ T H Ầ n B ỏ l ệ l ạ y v u a X ứ n g ư ờ i (•»
Một lần, vào tháng 5, năm Kỷ Hợi 1299, Thượng hoàng
Nhân Tông từ phủ Thiên Trường (Nam Định ngày nay) về
Thăng Long xem xét việc triều chính, suốt cả buổi sáng vẫn
không thấy vua con là Anh Tông ra mắt, hỏi ra mới biết nhà
vua uống rượu xương bồ say vùi, cung nhân vào gọi mãi vẫn
không dậy. Thượng hoàng nổi giận, đùng đùng bỏ về Thiên
Trường, xuống chiếu lệnh cho các quan ngày mai đều phải
tới phủ để điểm danh, ai trái lệnh sẽ bị xử tội.
Mãi đến xế trưa Anh Tông mới linh rượu, hoảng quá, đi
bộ qua chùa Tư Phúc định khấn Phật cứu nạn thì bỗng gặp
một nho sinh, bèn bảo; Ta vì quá chén mà đắc tội với
Thượng hoàng, ngươi hây thảo cho ta một tờ biểu tạ lỗi.
Nho sinh vâng lời làm ngay. Anh Tông lập tức đem người
này xuống thuyền, chạy suốt đêm về Thiên Trường dâng
biểu tạ lỗi. Đến nơi, nho sinh quỳ dâng sớ. Thượng hoàng
làm ngơ, nho sinh vẫn phủ phục ngoài thềm mãi đến chiều,
miía to gió lớn vẫn không đứng lên.
Thượng hoàng thấy vậy cảm động, sai đưa tờ biểu vào
xem qua rồi nói với Anh Tông: Trẫm còn có con khác có thể
nối ngôi được. Trẫm còn sống mà còn như thế, sau này biết
đến thế nào?!
Anh Tông cúi đầu tạ lỗi, Thượng hoàng lại hỏi ai làm
bài biểu, Anh Tông tỏ thật. Thượng hoàng cho mời nho
sinh vào ban lời khen, người này xưng tên là Đoàn Nhữ Hài.
về lại kinh sư, Anh Tông phong họ Đoàn làm Trung tán
' *

Nguồn: htlp:/Av\v\v.buodanang.vn/channcl/5433/20l 112/ho-so-tcnduong-doan-nhu-hai-su-than-bu-lc-la)-vua-xu-nguoi-2144274



1 1 6 7 li «íí7i

I iV/ Ỉ^
khi ấy mới 20 tuổi.
Đoàn Nhữ Hài (1280-1335) người làng Hội Xuyên,
huvện Trưèmg Tân, lộ Hồng Châu (nay là huyện Gia Lộc,
tính Hải Dương), ô n g làm quan trái ba đời vua Trần Anh
Tông (1293-1314), Trần Minh Tông (1314-1329) và Trần
Hiến Tông (1329-1341).
Tương truyền, ông nổi tiếng ham học ngay từ nhỏ, tay
không lúc nào rời khỏi sách. Đến tuổi thiếu niên, ông lên
kinh đô miệt mài sôi kinh nấu sử, lắm lúc đọc sách mải mê
đến quên cả trời đất xung quanh. Trong một lần như thế,
ông tình cờ được gặp vua Trần Anh Tông và cuộc hội ngộ
ấy đã làm thay đổi đời ông như đã nói trên.
Năm 1312, ông đi sứ sang Chiêm Thành. Theo thông lệ
trước đó, sứ ta phái lạy vua Chiêm trước rồi sau mới mở tờ
chiếu, nhưng ông thì khác, ông đi thẳng đến đặt tờ chiếu của
vua lên án, rồi nói với vua Chiêm: Từ khi sứ thiên triều mang
chiếu thư của thiên từ sang, xa cách ánh sáng lâu ngày, nay mở
chiếu thư, thực như trông thấy mặt thiên tử, tôi phải lạy chiếu
thư đã, rồi mới tuyên đọc sau. Nói rồi, ông quay vào tờ chiếu
mà lạy. Vua Chiêm lúc ấy đứng bên cạnh, có ý giận nhưng
không bắt bẻ vào đâu đưỢc bởi lấy cớ lạy chiếu thư thì về lý là
thuận, mà còn giữ khí tiết bất khuất của sứ quan.
Từ đó, noi gương ông, sứ thần nước ta không phải lạy
vua Chiêm nữa. Sau sự kiện đó, ông càng được vua Anh
Tông sủng ái. Tháng 12 năm Giáp Thìn (1304), ông được

thăng làm Tri khu Mật viện sự - một chức vụ rất quan trọng
trong triều nhà Trần, thường chi giao cho những người tôn
thất. Đó là ân sủng cao vời vua Anh Tông dành cho ông.
Sau đó, ông còn được giao những nhiệm vụ quan trọng như
việc đi phủ dụ hai châu Ô, Lý mới được nhập vào Đại Việt


c ^tu iii ỉh’

