Tải bản đầy đủ (.docx) (27 trang)

Xét xử vụ án hành chính từ thực tiễn tòa án nhân dân thành phố hà nội tt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (169.73 KB, 27 trang )

BỘ

GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NỘI VỤ


…..
.…/

…..
….

..

/

..

H

C
V
I

N
H
À
N
H
C


H
Í
N
H
Q
U

C
G
I
A


TRẦN TRUNG THÙY
NGHIÊN

XÉT XỬ VỤ ÁN HÀNH CHÍNH
- TỪ THỰC TIỄN TÒA ÁN
NHÂN DÂN THÀNH PHỐ
HÀ NỘI

Chuyên ngành: Luật Hiền pháp và luật Hành
chính
Mã số: 8 38 01 02

TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN
PHÁP
VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH

HÀ NỘI, NĂM 2018



Công trình được

hoàn thành tại: HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. VŨ TRỌNG HÁCH

Phản biện 1: ……………………………….……………

Phản biện 2: …………………………….………………

Luận văn được bảo vệ tại Hội đồng chấm luận văn thạc sĩ, Học
viện Hành chính Quốc gia
Địa điểm: Tầng 2, Nhà A, Học viện Hành chính Quốc gia
Số: 77 – Đường Nguyễn Chí Thanh – Quận Đống Đa – Thành phố
Hà Nội
Thời gian: ………………………………………………...

Có thể tìm hiểu luận văn tại Thư viện Học viện Hành chính Quốc gia
hoặc trên website Khoa Sau đại học, Học viện Hành chính quốc gia


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết và lý do chọn đề tài
Những năm qua, hoạt động xét xử án hành chính trên cả nước đã bắt đầu
trở nên phổ biến, có sự tăng dần về số vụ và tính chất phức tạp so với giai đoạn
trước. Tuy nhiên, cũng bởi tính chất mới mẻ và phức tạp nên xét xử án hành
chính hiện nay tồn tại nhiều khó khăn, vướng mắc công tác xét xử. Sự thay đổi
mô hình các cấp xét xử của Tòa án; thay đổi cơ sở pháp lý cơ bản từ Pháp lệnh

giải quyết các vụ án hành chính thành Luật tố tụng hành chính (năm 2010), đặc
biệt là lần sửa đổi năm 2015, làm phát sinh rất nhiều nghĩa vụ và trách nhiệm
mới đối với hệ thống tòa án.Trong khi đó, số lượng khiếu kiện hành chính trên
cả nước không ngừng gia tăng; đặc biệt ở cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ương luôn là cấp có tổng số vụ án hành chính được thụ lý cao nhất.
Thực tế cho thấy, hoạt động xét xử vụ án hành chính của Tòa Hành chính
Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội cũng không phải một ngoại lệ. Với số
lượng án lớn, nội dung phức tạp và liên quan đến nhiều lĩnh vực quản lý hành
chính nhà nước, Tòa Hành chính Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội rất phù
hợp trở thành căn cứ để phân tích và rút ra bài học kinh nghiệm, là tài liệu
tham khảo và áp dụng nhằm nâng cao chất lượng xét xử vụ án hành chính tại
các Tòa án nhân dân cấp tỉnh trên phạm vi cả nước.
Xuất phát từ những lý do trên, tôi chọn đề tài: “Xét xử vụ án hành
chính từ thực tiễn Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội” làm luận văn thạc
sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn
Tới nay, liên quan tới mảng đề tài này đã có rất nhiều tác phẩm và công
trình nghiên cứu cá nhân có chất lượng, trở thành cơ sở khoa học cả về lý
luận và thực tiễn. Tuy nhiên, nghiên cứu sâu về đề tài xét xử án hành chính tại
Tòa án nhân dân cấp tỉnh vẫn chưa vẫn chưa được khai thác và quan tâm
đúng mức. Vì vậy việc lựa chọn đề tài “Xét xử án hành chính từ thực tiễn Tòa
án nhân dân thành phố Hà Nội” trên tinh thần kế thừa những nghiên cứu
trước đó nhưng có hướng tiếp cận cụ thể, không trùng khớp với các công
trình đã được công bố.
Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu:
3.

