Tải bản đầy đủ (.docx) (107 trang)

QUẢN lý NHÀ nước đối với DI sản văn HOÁ TRÊN địa bàn HUYỆN lệ THUỶ, TỈNH QUẢNG BÌNH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (479.79 KB, 107 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
…………/…………

BỘ NỘI VỤ
…………/…………

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH
QUỐC GIA

TR
Ư
ƠN
G
THỊ
DI
ỆU
TH
ÚY

QUẢN

NHÀ
NƯỚC
ĐỐI
VỚI DI
SẢN
VĂN
HÓA


TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN


LỆ THỦY, TỈNH QUẢNG
BÌNH

LUẬN VĂN THẠC SỸ
QUẢN LÝ CÔNG

THỪA THIÊN HUẾ NĂM 2018


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
…………/ …………

BỘ NỘI VỤ
…………/…………

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH
QUỐC GIA

TR
Ư
ƠN
G
THỊ
DI
ỆU
TH
ÚY

QUẢN


NHÀ
NƯỚC
ĐỐI
VỚI DI
SẢN
VĂN


HÓA TRÊN ĐỊA BÀN
HUYỆN LỆ THỦY, TỈNH
QUẢNG BÌNH

LUẬN VĂN THẠC SỸ QUẢN LÝ CÔNG
Chuyên ngành: Quản lý công
Mã số: 60 34 04 03
NGƯỜI HƯỚNG
DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. ĐINH THỊ
MINH TUYẾT

THỪA THIÊN HUẾ NĂM 2018


LỜI CAM ĐOAN
Học viên xin cam đoan đề tài “Quản lý nhà nước đối với di sản văn
hóa trên địa bàn huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình” là công trình nghiên cứu
của cá nhân học viên, chưa được công bố ở bất kỳ nơi nào và được thực
hiện trên việc vận dụng các kiến thức đã được học, nghiên cứu các tài liệu
tham khảo, kết hợp với quá trình điều tra khảo sát thực tiễn và với sự
hướng dẫn khoa học của cô giáo – PGS.TS. Đinh Thị Minh Tuyết.

Số liệu và các kết quả nghiên cứu trong luận văn có nguồn gốc rõ ràng,
được trích dẫn trung thực, chính xác. Học viên xin chịu trách nhiệm về kết

quả của luận văn.
Thừa Thiên Huế, ngáy

năm 2018

tháng Học
viên
Trương Thị Diệu Thúy


LỜI CẢM ƠN
Luận văn này là kết quả của học viên sau một quá trình nỗ lực học tập và
nghiên cứu với sự giúp đỡ của thầy cô, đơn vị, đồng nghiệp và người thân.

Để có được thành quả ngày hôm nay, lời đầu tiên xin bày tỏ lòng
biết ơn sâu sắc đến cô giáo – PGS.TS. Đinh Thị Minh Tuyết, người
hướng dẫn khoa học trực tiếp, đã dành nhiều thời gian, công sức trong
quá trình nghiên cứu để giúp học viên hoàn thành luận văn này.
Tiếp theo, xin gửi lời cảm ơn đến Cơ sở Học viện Hành chính khu
vực Miền Trung, Khoa Sau Đại học cùng toàn thể các thầy, cô giáo của
Học viện Hành chính đã giảng dạy tận tình và truyền đạt những kiến
thức quý báu, giúp đỡ học viên trong quá trình học tập và nghiên cứu.

Cuối cùng, học viên xin được gửi lời cảm ơn sâu sắc nhất đến
gia đình, người thân, đồng nghiệp đã động viên, giúp đỡ học viên
an tâm công tác, học tập và sự quan tâm chia sẽ của bạn học
cùng lớp cao học Quản lý công HC21.T4 cũng chính là động lực

giúp học viên hoàn thành khóa học và luận văn này.
Tuy có nhiều cố gắng, nhưng trong luận văn này không tránh khỏi những
thiếu sót, hạn chế. Học viên kính mong thầy, cô và những người quan tâm đến
đề tài có những đóng góp, giúp đỡ để đề tài được hoàn thiện hơn.

Một lần nữa học viên chân thành cảm ơn./.
Học viên
Trương Thị Diệu Thúy


MỤC LỤC
Trang bìa
Trang bìa phụ
Lời cảm ơn
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
MỞ ĐẦU....................................................................................................................................... 1
Chương 1.CƠ SỞ KHOA HỌC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI DI
SẢN VĂN HÓA........................................................................................................................ 9
1.1. Khái niệm cơ bản liên quan đến đề tài luận văn.................................. 9
1.2. Vai trò quản lý nhà nước đối với di sản văn hoá.............................. 16
1.3. Nội dung quản lý nhà nước đối với di sản văn hóa........................ 19
1.4. Kinh nghiệm quản lý nhà nước đối với di sản văn hóa của một số địa

phương và bài học tham khảo cho huyện Lệ Thủy.................................. 27
Tóm tắt chương 1……………………………………………………………………………..34

Chương 2. THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI DI SẢN
VĂN HÓA TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN LỆ THỦY, TỈNH QUẢNG BÌNH . 35