/>ư/ỉy (»/1/0 /’!/ n ỉc s/r tỉiiìn

tiiUi

/>/»'//.,, ] 17

và đổi tên thành châu Thuận, châu Hóa.
Sang đời Trần Hiến Tỏng, Thượng hoàng Minh Tông
thân chinh đi đánh Ai Lao, ông làm đốc tướng, vốn xuất
thân là một văn quan, không có lầm nhìn chiến lược và kinh
nghiệm trận mạc, óng bị đánh thua tan tác, bản thân ông sa
xuống nước sông La mà chết. Sau khi mất ông đưực truy
phong làm Thượng đắng Phúc thần, các làng trong huyện
Gia Lộc như Hội Xuyên, Tàng Thượng, Phó Trào đều có
miếu thờ ông.
Vc sau, Đặng Minh Khiêm (1470 - 1532), một danh
thần đời Lê Thánh Tông (1442 - 1497) có thơ đề vịnh:
Tạ quá vàn thành kết chủ tri,
S ứ mao võ tiết dư khu trì.
Tự tòng nữu thắng kiêu tâm khời,
Tiết thủy giang hàn tráng si bi.

Dịch thơ:
Tự lỗi vùn hay chúa biết tài,
Cờ mao, cờ sứ mói dong hoài.
Sau khi quen thắng thành kiêu ngạo,
Lạnh lẽo sông La khách thở dài.
Lê Gia Lộc

HÔ TÒ N G TH Ỏ C Đ Ọ C THƠ CHÊ HẠNG v õ ,
CHỮA TH Ơ VƯƠNG BỘT
Hồ Tông Thốc ngươi làng Thổ Thành phủ Diễn Châu,
ngụ tại xà Vô Ngại huyện Dường Hào, hiện chưa rõ ông
sinh và mất năm nào.
Theo một vài tài liệu thì khoáng những năm Thiệu


1 1 8

7 1«

Sííí li

T ict

- J .u n ư ớ í, co n n\(ườị

Khánh đời Trần Nghệ Tỏng (1370-1372), Hồ Tông Thốc thi
đậu Trạng nguyên, từng làm An phủ sứ và đã có lần đi sứ
Trung Quốc. Vào những năm cuối niên hiệu Xương Phù đời
'Trần Phế Đế (1377-1388) Hồ Tông Thốc được thãng đến
chức Hàn lâm học sĩ phụng chì kiêm Thẩm Hình viện sứ,

rồi Trung thư lệnh. Khi Hồ Quý Ly nắm quyền (1400-1407)
biết thời thế không lárn gì được, óng lui về giữ chữ nhàn,
gứi mình vào thơ và rượu, ngoài 80 tuói thì mất.
về con người Hồ Tông Thốc, sách Nam Ong mộng liic
của Hồ Nguyên Trừng cho biết như sau: Hồ Tỏng Thốc thi
đỗ lừ hồi còn trề, rất có tài danh. Mới đầu chưa nổi tiếng
lắm. Nhân tiết Nguyên tiêu có đạo nhân Pháp quan họ Lê
mơ tiệc hoa đãng đê đón khách vãn chương, Hồ Tông Thốc
nhận giấy mời đề thơ, trong một đêm ngay trên tiệc làm
trảm bài thơ, uống trăm chén rượu. Mọi người đều xúm
nhìn thán phục, không ai địch nổi. Từ đó danh lừng kinh
dô. về sau dùng lài vãn học làm thầy thợ cho người.
Theo Đại \ 'iệt thông sử của Lê Quý Đôn và Lụii triều hiến
chương loại chí của Phan Huy Chú thì Hồ Tông Thốc có các
lác phẩm: Việt sử cương mục, Thao nhàn hiệu tần tập, Việt Nam
thế chí, Phú học chi nam. Nhưng dáng tiếc dến nay dều không
còn. Hiện các tác phẩm của ông được biết đến chỉ gồm hai
bài thơ, bài lựa sách 17t’í Nam thê chí và bài văn bia Từ An tự
bi minh tịnh tự ông viết cho chùa Từ Ân ở xã Đồng Hải phủ
Thái Ninh tinh Thái Bình, do các tác giả sách Thơ vãn Lý Trần công bố.
Xung quanh việc di sứ sang Tàu của Hồ Tông Thốc có
một số giai thoại.
1. Đọc thơ nhạo Hạng Vũ
Dưới thời Trần Nghệ Tông (1370 - 1372), Hồ Tông


C)uan hi’ l'(/nịị ịịiiHì rà các sứ thần ticti lìièu...