1



Phân tích hệ thống pháp luật hiện hành về hoạt động tố tụng hành chính,
đánh giá hoạt động xét xử vụ án hành chính tại Tòa án nhân dân thành phố Hà
Nội để chỉ ra những khó khăn, hạn chế và đề xuất giải pháp nhằm hoàn thiện hệ
thống pháp luật, nâng cao hiệu quả công tác xét xử vụ án hành chính tại Tòa án
nhân dân Hà Nội nói riêng, Tòa án nhân dân cấp tỉnh trên cả nước nói chung.

Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Nghiên cứu, hệ thống hóa cơ sở lý luận cùng quy định của pháp luật
hiện hành về tố tụng hành chính làm căn cứ soi chiếu thực tiễn xét xử vụ án
hành chính tại Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội.
Phân tích, đánh giá thực trạng xét xử vụ án hành chính tại Tòa án nhân
dân thành phố Hà Nội (giai đoạn 2013 đến hết 2017), chỉ ra những thành
công, hạn chế.
- Rút ra các vấn đề trọng tâm, nêu giải pháp hoàn thiện.
-

Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Tình hình xét xử vụ án hành chính của Tòa án nhân dân thành phố Hà
4.

Nội, đánh giá trên cơ sở phân tích, hệ thống hóa cơ sở lý luận và hệ thống văn
bản pháp luật hiện hành về lĩnh vực tố tụng hành chính.
Phạm vi nghiên cứu:
Về không gian: nghiên cứu công tác xét xử vụ án hành chính tại Tòa
Hành chính Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội.
-

Về thời gian: tình hình xét xử vụ án hành chính tại Tòa án nhân dân

thành phố Hà Nội trong giai đoạn 5 năm: từ năm 2013 đến hết năm 2017.
-

5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
- Phương pháp luận duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mac – Lenin
- Phương pháp quan sát thực tế;
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu, hồ sơ, bản án;
- Phương pháp phân tích, thống kê, tổng hợp số liệu; đánh giá, so sánh.
6.

Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

Luận văn đã đề cập và hệ thống hóa các vấn đề lý luận trong hoạt
động Xét xử vụ án hành. Trên cơ sở thực tiễn xét xử vụ án hành chính tại
TAND Thành phố Hà Nội, luận văn đưa ra đề xuất, giải pháp hữu ích, góp
phần hoàn thiện, nâng cao chất lượng hoạt động xét xử vụ án hành chính trên
2


phạm vi cả nước nói chung và tại TAND Thành phố Hà Nội nói riêng. Kết
quả nghiên cứu của luận văn có thể làm tài liệu tham khảo trong hoạt động
nghiên cứu khoa học.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về xét xử vụ án hành chính
Chương 2: Thực trạng xét xử vụ án hành chính tại Tòa án nhân dân
Thành phố Hà Nội
Chương 3: Phương hướng và giải pháp hoàn thiện hoạt động xét xử vụ
án hành chính từ thực tiễn tại Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội

CHƢƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬNVỀ XÉT XỬ VỤ ÁN HÀNH CHÍNH
1.1
Những khái niệm cơ bản về xét xử vụ án hành chính
1.1.1. Vụ án hành chính
Vụ án hành chính là vụ việc tranh chấp hành chính được Tòa án có thẩm
quyền thụ lý theo yêu cầu khởi kiện của cơ quan, tổ chức, cá nhân đối với
quyết định hành chính, hành vi hành chính mà chủ thể khiếu kiện cho rằng
việc thực hiện quyết định hành chính, hành vi hành chính đó gây ảnh hưởng
đến quyền và lợi ích hợp pháp của họ.
Một vụ việc được coi là vụ án hành chính khi và chỉ khi có yêu cầu khởi
kiện của cơ quan, tổ chức, cá nhân đối với quyết định hành chính, hành vi
hành chính và khiếu kiện này được Tòa án thụ lý.
1.1.2. Xét xử vụ án hành chính
Xét xử là hoạt động xem xét, đánh giá bản chất pháp lý của vụ việc
nhằm đưa ra một phán xét về tính chất, mức độ pháp lý của vụ việc, từ đó
nhân danh Nhà nước đưa ra một phán quyết tương ứng với bản chất, mức độ
trái hay không trái pháp luật của vụ việc.
Xét xử vụ án hành chính là việc phán xét của Tòa án về tính hợp pháp
của các quyết định hành chính, hành vi hành chính, quyết định kỷ luật buộc
thôi việc do cơ quan hành chính nhà nước ban hành bị khiếu kiện trên cơ sở
Luật Tố tụng Hành chính.
3