2.1. Khái quát về điều kiện phát triển và di sản văn hóa trên địa bàn huyện Lệ

Thủy............................................................................................................................................. 35
2.2. Phân tích thực trạng quản lý nhà nước đối với di sản văn hóa trên địa bàn

huyện Lệ Thủy..................................................................................................................... 51
2.3. Đánh giá thực trạng quản lý nhà nước đối với di sản văn hóa trên địa bàn

huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình trong thời gian qua............................. 60
Tóm tắt chương 2.............................................................................................................. 64


Chương 3. PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN QUẢN
LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI DI SẢN VĂN HÓA

TRÊN ĐỊA BÀN

HUYỆN LỆ THỦY, TỈNH QUẢNG BÌNH................................................................. 65
3.1. Quan điểm, định hướng hoàn thiện quản lý nhà nước đối với di sản văn

hóa trên địa bàn huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình.................................... 65
3.2. Giải pháp hoàn thiện quản lý nhà nước đối với di sản văn hóa trên địa bàn

huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình............................................................................ 73
3.3. Khuyến nghị đối với ngành văn hóa và chính quyền địa phương
......................................................................................................................................................... 82

KẾT LUẬN............................................................................................................................... 87
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


BQL
BTDT
CHXHCN
DSVH
DTLS
HĐKH
QLNN
TW
UBND
UNESCO
VHTT
VH-TT


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa
là động lực của phát triển. Vì vậy phát triển văn hóa là một “trụ
cột” quan trọng của chiến lược phát triển đất nước. Trong nhiệm
vụ phát triển văn hóa, việc bảo tồn, phát huy giá trị các di sản văn
hóa là nội dung phát triển văn hóa rất quan trọng.
Di sản văn hóa là tài nguyên vô giá trong kho tàng di sản văn hóa lâu
đời của dân tộc, là những chứng tích vật chất lẫn tinh thần phản ánh sâu
sắc về đặc trưng văn hóa, về cội nguồn và truyền thống đấu tranh dựng
nước, giữ nước hào hùng, vĩ đại của cộng đồng các dân tộc Việt Nam,
đồng thời là một bộ phận cấu thành kho tàng di sản văn hóa nhân loại.
Di sản văn hóa thể hiện giá trị nhân văn trong đời sống xã hội, là một
dấu tích làm bằng chứng về thành quả lao động của con người, thể hiện
được nét văn hóa riêng, tinh hoa của dân tộc, qua đó thể hiện được nét
đẹp đậm đà bản sắc văn hóa của dân tộc. Di sản văn hóa vừa có giá trị tinh

thần vừa có giá trị kinh tế, có ý nghĩa quan trọng nhằm giáo dục các thế hệ
người Việt Nam kế thừa và phát huy những truyền thống văn hóa, lịch sử
tốt đẹp của cha ông, là phương tiện để giới thiệu và quảng bá về hình ảnh
địa phương cho du khách trong và ngoài nước.
Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm và coi trọng việc giữ gìn, bảo tồn và
phát huy di sản văn hóa dân tộc. Quán triệt tư tưởng chỉ đạo này, ngay từ khi
mới thành lập Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, ngày 23/11/1945 Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã ban hành Sắc lệnh về bảo vệ cổ tích. Sau đó, Chính phủ đã
quyết định lấy ngày 23/11 hằng năm làm ngày Di sản văn hóa.

1


Lệ Thủy là huyện nằm ở phía Nam của tỉnh Quảng Bình, được
lịch sử và thiên nhiên ưu đãi nhiều tiềm năng phát triển du lịch vì nơi
đây có nhiều di sản văn hóa vật thể và phi vật thể gắn liền với quá
trình đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc. Tuy nhiên, các
di sản văn hoá ở Lệ Thuỷ chỉ dừng lại ở mức độ tiềm năng, chưa
được đầu tư, khai thác có hiệu quả để phát triển kinh tế, xã hội.
Mặt khác, trong các năm qua, các cấp chính quyền địa phương đã
có nhiều cố gắng trong công tác quản lý nhà nước đối với di sản văn
hóa trên toàn huyện. Tuy nhiên, phải nhìn nhận khách quan rằng công
tác QLNN trên lĩnh vực này ở Lệ Thủy vẫn còn nhiều bất cập, khiếm
khuyết và đó cũng là một trong những nguyên nhân khiến việc quản lý,
bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa ở Lệ Thủy còn nhiều hạn chế.
Yêu cầu đặt ra trong chiến lược bảo vệ Tổ quốc và đường lối “xây dựng
nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” của Đảng, Nhà nước
ta trong bối cảnh hiện nay, đòi hỏi từng cấp, từng ngành, địa phương, đơn vị
phải chủ động, sáng tạo, tìm ra cách làm cụ thể, thiết thực và có hiệu quả,
trong đó nâng cao hiệu lực, hiệu quả QLNN đối với văn hóa nói chung, di sản

văn hóa nói riêng là một trong những nhiệm vụ rất quan trọng.
Quản lý tốt di sản văn hóa ở huyện Lệ Thủy đã trở thành một yêu cầu bức
thiết, cần được nghiên cứu có hệ thống, nhằm làm cho tài sản văn hóa đó trở
thành động lực, ưu thế cạnh tranh trong phát triển kinh tế của huyện nói riêng
và tỉnh Quảng Bình nói chung, góp phần phát triển kinh tế - xã hội.
Là người con sinh ra, lớn lên và trưởng thành từ huyện Lệ Thủy, học viên
luôn đau đáu một điều phải làm gì để cho Lệ Thủy phát triển nhanh, nhân dân
Lệ Thủy có cuộc sống ngày càng ấm no, hạnh phúc; làm gì để rút ngắn
khoảng cách về điều kiện và mức sống của người dân cả phương diện