119


Thốc được nhà vua cứ làm Chánh sứ sang phương Bắc (nhà
Nguyên - 'ĩrung Quốc), lúc di qua miếu thờ Hạng Vù, một
ngôi miếu rất thiêng trên sông ổ Giang, ông có đề một bài
thơ tứ tuyệt phẽ phan Hạng Vũ (danh tướng tranh nghiệp
dế với Lưu Bang), sự việc này dược kề lại qua hai giai thoại.
- Trong tác phấm Giai thoại vãn học do Hoàng Ngọc
Phách và Kiều '1 hu Hoạch sưu tầm bién soạn (Nhà xuất bán
Van học Hà Nội, 1988, tr.35, 36) có viết: “Tương truyền một
hôm, thuyền của sứ bộ di trên sông Ô Giang, đến chỗ có
miếu thờ Hạng Vũ dựng trên bờ. Người ta dồn rằng, miếu
này rất thiêng, hẻ thuyền bè qua lại trên sông mà không ghé
vào lễ bái thì sẽ bị dắm.
Tuy có biết chuyện đó, nhưng khi qua miếu, Hồ Tông
Thốc vẫn không cho dốt vàng, cứ để thuyền đi thẳng. Quả
nhiên, ngay lúc dó, sóng gió bỗng nổi lên ầm ầm, chiếc
thuyền chòng chành chỉ chực đắm. Hồ Tông Thốc chẳng hề
nao núng, ung dung ra đầu thuyền ngâm một bài thơ:
Quán hất quản hề, thần bất thần
Như hà miếu mạo tại giang tân?
Giang Đông tích nhật do hiểm tiêu
Hà tích thiêu tiền bách van cán?
Dịch:
Vuư chắng vua, mà tôi chẳng tôi,
]"en sóng nnếu mạo đê thờat?
Giang Dóng ngày trước còn ché nhỏ,
Tiền giâv nay sao lại vật nài?
Hồ Tỏng Thốc vừa đọc xong mấy câu thơ trên tự nhiên
gió lặng sóng yên. Nghe nói miếu thừ Hạng Võ từ đó mất
thiêng.
- 'ITong sách Tniyến kv mạn lục của Nguyễn Dữ viết dưới



1 2 0 7 li

Síỉcli

V i i ’t

ĩ^anì - i/iíl

n ư ớ c,

cnn n^ườỉ

thời nhà Lê, trong câu chuyện ờ đền Hạng Vương thì viết;
“Quan thừa chỉ Hồ Tông Thốc là người hay thơ lại giỏi lối mía
mai giễu cợt. Khoảng dưới đời Trần, phụng mệnh sang Trung
Quốc, nhân dịp đi qua đền Hạng Vương, có đề bài thơ:
Bàc/i nhị sơn hà''’ khởi chiến phong
Huề tương tử đệ nhập Quan Trung,
Yên tiêu Hàm Cốc Cháu cung lãnh
Tuyết tán Hồng môn ngọc đấu không.
Nhất hại, hữu thiên vong Trạch tả
Trimg lai vò địa đáo Giang Đông,
Kinh doanh ngũ tài thành hà sự
Tiêu đắc khu khu láng Lỗ Công''.
Với những chú giải (1), (2) xin dịch lại bài thơĐc ớ đền
Hạng Vương của Hồ Tông Thốc như sau:
Bách Việt non sông nổi hụi hồng
Đem đoàn đệ tử đến Quan Trung