Xét xử vụ án hành chính có những đặc thù riêng xuất phát từ chủ thể và
đối tượng của tranh chấp hành chính, vì vậy việc xét xử vụ án hành chính có
nhiều điểm khác biệt:
Thứ nhất


ạt độ
các quyết định
hành chính, hành vi hành chính ban hành bởi c
.
Thứ hai, xét xử vụ án hành chính là mảng công tác đặc thù trong các loại
xét xử của Tòa án hiện nay khi có chủ thể bị xét xử là cơ quan hành chính nhà
nước, cán bộ, công chức, người được trao thẩm quyền quản lý hành chính.
Trong khi đó, nhóm chủ thể này có quyền nhân danh nhà nước ban hành các
văn bản pháp luật để đặt ra các quy phạm hoặc mệnh lệnh cụ thể buộc đối
tượng bị quản lý có liên quan phải thực hiện.
Thứ ba,

chính ở nước ta có nhiều điểm khác biệt. Nếu tại nhiều quốc gia, việc xét xử
hành chính tuân theo quy trình, thủ tục tố tụng dân sự, thì tại Việt Nam, xét
xử án hành chính được dựa trên những quy định của pháp luật Tố tụng Hành
chính
ại được dựa trên
các quy đị
Thứ tư, khác với tố tụng dân sự, trong tố tụng hành chính không có thủ
tục “hòa giải” mà thay vào đó là thủ tục “đối thoại”.
Thứ năm, việc xét xử vụ án hành chính không làm mất hiệu lực của
quyết định hành chính, hành vi hành chính hay bản án hành chính đã có hiệu
lực thi hành trừ trường hợp áp dụng biện pháp khẩn cấp.
Thứ sáu, xét xử vụ
1.2. Những quy định của pháp luật về xét xử vụ án hành chính
1.2.1. Chủ thể tham gia xét xử vụ án hành chính
Căn cứ vào vị trí tố tụng, quyền và nghĩ vụ tố tụng, có thể phân chia chủ
thể của quan hệ xét xử hành chính thành hai nhóm: chủ thể tiến hành tố tụng
và người tham gia tố tụng
1.2.1.1. Chủ thể tiến hành tố tụng

Chủ thể tiến hành Tố tụng Hành chính gồm: cơ quan tiến hành Tố tụng
Hành chính và người tiến hành Tố tụng Hành chính.
Cơ quan tiến hành Tố tụng Hành chính, gồm:
4


-

-

Tòa án nhân dân;
Viện Kiểm sát nhân dân.
Những người tiến hành tố tụng, gồm:
Chánh án Tòa án nhân dân, Thẩm phán, Thư ký Tòa án;
Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân, Kiểm sát viên;
Kiểm tra viên, Thẩm tra viên;

Hội thẩm nhân dân tham gia phiên tòa xét xử sơ thẩm (trừ trường
hợp xét xử theo thủ tục rút gọn).
1.2.1.2. Người tham gia Tố tụng Hành chính
-

Đương sự
Luật Tố tụng Hành chính (2015) quy định: “Đương sựbao gồm người
khởi kiện, người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan”. Cụ thể:
Người khởi kiện là cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện vụ án hành chính
đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính, quyết định kỷ luật buộc
thôi việc, quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh
tranh; danh sách cử tri bầu cử đại biểu Quốc hội, danh sách cử tri bầu cử đại
biểu Hội đồng nhân dân, danh sách cử tri trưng cầu ý dân (gọi chung làdanh

sách cử tri).
Người bị kiện là cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyết định hành chính, hành
vi hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc, quyết định giải quyết khiếu nại
về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh, danh sách cử tri bị khởi kiện.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là cơ quan, tổ chức, cá nhân tuy
không khởi kiện, không bị kiện, nhưng việc giải quyết vụ án hành chính có
liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của họ nên họ tự mình hoặc đương sự khác
đề nghị và được Tòa án chấp nhận hoặc được Tòa án đưa vào tham gia tố
tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
Đương sự đủ điều kiện tham xét xử án hành chính là người có đầy đủ
năng lực pháp luật và năng lực hành vi Tố tụng Hành chính hoặc có người đại
diện hợp pháp theo quy định pháp luật.
Một số chủ thể khác phát sinh trong các trường hợp cụ thể như:
Người đại diện của đương sự, áp dụng cho các trường hợp đương sự là
người chưa thành niên hoặc có hạn chế về năng lực hành vi.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, thường là các
5