2


vật chất và tinh thần. Đó cũng là một lý do thúc đẩy học viên lựa
chọn đề tài nghiên cứu liên quan đến huyện Lệ Thủy.
Với những lý do trên, học viên chọn đề tài QLNN đối với di
sản văn hóa ở huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình để làm luận văn
thạc sĩ chuyên ngành Quản lý hành chính công.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Nghiên cứu về di sản văn hóa không phải là đề tài mới. Trong thực tế, đã
có nhiều nhà khoa học và nhà quản lý nghiên cứu về lĩnh vực này, chẳng hạn:
- Nguyễn Đăng Duy và Trịnh Minh Đức (1993), Bảo tồn di tích lịch

sử văn hóa, Trường Đại học văn hóa. Nội dung cuốn sách được tác giả
trình bày một cách có hệ thống những vẫn đề lý luận về di tích lịch sử
và nghiệp vụ bảo tồn di tích, đồng thời giới thiệu một cách khái lược về
các lại hình di tích lịch sử văn hóa ở Việt Nam. Nghiên cứu được tác giả
thực hiện dưới gốc độ của ngành khoa học bảo tồn bảo tàng.
- Đại học văn hóa (2007), Bảo tàng –Di tích: Những vấn đề lý luận và


thực tiễn. Nội dung cuốn sách được các tác giả đề cập tới những vấn đề lý
luận và thực tiễn về bảo tàng và di tích dưới góc độ bảo tàng học.
- Dương Văn Sáu (2008), Di tích lịch sử - văn hóa và danh thắng

Việt Nam, Trường Đại học Văn hóa hà Nội. Nội dung cuốn sách cung
cấp những kiến thức cơ bản về hệ thống di tích, di tích lịch sử văn
hóa Việt Nam. Đồng thời đã cung cấp cho các nhà quản lý có thêm
sự nhìn nhận, đánh giá để hoạch định chính sách phát triển du lịch
cho tương xứng với tiềm năng to lớn của du lịch Việt Nam.
- Cục di sản văn hóa (2004,2005,2006,2008,2010, 2012), Một con đường
tiếp cận di sản văn hóa (tập 1, tập 2, tập 3, tập 4, tập 5, tập 6). Nội dung sách
đề cập đến những vấn đề về di sản văn hóa, văn hóa phi vật thể, văn hóa vật

3


thể và bảo tàng. Hiện nay, các nhà nghiên cứu tìm hiểu về di sản văn hóa dưới
nhiều góc nhìn tiếp cận khác nhau: ở góc độ tín ngưỡng tôn giáo, các khu di
tích, di sản văn hóa của một vùng đất. Cho dù ở phương diện tiếp cận nào đi
chăng nữa thì chúng ta cũng phải kế thừa và phát huy, bảo tồn và giữ gìn di
sản văn hóa, bản sắc dân tộc trong nền văn hóa nước nhà.
- Nguyễn Thịnh (2012), di sản văn hóa Việt Nam, bản sắc và những

vấn đề về quản lý, bảo tồn, NXB Xây dựng, Hà Nội. Trong một đất nước hay
mỗi quốc gia đều có di sản văn hóa riêng biệt, đặc trưng cho nền văn hóa
của quốc gia đó được thể hiện qua bản sắc văn hóa dân tộc dưới nhiều
hình thức. Mỗi hình thức đều chứa đựng một tâm hồn, một nội dung sâu
sắc và tự khẳng định với biểu hiện độc đáo bản sắc văn hóa riêng.
Nghiên cứu về di sản văn hóa huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình cũng
đã được một số cơ quan chuyên môn và tác giả thực hiện như sau:

- Nguyễn Hoàng (2003), Quảng Bình Di tích – Danh thắng, Sở VH-TT

xuất bản. Quảng Bình có đầy đủ các loại hình di tích danh thắng cấp
Quốc gia và cấp tỉnh. Mỗi di tích có một nét riêng biệt mang đặc trưng
vùng miền rõ nét kéo dài từ huyện Minh Hóa đến huyện Lệ Thủy.
- Hội Di sản văn hóa (2008, 2009, 2014), Quảng Bình ẩn tích thời gian

(T1, T2, T3). Thống kê, bao quát những nét đặc trưng, nổi bật nhất của đời
sống văn hóa, tín ngưỡng, tâm linh và tự nhiên của mảnh đất gió Lào cát
trắng. Mỗi tập sách được chia làm ba phần cụ thể, phần 1 là về di tích,
danh lam, thắng cảnh; phần 2 dành dung lượng cho các danh nhân văn
hóa và lịch sử; phần 3 là để giới thiệu một số lễ hội, lễ và hội đã mai một
hoặc đang được phát huy, phục hồi, có sức sống lâu bền trong cộng đồng.
- Nguyễn Ngọc Hiên (2014), Quảng Bình núi sông hùng vỹ, Nhà xuất bản
Thông tin và Truyền thông. Quảng Bình - một dãi đất hẹp, nơi eo thắt của