i hực r;i tmns: chữ Nho. chừ Nhị ỈK phồn Ihc rất gằn \(Vi chữ Viộl
nhất là khi \ ici ironu cô \ ăn. i)ọc là "lỉách Vicl MTTI hà"... cụm từ nà\
rất thỏm; dung dc chi non sônii liách \'ict. llạm: Vũ khơi nuhĩa ơ Hách
Việt, thật quá chinh xác. Nước Siĩchănu phui thuộc Hách Vicl thì là lii'.’
Nhà rần cùni> lù Hách Vicl mà thôi. Niiuxcn
bài th(T cua llo rỏm:
I hoc xác dịnh cuoc khơi nuhĩa cùa I lạnc Vũ chônii I ân là lịch sư Hách
Viộl. dã bị ngươi dơi sau "mắt mờ dọc queo". Việt M thành n h ịit.
thành ra nưhĩa khónu thê hiêu nôi...
Hai chữ cuối cua bài thơ là "l.ỗ t ’ônu". dược aiai thích khi Hạng \ ù
chcl dà dược I ưu Haim dùnu le mai lánu như l .ỗ t ónii. I.ồ t'ónu là ai?
Mai táim như l ồ Cóm> là trọnu ha\ khinh? I,ồ t'ỏnu lức là t hu t'õ n a
Dán. v ươnii nước l.ồ. Chu Côna là nuười dã phò tá Chu I hành Vươnc
dẹp loạn, õn dịnh triều chinh. gâ> lạo cơ nehiệp nhá Chu gần nghìn
năm. l.c nuhi I rung lloa dcu bắt dau lừ Chu Cóna ca. l ưu Hang dùnu
le táng cua c h u Côim doi xới Hạng Vũ thi có thế nói là thê hiện sự cơi
Irona hcl mức.


(^ u n n ỉiị' Itíìiìiị

ựíí/o rù

rát' sứ llhìn

//Vf/ liicu. . 1!21

Khói tan Hàm Cốc cung châu lạnh
Tuyết rã Hồng Món đấu ngọc không
Thua chạv giời XUI đường Trạch Tả

Quav về đất lấp nèo Giang Đông
Năm năm lăn lộn hoài công cốc
Còn được VÙI trong má Lỗ Công.
Việc Hồ Tông Thốc đi sứ Sang Trung Quốc, khi đi qua
đền Hạng Vũ trên bờ sông Ô Giang có đề một bài thơ là sự
thật. Còn qua giai thoại có vẻ hoang đường là việc Hồ Tông
Thốc đàm luận với Hạng vỏ trong Tnivền kv mạn lục do bài
thơ trên, càng cho thấy được lài làm thơ của Hồ Tông rhốc.
Cũng qua đó đê nói lên tài biện bạch, giỏi việc đời, tính tình
thẳng thắn, lòng nhân đạo trong đối nhân xử thế, biết tình
biết nghĩa, biết Ic phái trước mọi viộc, đồng thời cũng biểu
hiện khí phách của sứ thần Việt Nam.
2. Sửa thơ Vương Bột
Vương Bột một trong những nhà thơ xuất sắc thời đầu
Đường (650-675), tác giả bài thơ “Đằng Vương các” nổi
tiếng. Ngoài ra tương truyền sau ông bị chết đuối trên một
con sông trên đường đi thảm cha đang làm quan ở Giao Chi
thì từ đó trên khúc sông này mỗi khi đêm khuya thanh vắng
thường vang lên hai câu thơ rất được người đời ưa thích, cho
là tuyệt tác:
“Lạc hà dữ cỏ lộ tề phi.
Thu thuv cộng trường thiân nhất sắc"
Dịch nghĩa: Ráng chiều với con cò Ic loi cùng bay.
Nưởc thu cùng trời xanh một màu.
Trên đường đi sứ qua khúc sông này, nghe câu chuyện
trên, Hồ Tông Thốc liền đứng ra đầu mũi thuyền, nói: Hà tất


1 2 — / l i .siít/i


I ú 't \ t W ì - t l i i l l ì t n r t , ( 0 /1 /n>irờf

dữ, cộng nhị tự? Nghĩa là: Việc gì phải dùng hai chừ dữ (với) và
cộng (cung). Những người cùng di hỏi ông tại sao lại như vậy,
ỏng trá lừi: dà nóiíê pht (cùng bay) thì thêm chữíií? (với) là
thừa. Đã nói nhất sắc (một màu) thì thêm chữcỘHg (cùng) là
thừa. Và ông dọc toàn văn câu sứa của mình:
“Lực hà có lộ té phi,
Thu íhuv trường thĩêti nhất săc. ”
Người nghe đều phục ông bắt bè có lý, về văn lự có gọn,
và hàm súc hơn (Nhưng về âm hưởng thì không hay bằng
nguyên văn).
Tổng hợp