luật sư; trợ giúp viên pháp lý hoặc người tham gia trợ giúp pháp lý theo quy
định của Luật trợ giúp pháp lý.
Người làm chứng: là người biết các tình tiết liên quan tới nội dung vụ án
được Tòa án triệu tập tham gia tố tụng. Người mất năng lực hành vi dân sự
không thể là người làm chứng.
Người giám định: Là người có kiến thức, kinh nghiệm cần thiết theo quy
định của pháp luật về lĩnh vực có đối tượng cần giám định được các bên
đương sự thỏa thuận lựa chọn hoặc được Tòa án trưng cầu để giám định đối
tượng theo yêu cầu của các bên đương sự.
Người phiên dịch: Trong trường hợp người tham gia tố tụng không sử dụng

được tiếng Việt. Người phiên dịch phải được các bên đương sự thỏa thuận lựa
chọn và được Tòa án chấp nhận hoặc được Tòa án yêu cầu đề phiên dịch.

1.2.2. Đối tượng của xét xử vụ án hành chính
Căn cứ Luật Tố tụng Hành chính, đối tượng xét xử vụ án hành chính gồm
quyết định hành chính, hành vi hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc.
Quyết định hành chính bị kiện là văn bản do cơ quan hành chính nhà
nước, tổ chức, người có thẩm quyền ban hành, quyết định về vấn đề cụ thể
trong hoạt động quản lý hành chính được áp dụng một lần đối với một hoặc
một số đối tượng cụ thể mà quyết định đó làm phát sinh, thay đổi, hạn chế,
chấm dứt quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân hoặc có nội
dung làm phát sinh nghĩa vụ, ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của cơ
quan, tổ chức, cá nhân.
Hành vi hành chính là hành vi của cơ quan hành chính nhà nước, của
người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước hoặc cơ quan, tổ
chức được giao thực hiện quản lý hành chính nhà nước, thực hiện hoặc không
thực hiện công vụ theo quy định của pháp luật mà hành vi đó gây ảnh hưởng
đến việc thực hiện quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân.
Quyết định kỷ luật buộc thôi việc là quyết định bằng văn bản của
người đứng đầu cơ quan, tổ chức để áp dụng hình thức kỷ luật buộc thôi việc
đối với công chức thuộc quyền quản lý của mình.
Quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh
là quyết định được ban hành bởi Hội đồng cạnh tranh hoặc Bộ trưởng Bộ
công thương về việc xem xét lại một phần hoặc toàn bộ nội dung quyết định
6


xử lý vụ việc cạnh tranh của Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh hoặc Thủ
trưởng cơ quan quản lý cạnh tranh
1.2.3. Thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp tỉnh

Thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp tỉnh được quy định tại Điều 32
Luật Tố tụng Hành chính (2015). Theo Luật Tố tụng Hành chính (2015), đối
với quyết định hành chính, hành vi hành chính của Ủy ban nhân dân cấp
huyện, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện thì thẩm quyền giải quyết theo
thủ tục sơ thẩm thuộc về Tòa án nhân dân cấp tỉnh (chứ không thuộc thẩm
quyền của Tòa án cấp huyện như quy định của Luật Tố tụng Hành chính năm
2010). Quy định này có ý nghĩa trong việc thúc đẩy dân chủ, công khai, minh
bạch nền hành chính, tạo điều kiện để thẩm phán thực hiện tốt nguyên tắc độc
lập và chỉ tuân theo pháp luật.
1.3. Vai trò của xét xử vụ án hành chính
Xét xử vụ án hành chính có nhiều ưu điểm hơn giải quyết khiếu nại hành
chính trong việc bảo đảm tính công bằng, dân chủ trong mối quan hệ công
dân – nhà nước,tăng cường sự kiểm soát để nâng cao hiệu quả, đảm bảo tính
pháp chế trong hoạt động quản lý nhà nước.
Thứ nhất, xét xử vụ án hành chính là phương thức bảo vệ và đảm bảo
các quyền, lợi ích của công dân
Thứ
1.4. Các yếu tố đảm bảo hoạt động xét xử vụ án hành chính
Các yếu tố chung bảo đảm cho xét xử vụ án hành chính bao gồm: cách
thức tổ chức bộ máy nhà nước và việc phân quyền cho hệ thống Tòa án; hệ
thống pháp luật tố tụng hiện hành và hệ thống pháp luật trong lĩnh vực quản
lý hành chính nhà nước
Các yếu tố riêng bảo đảm cho xét xử vụ án hành chính bao gồm: yếu tố
nhân lực, tài chính, sự phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong quá trình
giải quyết vụ án.
TIỂU KẾT CHƢƠNG 1
Có nhiều cơ chế khác để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân
cũng như để kiểm soát quyền lực nhà nước, nhưng trong đó, hoạt động xét xử
vụ án hành chính đã thể hiện rõ tính hiệu quả và sự ưu việt. Chọn Tòa án là
7