4


một địa hình vô cùng độc đáo mà bây giờ đang lần mở như lần mở
pho sách quý để người người được tiếp cận. Người lần mở lại phải
là người có đủ tri thức thời đại mới. “Quảng Bình nhiều đỉnh cao
san” và nhiều con sông với vẻ đẹp mỹ miều hay giàu chất tráng ca.
Là sự tụ về để tạo nên chốn “Địa linh” mà các nhà cổ sử đã viết lên
từ những thời quá vãng cách chúng ta nhiều thế kỷ trước.
Tuy đã có một số công trình nghiên cứu khoa học liên quan đến di sản
văn hóa của huyện Lệ Thủy, nhưng các nghiên cứu này chỉ nghiên cứu
một số các di sản cụ thể và chỉ xem đó là đối tượng của ngành văn hóa
học và ngành lịch sử, ngành khoa học xã hội- nhân văn. Chưa có đề tài
nào nghiên cứu các di sản ở huyện Lệ Thủy với tư cách là đối tượng của

ngành hành chính học trong lĩnh vực QLNN về di sản văn hóa.
Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài Quản lý nhà nước đối với di sản văn hóa
ở huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình không trùng với các nghiên cứu về di
sản văn hóa Lệ Thủy của những người đi trước. Đề tài này chỉ lựa chọn di
sản văn hóa Lệ Thủy là đối tượng QLNN, tất nhiên có sử dụng những kiến
thức tổng quát về di sản văn hóa trong những vấn đề có liên quan.

3. Mục đích và nhiệm vụ
3.1. Mục đích
Nghiên cứu đề tài luận văn nhằm hoàn thiện quản lý nhà nước
đối với di sản văn hóa trên địa bàn cấp huyện.
3.2. Nhiệm vụ
- Tổng hợp và hệ thống lý luận cơ bản về QLNN đối với di sản
văn hóa trên địa bàn cấp huyện.
- Phân tích, đánh giá thực trạng QLNN đối với di sản văn hóa
trên địa bàn huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình.

5


- Đề xuất giải pháp hoàn thiện QLNN đối với các di sản văn hóa
trên địa bàn huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu

hóa Đối tượng nghiên cứu của đề tài luận văn là QLNN đối với
các di sản văn 4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung nghiên cứu: QLNN đối với DSVH rất rộng, do đó học
viên tập trung nghiên cứu một số nội dung QLNN đối với DSVH trên địa
bàn cấp huyện bao gồm: xây dựng quy hoạch, kế hoạch; bảo tồn phát

huy các giá trị DSVH, tổ chức kiểm tra các DSVH, kiểm kê, phân loại các
DSVH, huy động các nguồn lực để bảo tồn và phát huy các giá trị DSVH.

- Về không gian: Đề tài được nghiên cứu trên địa bàn huyện Lệ
Thủy, tỉnh Quảng Bình.
- Về thời gian: Đề tài nghiên cứu thực trạng QLNN đối với
DSVH huyện Lệ Thủy từ năm 2008 đến nay.
Đề xuất những giải pháp hoàn thiện quản lý nhà nước cho
thời gian tới. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác-Lê nin; tư tưởng Hồ Chí Minh;
quan điểm, đường lối của Đảng về bảo tồn và phát huy di sản văn hóa.

5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng kết hợp các phương pháp nghiên cứu cụ thể sau:

- Phương pháp nghiên cứu lý thuyết: nghiên cứu tài liệu thứ
cấp để tổng hợp các lý luận có liên quan đến đề tài luận văn.
- Phương pháp nghiên cứu thực tiễn:

6


Khảo sát cụ thể tại các di tích lịch sử - văn hóa, các danh lam
thắng cảnh, các lễ hội truyền truyền thống của huyện qua hằng
năm, đánh giá và phân tích thực trạng của các DSVH.
Thống kê, tổng kết kinh nghiệm thực tiễn; qua quá trình công tác
của học viên tại phòng Văn hóa và Thông tin, đồng thời trực tiếp phụ
trách lĩnh vực di sản văn hóa để tiến hành nghiên cứu đề tài luận văn.


- Phương pháp chuyên gia: Tham khảo và xin ý kiến các nhà
khoa học quản lý.
- Phương pháp khảo cứu tư liệu: khảo cứu kinh nghiệm của
các huyện có hệ thống DSVH tương đồng với huyện Lệ Thủy.
- Phương pháp xử lý tài liệu và số liệu nghiên cứu: phân tích,
tổng hợp, phần mềm tin học.
6. Đóng góp khoa học của luận văn
6.1. Về lý luận
Kết quả nghiên cứu đề tài luận văn góp phần hệ thống hóa cơ sở
lý luận, kinh nghiệm thực tiễn quản lý nhà nước về DSVH cấp huyện.

6.2. Về thực tiễn
- Phân tích, đánh giá và xác định được nguyên nhân của thực trạng
QLNN đối với DSVH trên địa bàn huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình.

- Đề xuất các giải pháp hoàn thiện nội dung quản lý nhà nước
đối với DSVH trên địa bàn huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình.
- Kết quả nghiên cứu đề tài luận văn có thể làm tài liệu tham
khảo cho các nhà quản lý cấp huyện và các nhà quản lý văn hóa
trong quản lý đối với các di sản văn hóa cấp huyện.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ
lục, nội dung chính của luận văn được kết cấu làm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở khoa học quản lý nhà nước đối với di sản văn hóa.