LƯỠNG Q U ố C TRẠNG NGUYÊN ĐÀO

sư TÍCH

( 1 3 5 0 - 1396)'*»
Đào Sư Tích sinh nãm Canh Dần (1350), mất năm Bính
Tý (1396), quê làng c ổ Lễ, huyện Tây Chân (nay thuộc thị
trấn Cổ Lễ, huyện Trực Ninh, tinh Nam Định), ô ng là người
thứ hai dỗ 'IVạng nguyên trong số 5 Trạng nguyên của đất
Nam Định vãn hiến. Do thời gian dã lâu, các lài liệu lịch sử
viết về ông hiện còn rất ít, lại sơ lược, nhưng công danh sự
nghiệp cùa ông dưỢc dân gian truyền tụng khá nhiều. Những
giai thoại về L)ào Sư Tích do dân gian sáng lạo ra trên cơ sở sự
thật lịch sứ, cỏ cái dũng sự thật, có cái do nhân dân hư cấu nén.
Nhưng dù là do dân gian hư cấu thì những giai thoại vẫn mang
trong mình nó cái lỏi lịch sử. Những giai thoại về Đào Sư Tích

là hình thức thể hiện, gứi gam lình cám, ươc vọng của nhân
hup; 'bai\ lct.\ ictnamíiiaphii com 2011 ()4/trang-neu\en-ao-su-tich.htnil


ỈU’ ỈHítiịi liííHi rù lík sử lỉiiiii liru lìiru,- 1 3 3

dân đối với Ông. Qua các giai ihoại ta hiểu về nhân cách Trạng
nguyên Đào Sư Tích thêm sáng tỏ.
Đào Sư Tích xuất thân trong một dòng họ có truyền
thống khoa bảng lâu dời. Ngay từ thời Trần Nhân Tông, họ
Đào đã có Đào Dương Bật dồ Thái học sinh, là bậc Khai
quốc công thần nhà Trần, từng giữ chức Thưthig thư bộ
Binh kiêm Đông các Đại học sĩ.
Đào Sư Tích làm quan trong th('?i kỳ nhà Trần suy thoái.
Ba vị vua mà ông từng phụng sự là Trần Duệ Tông (1372 1377), Trần Phế Đế (1378 - 1388), Trần Thuận Tỏng (1388 1398) dều chỉ làm vì, thực quyền vấn trong tay Thượng hoàng
Trần Nghẹ Tông. Nhưng Trần Nghệ Tông bán tính nhu
nhưỢc, chẩng dám lự quyết doán việc gi, lại hết lòng tin dùng
Hồ Quý Ly, giải quvết mọi việc thưtơng nghe thc-o lơi Hồ Quý
Ly nên Hồ Quý Ly mtVi thực sự là ngưih có vai trò quvết dịnh
mọi việc chính sựcúa triều đình.
Chán ngán trước cãnh trong triều vua quan mưu hại lẫn
nhau, bất mãn vì Hồ Quý Ly chuyên quyền, tiên đoán được
nhà Trần sẽ mất về tay họ Hồ mà mình bất lực, Đào Sư
Tích đã cáo quan về quê làm thuốc chữa bệnh và dạy học.
Trong thời gian từ 1393 dến 1396, sau khi dã cáo quan, ông
còn phải đi sứ Trung Quốc...
Thời gian này, nhà Minh tăng cưìíng sức ép vơi vua
Trần nhằm tạo cớ thực hiện âm mifu xâm chiếm Đại Việt.
Chúng liên tiếp đưa các yêu sách ngày càng nặng nề dối với
nươc ta:

- Tháng 9 năm Giáp Tý (1384) chúng dõi ta phải nộp
lương thực cung cấp cho quân Minh đóng ứ Lâm An (Vân
Nam, 'Trung Quốc).
- 'Tháng 3 năm Ất Sửu (1385) chúng dõi ta nộp 20 tăng


124

7

li MÌi lì



ict 'S a tn - iliìi Iiirới , m n nịiirởi

nhân (nhà sư).
- Tháng 2 năm Bính Dần (1386) chúng đòi ta nộp
những loài cây ăn quả quý, lại đòi cấp cho chúng 50 con voi
và cho chúng mưỢn đường đi đánh Chiêm Thành.
- Tháng 6 năm Ál Hợi (1395) quân Minh đánh các man
làm phản ử Long Châu và Phụng Nghĩa (Quáng Tây, Trung
Quốc), đòi ta phải cấp cho chúng 5 vạn quân, 50 thớt voi, 50
vạn thạch lưcỉng... Ta chỉ nộp một ít gạo, chúng lại đòi ta
phải nộp lãng nhân, thanh niên bị thiến, phụ nừ xoa bóp...
Trước linh thế đó, vua Trần rất cần người tài giỏi, có đủ
khả năng xoay chuyến tình thế đi sứ đê thực hiện chủ
trương hoà hoãn. Trong triều có người nói chỉ có Đào Sư
Tích mới có đu khả nàng để thực hiện nhiệm vụ này. Mặc
dù không ưa gì Đào Sư Tích, Hồ Quý Ly vẫn phải xin vua