cơ quan xét xử độc lập, để đảm bảo việc giải quyết khiếu kiện hành chính
được khách quan và công tâm hơn so với giải quyết khiến nại của cơ quan
hành chính nhà nước. Bên cạnh đó, xét xử vụ án hành chính còn là phương
thức bảo đảm pháp chế và kỷ luật trong nền hành chính nhà nước, là phương
thức kiểm tra, giám sát hữu hiệu đối với các cơ quan hành chính và công chức
nhà nước nhằm ngăn ngừa hiện tượng làm quyền, lộng quyền, trốn tránh trách
nhiệm. Hoạt động này góp phần loại trừ những hiện tượng tiêu cực, cửa
quyền, quan liệu trong bộ máy hành chính, giúp xây dựng nền hành chính
trong sạch, năng động, chuyên nghiệp và ngày càng hiện đại, hoạt động hiệu
quả hơn trong việc phục vụ người dân, đồng thời tạo dựng lòng tin vững vàng
của người dân trong hoạt động quản lý của nhà nước.
CHƢƠNG 2
THỰC TRẠNG XÉT XỬ VỤ ÁN HÀNH CHÍNH TẠI TÒA ÁN
NHÂN DÂNTHÀNH PHỐ HÀ NỘI
2.1 Đặc điểm kinh tế, chính trị trên địa bàn và Quá trình phát triển
của Tòa hành chính Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội
Hà Nội là thủ đô của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, là trung
tâm kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội; là nơi đặt trụ sở của các cơ quan trung
ương Đảng và Nhà nước, các tổ chức chính trị xã hội, các cơ quan đại diện
ngoại giao, tổ chức quốc tế và nơi diễn ra các hoạt động đối nội, đối ngoại
quan trọng nhất của đất nước. Song song cùng sự sôi động của nền kinh tế và
quá trình đô thị hóa diễn ra nhanh chóng, Hà Nội cũng đang phải đối mặt với
nhiều khó khăn nảy sinh từ cơ chế chính sách, quy mô, cấp độ, tính phức tạp
trong quản lý giữa các địa phương, trên địa bàn phát sinh nhiều tranh chấp,
khiếu kiện trên mọi lĩnh vực đời sống. Các vụ án được giải quyết tại tòa án
ngày càng gia tăng về số lượng cũng như độ phức tạp, đòi hỏi toàn ngành Tòa
án trên địa bàn thành phố không ngừng hoàn thiện, nâng cao chất lượng giải
quyết vụ án hành chính để đảm bảo kỷ luật, kỷ cương quản lý hành chính nhà

nước trên địa bàn cũng như bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
Tòa Hành chính thuộc Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội là Tòa
chuyên trách xét xử sơ thẩm những vụ án hành chính theo quy định của pháp
luật Tố tụng Hành chính; xét xử phúc thẩm những vụ án hành chính mà bản
8