7


Chương 2: Thực trạng quản lý nhà nước đối với di sản văn

hóa trên địa bàn huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình
Chương 3: Phương hướng và giải pháp hoàn thiện quản lý nhà nước
đối với di sản văn hóa trên địa bàn huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình.

8


Chương 1
CƠ SỞ KHOA HỌC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
ĐỐI VỚI DI SẢN VĂN HÓA 1.1. Khái niệm cơ
bản liên quan đến đề tài luận văn
1.1.1. Di sản
Di sản là di chỉ, di tích hay danh thắng của một quốc gia như
rừng, dãy núi, hồ, sa mạc, toà nhà, quần thể kiến trúc hay thành phố
của một quốc gia. Di sản là sản phẩm của thiên nhiên và con người,
vì thế di sản luôn có sức hút. Tại những nơi có di sản thì di sản luôn
được bảo tồn, du lịch phát triển tạo ra sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế
địa phương, người dân được hưởng lợi nhiều hơn thông qua việc
tham gia dịch vụ du lịch, ngành nghề thủ công truyền thống tại khu
vực di sản và xung quanh khu vực di sản được phục hồi, mở rộng.

1.1.2. Di sản văn hóa
Di sản văn hóa là các di tích, các tác phẩm kiến trúc, tác phẩm điêu khắc
và hội hóa, các yếu tố hay các cấu trúc có tính chất khảo cổ học, ký tự, nhà ở
trong hang đó và các công trình có sự kết hợp giữa công trình xây dựng tách
biệt hay liên kết lại với nhau mà do kiến trúc của chứng, do tính đồng nhất
hoặc vị trí trong cảnh quan, có giá trị nổi bật toàn cầu xét theo quan điểm lịch
sử, nghệ thuật và khoa học. Các di chỉ là các tác phẩm do con người tạo nên
hoặc các tác phẩm có sự kết hợp giữa thiên nhiên và nhân tạo và các khu vực
trong đó có các di chỉ khảo cổ có giá trị nổi bật toàn cầu xét theo quan điểm

lịch sử, thẩm mỹ, dân tộc học hoặc nhân học [38].
DSVH là tập hợp những biểu hiện vật thể hoặc biểu tượng di sản quá khứ
truyền lại cho mỗi nền văn hóa và do đó là của toàn thể nhân loại. Là một phần
việc khẳng định cũng như làm giàu thêm bản sắc văn hóa, là một dạng

9


di sản nhân loại, DSVH mang lại những đặc điểm riêng cho địa danh cụ
thể và vì thế nó có thể là nơi cất giữ kinh nghiệm con người. Việc bảo
tồn và giới thiệu DSVH này là cốt lõi của mọi chính sách văn hóa.
DSVH bao gồm DSVH phi vật thể và DSVH vật thể, là sản phẩm tinh
thần, vật chất có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học được lưu truyền từ thế
hệ này qua thế hệ khác ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. [38]
- DSVH phi vật thể là “sản phẩm tinh thần gắn với cộng đồng hoặc cá
nhân, vật thể và không gian văn hóa liên quan, có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa
học, thể hiện bản sắc của cộng đồng, không ngừng được tái tạo và được lưu
truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác bằng truyền miệng, truyền nghề, trình
diễn và các hình thức khác. DSVH phi vật thể bao gồm tiếng nói, chữ viết; ngữ
văn dân gian, nghệ thuật trình diễn dân gian; tập quán xã hội và tín ngưỡng; lễ
hội truyền thống; nghề thủ công truyền thống; tri thức dân gian”.

- DSVH vật thể là “sản phẩm vật chất có giá trị lịch sử, văn hóa,
khoa học, bao gồm di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh, di
vật, cổ vật, bảo vật quốc gia. DSVH vật thể luôn chịu sự thách thức của
quy luật bào mòn của thời gian, trong sự tác động của con người thời
đại sau, luôn đứng trước nguy cơ biến dạng hoặc thay đổi rất nhiều so
với nguyên gốc”. Do đó, giữ gìn những DSVH vật thể lâu đời là một yêu
cầu đặt ra trong việc bảo tồn và phát huy giá trị của di sản văn hóa.[38]


1.1.2.1. Phân loại di sản văn hóa
* Di sản văn hóa phi vật thế
Di sản văn hóa phi vật thể được hiểu là các tập quán, các hình thức thể
hiện, biểu đạt, tri thức, kỷ năng và kèm theo đó là những công cụ đồ vật, đồ
tạo tác và các không gian văn hóa có liên quan mà các cộng đồng, các nhóm
người và trong một số trường hợp là các cá nhân, công nhận là một phần di
sản văn hóa của họ được chuyển giao từ thế hệ này sang thế hệ khác, di sản

10


văn hóa phi vật thể được các cộng đồng, các nhóm người không ngừng cải
tạo để thích nghi với môi trường và mối quan hệ qua lại giữa cộng đồng với tự
nhiên và lịch sử của họ, đồng thời hình thành trong họ ý thức về bản sắc và
sự kế tục, qua đó khích lệ thêm sự tôn trọng đối với đa dạng văn hóa và tính
sáng tạo của con người [19]. Vì những mục đích của Công ước này, chỉ xét
đến những di sản văn hóa phi vật thể phù hợp với các văn kiện quốc tế hiện
hành về quyền con người, các nhóm người cá nhân và về phát triển bền vững.