Trần giao cho ỏng nhiệm vụ đi sứ. Khi Hồ Quý Ly về cổ Lễ
để triệu Đào Sư Tích vào triều thì ông đã ờ Tam Đảo.
Tưởng ông bỏ trốn, Hồ Quý Ly ra lệnh nếu Đào Sư Tích
không hồi triều đi sứ thì sẽ bị tru di lam tộc. Đề phòng họ
Đào sau này bị Hồ Quý Ly tàn sát, Đào Sư Tích đã cho con
cháu đổi ra họ Phạm và hồi triều nhận trách nhiệm đi sứ
nhà Minh. Sau này con cháu ông lại có người đổi thành họ
Dương, do dó từ đường họ Đào ờ cổ Lề hiện nay có bức đại
tự ghi là Đào - Phạm - Dương.
Dáo Sư Tích đã di sứ nhà Minh vi quyền lợi của trăm
họ, vì yêu cầu của đất nước. Bàng lài nàng hơn người, ông
dâ thuyct phục dược vua Minh giảm nhẹ yêu sách, dặc biệt
dã bãi bỏ việc dõi cống nạp tảng nhân, kéo dài thời gian hoà
hoãn cho Dại Việt. Tương truyền, thời dó nhà Minh cho
người vơ vét sách thuốc bằng chữ Nôm của nước ta, đem về
nước xếp cao dến nóc nhà, nhưng không có ai đọc thạo.
Nhân có Đào Sư Tích sang sứ, vua Minh nhờ ông đọc và


c^iítin lu' iHintị

ỉ^/V/orá

lá c st'r lỉuin liètỉ ỉìírtt...

1^5

tóm tãt giúp để Lý Sĩ Tài ghi lại bằng chừ Hán ihành bộ Y
táng lát dọc, ỏng chí đọc irong ít ngày là hếi kho sách. Vua
Minh vô cùng kinh ngạc và khâm phục, đả tặng ỏng bốn

chữ Lường quốc Trạng nguyên. Hiện bốn chư này còn được
khắc irong lăng Trạng nguyên Đào Sư Tích ớ cổ Lẻ.
Việc đi sứ cúa Đào Sư Tích không thấy ghi trong lịch
sử. Do thời gian đã quá lâu, việc biên soạn lịch sử có nhiều
sự kiện bị bỏ sót là điều dễ hiểu. Nhiều tài liệu của những
tác gia nghiên cứu về Đào Sư Tích hiện nay đều thừa nhận
việc đi sứ của ông nhưng không nói rò là ông đi sứ vào thời
gian nào. Lý lịch di tích lịch sử văn hoá nhà thờ Trạng
nguyên Đào Sư Tích của Bảo tàng Nam Hà chép rằng:
- “Theo truyền thuyết và tư liệu lịch sử thì khi ông mất
tại đất Trung Quốc, có 23 người, ngựa của nhà Minh đã hộ
tống thi hài Trạng nguyên Đào Sư Tích về an táng tại quê
hương xứ Hạ Đồng (Cổ Lễ) theo lời di chúc của ông...”
Nếu đúng như vậv thì Đào Sư Tích đi sứ nhà Minh vào
năm 1395 - 1396 và mất trong khi đi sứ ở Trung Quốc
chăng? Có một ý kiến khác cho biết Đào Sư Tích mất tại
quê (Thời Trần và Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn trên quê
hươìig Nam Hà, Sở Văn hoá - Thông tin Nam Hà xuất bản
1996, trang 119). Tuy nhiên, về cái chết của Đào Sư Tích,
trong dân gian còn lưu truyền một giai thoại như sau:
“Thời hạn đi sứ của Đào Sư Tích sắp hết, vua Minh hỏi
rằng;
- Nếu Bắc (chỉ Trung Quốc) đánh Nam (chỉ Đại Việt)
thì ai thắng?
Đào Sư Tích trả lời bằng hai câu thơ:
- Bắc thắng, Nam thua, thua thua thắng
Nam thua, Bắc thắng, thắng thắng thua.