án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật của Tòa án cấp dưới bị
kháng cáo, kháng nghị theo quy định của pháp luật tố tụng. Tòa Hành chính
thuộc Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội có vai trò quan trọng của mình
trong việc bảo đảm tôn trọng quyền công dân, quyền con người, tạo ra một cơ
chế kiểm tra, giám sát quyền lực Nhà nước rõ nét. Với chức năng xét xử hành
chính, giải quyết các tranh chấp phát sinh trong lĩnh vực quản lý hành chính
nhà nước giữa công dân với cơ quan hành chính nhà nước, Tòa Hành chính
đã góp phần thúc đẩy các cơ quan hành chính nhà nước, cán bộ, công chức
nhà nước phải tự nâng cao năng lực quản lý, trình độ chuyện môn và ý thức
trách nhiệm, đồng thời có những thay đổi phù hợp trong thủ tục cũng như
phương thức điều hành, quản lý xã hội, tạo điều kiện thuận lợi cho công dân
thực hiện đầy đủ các quyền tự do dân chủ của mình.
2.2 Tình hình xét xử vụ án hành chính tại Tòa án nhân dân Thành
phố Hà Nội giai đoạn 2013 -2017
2.2.1 Cơ sở pháp lý của xét xử vụ án hành chính tại Tòa án nhân dân
Thành phố Hà Nội
Cho đến nay, hoạt động xét xử của Tòa Hành chính thuộc Tòa án nhân
dân Thành phố Hà Nội được thực hiện dựa trên các văn bản chủ đạo sau:
Luật Tố tụng Hành chính (năm 2015)
Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư
pháp đến năm 2020.
Các nghị quyết của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao, như:
Nghị quyết số 02/2011/NQ-HĐTP hướng dẫn thi hành Luật Tố tụng

Hành chính của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao (sửa đổi một số
khoản tại Nghị quyết số 01/2015/NQ-HĐTP);
- Nghị quyết số 01/2015/NQ-HĐTP sửa đổi Nghị quyết 02/2011/NQHĐTP hướng dẫn thi hành quy định của Luật Tố tụng Hành chính của Hội
đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao;
-

Nghị quyết số 02/2017/NQ-HĐTP về biểu mẫu trong Tố tụng Hành
chính của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao;
-

Bên cạnh các căn cứ pháp lý điều chỉnh trực tiếp hoạt động Tố tụng
Hành chính trong giải quyết vụ án hành chính, tòa án trong quá trình xét xử
còn cần phải căn cứ vào các quy phạm pháp luật có tính chuyên môn, riêng
9


biệt như luật đất đai, tài chính, lao động, dân sự,… để được đưa ra khởi kiện.
2.2.2 Kết quả xét xử vụ án hành chính tại Tòa án nhân dân Thành
phố Hà Nội giai đoạn từ năm 2013 tới năm 2017
Theo báo cáo tổng kết từ năm 2013 tới năm 2017 của Tòa án Nhân dân
Thành phố Hà Nội, số vụ án được tòa thụ lý, giải quyết, xét xử như sau: Năm
2013, Tòa thụ lý 219 vụ việc, xét xử sơ thẩm 10 vụ, xét xử phúc thẩm 187 vụ.
Năm 2014, Tòa thụ lý 152 vụ việc, xét xử sơ thẩm 14 vụ, xét xử phúc thẩm
121 vụ. Năm 2015, Tòa thụ lý 121 vụ việc, xét xử sơ thẩm 9 vụ, xét xử phúc
thẩm 72 vụ. Năm 2016, Tòa thụ lý 166 vụ việc, xét xử sơ thẩm 50 vụ, xét xử
phúc thẩm 86 vụ. Năm 2017, Tòa thụ lý 467 vụ việc, xét xử sơ thẩm 73 vụ,
xét xử phúc thẩm 111 vụ. Đặc điểm người khởi kiện đa số là cá nhân (94% 100%), đối tượng bị khiếu kiện chủ yếu là cơ quan, tổ chức (90% - 95%).
Không có vụ án nào trong quá trình xét xử phải áp dụng biện pháp khẩn cấp
tạm thời. Một phần ba số vụ án có sự tham gia của người bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp cho đương sự và có sự tham gia của Viện kiểm sát.