Di sản văn hóa phi vật thể là sản phẩm tinh thần gắn với cộng đồng
hoặc cá nhân, vật thể và không gian văn hóa liên quan, có giá trị lịch
sử, văn hóa, khoa học, thể hiện bản sắc của cộng đồng, không ngừng
được tái tạo và được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác bằng
truyền miệng, truyền nghề, trình diễn và các hình thức khác [38].

* Di sản văn hóa vật thể
“Di sản văn hóa vật thể là sản phẩm vật chất có giá trị lịch sử, văn
hóa, khoa học, bao gồm di tích lịch sử văn hóa, danh lam thắng cảnh, di
vật, cổ vật, bảo vật quốc gia”. Luật này cũng nêu rõ: “Di tích lịch sử văn
hóa là công trình xây dựng, địa điểm và các di vật, cổ vật quốc gia

thuộc công trình, địa điểm có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học”;[38]
“Danh làm thắng cảnh là cảnh quan thiên nhiên hoặc địa điểm có sự kết
hợp giữa cảnh quan thiên nhiên với công trình kiến trúc có giá trị lịch
sử thẩm mỹ, khoa học”; “Di vật là hiện vật được lưu truyền lại, có giá trị
lịch sử, văn hóa, khoa học”; “Cổ vật là hiện vật được lưu truyền lại, có
giá trị tiêu biểu về lịch sử, văn hóa, khoa học, có từ một trăm năm tuổi
trở lên”; “Bảo vật quốc gia là hiện vật được lưu truyền lại, có giá trị đặc
biệt quý hiếm tiêu biểu của đất nước về lịch sử, văn hóa, khoa học”.

11


1.1.2.2. Đặc điểm của di sản văn hóa
* Đặc điểm của di sản văn hóa phi vật thể
Thứ nhất, di sản văn hóa phi vật thể được chuyển giao qua nhiều thế hệ,
được tái tạo để thích nghi với môi trường sống. Nhiều nhà nghiên cứu còn gọi
đây là “di sản sống”. Sự vận động, biến đổi là điều tất yếu, bởi di sản văn hóa
phi vật thể có sự gắn bó chặt chẽ với đời sống con người. Con người, cộng
đồng là một phần của di sản. Khi cộng đồng và đời sống cộng đồng thay đổi
thì di sản văn hóa phi vật thể cũng sẽ biến đổi để thích hợp với cộng đồng.
Tính chất này làm nên sự khác biệt cơ bản giữa di sản văn hóa phi vật thể và
di sản văn hóa vật thể. Bản chất của di sản văn hóa phi vật thể là sự tiếp nối
và biến đổi còn bản chất của di sản văn hóa vật thể là sự cố định và nguyên
trạng. Quá trình chuyển giao di sản văn hóa phi vật thể cần liên tục và bất kì
sự tái tạo cũng phải dựa trên cái “gốc” đã được chuyển giao.
Thứ hai, di sản văn hóa phi vật thể đã từng hoặc đang được lưu truyền,
sử dụng rộng rãi trong cộng đồng. Theo UNSECO ghi nhận đó là “tính bao
hàm” của di sản. Di sản văn hóa phi vật thể gắn kết mỗi cá nhân, khiến cá
nhân cảm thấy mình là một phần của xã hội. Tính phổ biến, phổ cập, dễ hiểu
thậm chí còn quan trọng hơn cả tính độc đáo, đặc biệt của di sản.


Thứ ba, di sản văn hóa phi vật thể phải đại diện cho bản sắc
của dân tộc. Di sản đó cần thể hiện được những nét đẹp về văn
hóa, lối sống, cách sống của cộng đồng. Đó là những nét đẹp nổi
bật, riêng biệt mà khó có thể tìm thấy ở cộng đồng khác.
Thứ tư, di sản văn hóa phi vật thể cần được công nhận bởi cộng đồng sáng
tạo sử dụng di sản. Đúng như UNESCO nhận định “ thiếu đi sự công nhận của
cộng đồng thì không ai có thể quyết định cho họ rằng những sự biểu đạt hay tập
quán đó là di sản của họ”. Cộng đồng là một phần của di sản và do đó, họ là
những người hiểu rõ nhất về nội dung cũng như giá trị của di sản.

12


* Đặc điểm của DSVH vật thể
Thứ nhất, DSVH vật thể thể hiện đời sống tinh thần của con
người dưới hình thức vật chất; là kết quả của hoạt động sáng tạo,
biến những vật và chất liệu trong thiên nhiên thành những đồ vật có
giá trị sử dụng và thẩm mĩ nhằm phục vụ cuộc sống con người.
Thứ hai, DSVH vật thể quan tâm nhiều đến chất lượng và đặc điểm
của đối tượng thiên nhiên, đến hình dáng vật chất, khiến những vật thể và
chất liệu tự nhiên thông qua sáng tạo, kết quả lao động của con người
biến thành những sản phẩm vật chất giúp cho cuộc sống của con người
Thứ ba, DSVH vật thể được khái quát hóa bằng nhiều phương pháp khác
nhau tạo nên những giá trị văn hóa cao trong nền văn hóa của dân tộc, nâng
cao được các giá trị phát triển kinh tế và hội nhập quốc tế cho đất nước.