1 2 6


7

li

K ÍI/|

Í6 v /

h ỉí in i

-

iỉiìl n ư ớ í ,

c 'o / 1

Ii^ ir ờ i

Nghe câu trả lời của sứ thần Đại Việt, các quan võ nhà
Minh cười vang khoái trá. Nhưng vua Minh lại không thế
cười được vì hiểu ý câu trả lời của Đào Sư Tích. Trong câu
trả lời có 5 chữ thắng, 5 chừ thua, nghĩa là đánh Đại Việt thì
chưa chắc đã thắng đâu, chi bằng hoà là hơn. Câu trả lời của
Đào Sư Tích không làm phật lòng vua Minh mà lại duy trì
được mục đích kéo dài thời gian hoà hoàn cho Đại Việt.
Vua Minh lại hỏi:
- Nhà Trần suy vong, Hồ Quý Ly chuyên quyền, lòng
dân ly tán, tại sao ta không thắng?
Đào Sư Tích trả lời củng bằng hai câu thơ:

- Trần thực, Hồ hư, hư hư thực
Cổ lai chinh chiến thực hư hư
(Nhà Trần là thực, Hồ chỉ là hư, hư là hư thực
Xưa nay chinh chiến thực thực hư hư)
Vua Minh biết Đào Sư Tích là người lài giỏi, không thể
khuất phục được bèn nghĩ cách giết đi. Vua Minh sai một
quan đại thần tiễn Đào Sư Tích về nơi nghỉ và đưa cho vị
này 4 phong thư, dặn mở theo thứ tự như thế như thế... Khi
mở phong thư thứ nhất thấy có dòng chữ: Thượng văn vấn,
hạ tri vương.
Vị đại thần nhà Minh không hiểu ra làm sao. Đào Sư
Tích liền bảo:
- Vua Minh quá khen, cho ta là bậc thánh hiền. Ta đâu
dám nhận lời khen đó.
Và ông giải thích cho vị đại thần nhà Minh rõ:
- Văn là nghe, nghe là tri, tri là nhĩ. vấn là hỏi, hỏi là
mồm, mồm là khẩu. Bên dưới có chữ vương. Hợp ba chữ;
nhĩ, khẩu, vương thành chữ thánh. Vua Minh có ý bảo ta là


c ^ u a n Ịìê ỉntnịị ịỊÌiio rà n íi' s ứ íỊìần ticii

127

thánh nhân đó mà.
Trong phong thư thứ hai có câu trả lời cho phong thư
thứ nhất. Câu trả lời của Đào Sư Tích hoàn toàn đúng với
đáp án trong phong thư thứ hai.
Phong thư thứ ba là sắc phong Đào Sư Tích làm Lưỡng
quốc Trạng nguyên.

Phong thư thứ tư có hai dòng chữ:
Hậu ìioạ
Nhất dược nhị đao
Vị đại thần hiểu rằng vua Minh lệnh cho ông phải giết
Đào Sư Tích nên ông rất hoang mang, buồn bả. Đào Sư
Tích bình thản đón nhận cái chết, vi ông đă đoán biết trước
việc này. ông an ủi vị đại thần nọ:
- Thánh thì thoát tục. ô n g chẳng nên quá buồn rầu. Chỉ
xin cho được chết bằng thuốc độc để ông khỏi phải khổ tâm
khi phải trực tiếp giết ta.
Trước khi uống thuốc độc, ông dặn dò người nhà đi
theo rằng:
- Sau khi ta chết hãy đưa thi hài về chôn ở xứ Hạ Đồng
(Cổ Lễ quê ông), ở chỗ giáp ranh ba thôn Đông (Đông
Trung nay thuộc Trung Lao, Đông Thượng nay thuộc
Đông Thượng, Đông Hạ nay thuộc Trực Đông) có một ngôi
mộ, hãy trồng một cây đa ở ngôi mộ đó cho ta ”.
Ngôi mộ đó chính là mộ bà Lê Thị Đông, người bạn
thân thiết thời thơ ấu của Đào quan trạng.
Sau khi Đào Sư Tích mất, Vua Minh đã cho đưa thi hài
ông về quê theo lời di chúc của ông. Dân gian còn lưu
truyền câu: “Nhị thập tam kỵ mã Ngô Minh quân hồi
hương linh cừu Lưỡng quốc Trạng nguyên”.


128

'lù

S ỈÍ I Ỉ Ì


l

ú’ĩ h J n m

- íỉih

m r ớ í , c u n i n ị i r ứ ị .....................