1.1.3. Quản lý nhà nước về di sản văn hóa
* Quản lý nhà nước về văn hóa
QLNN về văn hóa là hoạt động thực thi quyền hành nhà nước, là sự tác

động có tổ chức và điều chỉnh bằng quyền lực pháp luật nhà nước đối với các
quá trình xã hội và hành vi hoạt động của con người thuộc các lĩnh vực văn
hóa, do các cơ quan thuộc bộ máy hành chính tiến hành nhằm duy trì và phát
triển các mối quan hệ xã hội và trật tự pháp luật về văn hóa, đáp ứng ngày
càng cao các nhu cầu hợp pháp về văn hóa của con người, hướng tới xây
dựng “nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc ”.
Văn hóa là một phạm trù rất rộng lớn. Trên nền tảng của chủ nghĩa Mác
– Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa, Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII)
về Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc đã cụ thể
thành 8 lĩnh vực lớn, đó là: tư tưởng, đạo đức, lối sống; di sản văn hóa;

13


giáo dục và đào tạo; khoa học và công nghệ; văn học và nghệ thuật; thông tin
đại chúng; giao lưu văn hóa với thế giới; thể chế và thiết chế văn hóa.[1]
Căn cứ nội dung Nghị quyết này, Chiến lược phát triển văn hóa đến năm
2020 được ban hành kèm theo Quyết định số 581/QĐ-TTg ngày 6/5/2009 của
Thủ tướng Chính phủ cũng đã thể hiện rõ tám lĩnh vực lớn của văn hóa được
trình bày như là những thành tố quan trọng, có mối liên kết chặt chẽ với nhau,
tạo điều kiện cho nhau phát triển, tạo nên sức mạnh tổng hợp để làm nền tảng
tinh thần, là động lực phát triển kinh tế - xã hội bền vững. Nhà nước là người
đại diện cho nhân dân để đảm bảo các quyền có trong Hiến pháp của công
dân về văn hóa, điều tiết sự hài hòa cơ cấu văn hóa, lợi ích văn hóa của nhóm
xã hội, các yêu cầu phát triển và thỏa mãn nhu cầu văn hóa của toàn xã hội,
vùng miền, các dân tộc. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, vai
trò nhà nước ngày càng tăng trong việc định hướng, điều tiết và cung cấp các
sản phẩm, dịch vụ văn hóa, quan hệ giữa văn hóa với chính trị, kinh tế, xã hội.

Như vậy, QLNN về di sản văn hóa là một trong tám nội dung

lớn của QLNN về văn hóa.
* Quản lý nhà nước về di sản văn hóa
QLNN về di sản văn hóa là hoạt động quản lý của nhà nước,
xác định rõ chủ thể quản lý là Nhà nước, bằng chức trách, nhiệm
vụ và quyền hạn của mình đưa ra các luật pháp, chính sách, biện
pháp, nhằm giữ gìn, bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa [30].
Di sản văn hóa là nền tảng tạo nên bản sắc và giá trị văn hóa dân tộc,
là một nguồn lực cho phát triển. Ở bình diện cả nước, những năm gần đây
đã có sự chuyển biến tích cực về nhận thức của cán bộ, đảng viên và của
nhân dân đối với công tác bảo tồn và phát huy di sản văn hóa.

* Chủ thể quản lý, đối tượng quản lý di sản
văn hóa Chủ thể quản lý

14


QLNN về DSVH phải gắn liền với chức năng, nhiệm vụ của bộ
máy quản lý từ trung ương đến địa phương. Theo đó, chủ thể
quản lý về DSVH là các cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Ở cấp trung ương, chủ thể quả lý về di sản văn hóa là Bộ VHTTDL,
thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của Chính phủ về chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ VHTTDL.
Ở cấp địa phương, chủ thể QLNN về di sản văn hóa là UBND các cấp.
Sở Văn hóa Thể thao, Phòng Văn hóa Thông tin, Ban văn hóa xã là cơ quan
chuyên môn, tham mưu giúp việc cho UBND các cấp chính quyền địa
phương về các nội dung và phương thức quản lý, tổ chức bảo vệ, giữ gìn
và phát huy các DSVH ở địa phương theo quy định của Pháp luật.
- UBND cấp huyện có trách nhiệm quản lý các công trình công cộng
được phân cấp; hướng dẫn các phong trào về văn hóa, hoạt động của các

trung tâm văn hóa – thông tin, thể dục thể thao; bảo vệ và phát huy giá trị
các di tích LSVH và danh lam thắng cảnh do địa phương quản lý.
- Phòng Văn hóa – Thông tin là cơ quan chuyên môn trực thuộc UBND
cấp huyện, chịu sự chỉ đạo, quản lý trực tiếp của UBND huyện, đồng thời chịu
sự chỉ đạo và hướng dẫn về chuyên môn nghiệp vụ của Sở Văn hóa và Thể
thao. Nhiệm vụ của Phòng Văn hóa – Thông tin lập kế hoạch phát triển văn
hóa, thông tin của huyện, xây dựng kế hoạch phát triển sự nghiệp văn hóa,
thông tin của huyện và tổ chức thực hiện khi được UBND huyện phê duyệt.
Hướng dẫn các tổ chức, đơn vị cá nhân trên địa bàn huyện thực hiện pháp
luật và những quy định của ngành văn hóa, thông tin. Tham mưu cho UBND
huyện trong QLNN về: phong trào văn hóa; lễ hội truyền thống; xây dựng nếp
sống văn minh, gia đình văn hóa, bảo vệ các di tích LSVH và danh lam, thắng
cảnh, kinh doanh dịch vụ văn hóa, thông tin… Tham mưu tổ chức kiểm tra
hoặc phối hợp kiểm tra việc chấp hành pháp luật trong lĩnh vực văn