Trong di cảo của Trạng nguyên Đào Sư Tích cũng nói rõ
việc di sứ nhà Minh và nhiều khá náng óng mất trên đường về.
Bài Bắc khứ (Đi lên phương Bắc) và bài Dữ tiẻu thiếp Gúmg thị
(Nói với tiểu thiếp là Giang thị) ghi lại việc ông đi sứ, dọc
dường lấy cô gái miền núi làm thiếp, phần chú thích của
Hoàng giáp Phạm Văn Nghị nói rỏ Đào Sư Tích đi sứ là do bị
Hồ Quý Ly bắt buộc. Hồ Quý Ly còn làm thơ tiễn Đào trạng
nguyên. Rồi bài Hồi thời bệnh ngộ đại vũ (Lúc trở về, đang bị
bệnh gặp mưa lớn) gỢi cho chúng tôi nhận định: Trạng vốn
sức khoẻ kém, bệnh nặng, trên đường đi đầy gian khổ, có thể
Trạng đã mất trên đường đi sứ về chăng...
Tưởng nhớ công lao của ông, các quan thái thú, tổng lý,
hương hào vùng cổ Lễ đã lập đền thờ thờ ông cùng với cha
là Đào Toàn Bân. Sau khi mất, ông được dân xã cổ Lễ lập
đền thờ tại nguyên quán, gọi là Đào Sư Tích Từ. Ngày nay,
tại chùa c ổ Lễ có tấm bia Nhi Đào công từ bi (bia về đền thờ
hai cha con ông họ Đào) chép về công việc ấy. Tại làng Lý
Hải, ông được cũng thờ ỞMiếu quốc íế(Miếu đưỢc cả nước tế
tự) và đưỢc xếp là bậc danh hiền, phong phúc thần.

Tổng hỢp


NGUYỄN BIỂU - SỨ GÍẢ CAN TRƯỜNG
Thân thế của Nguyễn Biểu (?- 1413) sừ sách chỉ chép là
người làng Bà Hồ, huyện Chi La, trấn Nghệ An (nay là xã
Yên Hồ, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh) không chép ngày
tháng nám sirih cha mẹ là ai, làm gì (Lã Duy Lan trong bài:
Từ Nguyễn Du đến Nguyễn Biểu thì cho cho rằng ông quê
Thanh Oai, cùng dòng tộc với Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Bà


Ọ t t u l ì /ỉí* ì ia n ĩị ĩị ia o r ù CÍỈC !iứ t h ầ n t ì ĩ n h ic tí... 1 2 9

Huyện Thanh Quan...).
Ông đỗ Thái học sinh (Tiến sĩ) cuối thời Trần, làm
quan đến chức Điện Tiền Thái sử (Ngự sử). Khi quân nhà
Minh xâm lược Đại Ngu, ông đã phò vua Trần Trùng
Quang Đế (1409-1413) tổ chức cuộc kháng chiến.
Nãm 1413, quân Minh đánh vào Nghệ An, vua Trùng
Quang Đế chạy vào Hóa Châu. Từ Nghệ An rút vào đây, vua
Trần hi vọng có thể nhóm lại lực lượng, rồi từ căn cứ cực
Nam của đất nước, tung quân đi dẹp bọn xâm lượt nhà
Minh, rửa hận cho thần dân, dựng lại cơ nghiệp nhà Trần.
Chiếm giữ được Nghệ An, quân số trong tay còn độ
bằng bốn phần mười, lực lượng khó khăn, cho nên trước sức
tấn công ồ ạt của quân xâm lược do Trương Phụ và Mộc
Thạnh chỉ huy, nhà vua đã cùng bầy tôi chạy vào vùng
dất Hóa Châu xa xôi này. Lao dao lận đận nhiều phen vì sự
nghiệp chống giặc, trong lúc tình thế lại ngày càng bất lợi,
vua sai ông di sứ giảng hoà.
Sau mấy ngày dừng lại ở quê nhà để bái yết tổ tiên,

Nguyễn Biểu dẫn đoàn tùy tòng rời làng Bình Hồ từ sáng
sớm. Lúc chia tay nhà vua, vua Trần Trùng Quang làm bài
thơ: Tiễn Nguyễn Biểu Đi Sứ
Mấv vần thơ cũ ngợi hoàng hoa
Trịnh trọng rầy nhãti dựng khúc ca
Chiếu phượng mười hàng tơ cặn kẽ
Vó câu ngàn dặm tuyết xông pha
Tang bồng đã bấm lòng khi trẻ
Khương quế thêm cay tính tuôi già
Việc nước một mai công ngõ vẹn
Gác lán danh tiếng dọi lầu xa