15


hóa; xử lý hoặc kiến nghị cấp có thẩm quyền xử lý các hành vi vi
phạm theo thẩm quyền.
- Đối với cấp xã, phụ trách công tác văn hóa – thông tin là một
thành viên UBND, cụ thể là Phó Chủ tịch UBND phụ trách khối Văn
hóa – Xã hội. Cán bộ Văn hóa – Xã hội có nhiệm vụ tham mưu tổ
chức hướng dẫn các lễ hội truyền thống; bảo vệ di tích lịch sử văn
hóa, danh lam thắng cảnh của địa phương; vận động các tầng lớp
nhân dân tham gia đóng góp nguồn lực để xây dựng và phát triển
phong trào văn hóa, văn nghệ và tôn tạo di tích, danh thắng…
Trong hệ thống quản lý đó, vai trò của chính quyền địa phương là vô
cùng quan trọng. Đây là nơi gắn liền với thực tế cơ sở, việc trao quyền và
tăng cường các hình thức tự quản cho chính quyền địa phương là một

trong những cách đẩy mạnh sự phát triển, phát huy giá trị các DSVH

Đối tượng quản lý di sản văn hóa cấp huyện
Quản lý văn hóa vật thể: quản lý các loại hình di tích, danh
lam thắng cảnh, hiện vật bảo tồn bảo tàng (cổ vật, công cụ lao
động, nhạc cụ, trang phục, tác phẩm nghệ thuật vv.)
Quản lý văn hóa phi vật thể: di sản văn hóa dân gian, các tác
phẩm văn hóa nghệ thuật vô thể.
1.2. Vai trò quản lý nhà nước đối với di sản văn hoá
1.2.1. Định hướng và điều chỉnh hoạt động di sản văn hoá
Hoạt động QLNN về DSVH cụ thể sẽ giúp hạn chế những sai
lệch trong thực thi các chính sách của Nhà nước khi triển khai các
văn bản pháp luật, chính sách trong hoạt động của các DSVH.
Thực hiện chủ trương, đường lối văn hóa của Đảng, các cơ quan QLNN
về DSVH đã đẩy mạnh công tác tuyên truyền cho người dân tiếp cận với hệ
thống văn bản quy phạm pháp luật trên lĩnh vực văn hóa như: Luật Di sản văn

16


hóa, Luật Du lịch, Luật Bảo vệ môi trường. Hệ thống tổ chức bộ máy quản
lý hoạt động của các DSVH ngày càng được củng cố và hoàn thiện. Việc
kiểm tra, giám sát các hoạt động của các DSVH được tiến hành thường
xuyên, liên tục. Những hoạt động trên đã góp phần bảo đảm định hướng
lớn của Đảng trong việc xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Hơn nữa, hoạt động QLNN về DSVH tại các
địa phương đã góp phần giữ gìn các giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp,
nhiều giá trị văn hóa mới được tiếp thu có chọn lọc.
Hoạt động thông tin tuyên truyền, quảng bá về các DSVH được triển
khai sâu rộng đến người dân, khách du lịch thập phương, bạn bè quốc tế

… Công tác tổ chức và quản lý các DSVH được thực hiện đúng quy định,
đảm bảo văn minh thờ tự tại các di tích tôn giáo, di tích lịch sử. QLNN về
DSVH làm cho hoạt động gìn giữ, bảo tồn, tôn tạo được chú trọng hơn.

1.2.2. Hỗ trợ và tạo điều kiện hoạt động di sản văn hoá
DSVH phát triển tương xứng là cơ sở cho phát triển kinh tế một cách
toàn diện. Phát triển du lịch dựa trên các DSVH và tăng trưởng kinh tế là mối
quan hệ đa chiều, có liên hệ mật thiết với nhau. Hoạt động QLNN về DSVH,
phát huy giá trị các các DSVH với phát triển kinh tế - xã hội luôn gắn liền với
nhau. Điều đó thể hiện rõ nét qua chủ trương tạo mối liên kết giữa kinh doanh
thương mại với các hoạt động văn hóa du lịch, bảo tồn và phát triển các
DSVH. Đảng và Chính phủ chỉ đạo cho ban, ngành, đoàn thể và các địa
phương có các DSVH đã và đang đẩy mạnh khai thác các thế mạnh của các di
sản để phát triển đa dạng các loại hình thương mại, dịch vụ gắn với du lịch,
văn hóa, lễ hội, sinh thái, phát triển kinh tế bền vững đi đôi với việc giữ gìn và
phát huy các giá trị văn hóa, các ngành nghề truyền thống. Đồng thời khuyến
khích dầu tư và phát triển hệ thống dịch vụ phục vụ du lịch, đủ tiêu chuẩn để
đón khách quốc tế, tiếp tục đẩy mạnh việc xã hội hóa đầu tư, tôn tạo

17


×