So sánh tương quan với các xét xử khác, số vụ án hành chính chiếm tỉ lệ
thấp trên tổng số vụ án được thụ lý và xét xử, tuy nhiên là án khó, số án tồn
đọng chiếm tỉ lệ cao. Khiếu kiện trong lĩnh vực quản lý nhà nước về đất đai
và trật tự xây dựng đô thị, thường chiếm trung bình từ 85% trong tổng số
khiếu kiện hành chính hàng năm. Đây là 2 trong số những lĩnh vực khiếu kiện
có tính chất phức tạp do hệ thống quy phạm pháp luật chưa thực sự đồng bộ,
có nhiều thay đổi về luật cũng như các Nghị định của Chính phủ.
2.2.3. Đánh giá kết quả xét xử vụ án hành chính tại Tòa án nhân dân
Thành phố Hà Nội giai đoạn 2013 – 2017
2.2.3.1. Những ưu điểm đã đạt được
Từ thực trạng xét xử vụ án hành chính trên địa Thành phố Hà Nội giai
đoạn 2013 - 2017, có thể thấy, cùng với chiến lược cải cách tư pháp, đổi mới
hoạt động trong lĩnh vực xét xử, Tòa Hành chính Tòa án nhân dân thành phố
Hà Nội đã có những bước tiến căn bản nhằm đổi mới, nâng cao chất lượng
xét xử. Qua các năm, số lượng án hành chính được thụ lý và đưa ra xét xử
ngày càng gia tăng nhanh chóng, đặc biệt sau giai đoạn sửa đổi luật Tố tụng
hành chính, năm 2016 và 2017. Số lượng vụ án bị hủy, sửa có tỉ lệ giảm dần.
Các phiên tòa xét xử có sự tham gia của Viện kiểm sát, Người bảo vệ quyền,
10


lợi ích hợp pháp cho đương sự chiếm trên 30%. Tòa Hành chính Tòa án nhân
dân Thành phố Hà Nội cũng có sự phối hợp chặt chẽ với các cơ quan Quản lý
hành chính, Viện kiểm sát trong quá trình xác minh thu thập chứng cứ; hạn
chế án quá hạn, tạm đình chỉ do lỗi chủ quan của thẩm phán. Đồng thời công
tác đối thoại, tranh tụng tiếp tục được đẩy mạnh. Hoạt động xét xử đúng quy
trình, nghiêm minh, đảm bảo cho người tham gia tố tụng thực hiện đầy đủ
quyền và nghĩa vụ của mình. Chính vì vậy, hoạt động xét xử nói chung và xét
xử vụ án hành chính nói riêng đã và đang có những đóng góp tích cực trong
việc giữ vừng ổn định chính trị, thúc đẩy phát triển, kinh tế, văn hóa xã hội

trên địa bàn thành phố Hà Nội.
2.2.3.2. Hạn chế và nguyên nhân
Mặc dù đã đạt được những thành tích nhất định trong công tác giải quyết
các tranh chấp liên quan đến các vụ án hành chính, nhưng do đặc thù của loại
án, hoạt động xét xử án hành chính của Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội
cũng gặp không ít khó khăn, hạn chế như sau:
Vấn đề xác định đối tượng khởi kiện
Đối tượng khởi kiện trong vụ án hành chính là quyết định hành chính
mang tính cá biệt do cơ quan hành chính có thẩm quyền ban hành hoặc hành
hành chính của công chức nhà nước thực hiện quyền quản lý nhà nước áp
dụng đối với cá nhân, cơ quan, tổ chức được cho là xâm phạm tới quyền và
lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức đó. Mặc dù Luật đã có quy
định (Điều 30 Luật Tố tụng Hành chính năm 2015) về xác định đối tượng
khởi kiện thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án, và Điều 1 Nghị quyết
02/2011/NQ-HĐTP ngày 29/7/2011, được sửa đổi, bổ sung trong Nghị quyết
01/2015/NQ-HĐTP ngày 15/01/2015 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân
dân tối cao về Hướng dẫn thi hành một số quy định của Luật Tố tụng Hành
chính đã có hướng dẫn cụ thể hơn về vấn đề này. Tuy nhiên như vậy vẫn chưa
đủ chi tiết vì thực tế áp dụng rất phức tạp, không chỉ người khởi kiện mà bản
thân cơ quan tiến hành tố tụng cũng có sự nhầm lẫn trong việc xác định đối
tượng khởi kiện. Đặc biệt, trong lĩnh vực đất đai, sự nhầm lẫn này diễn ra khá
phổ biến.
vi

Vấn đề xác minh, thu thập chứng cứ
Trên thực tế vấn đề thu thập chứng cứ trong vụ án hành chính luôn gặp
11


khó khăn hơn các vụ án dân sự xuất phát từ đặc thù trong hoạt động xét xử vụ

án hành chính đó là người bị kiện luôn là nhà nước hoặc cá nhân có thẩm
quyền trong cơ quan nhà nước. Với tư cách cá nhân, người khởi kiện khó có
thể yêu cầu cơ quan quản lý nhà nước, cá nhân có thẩm quyền cung cấp các
quyết định hành chính, cũng như các chứng cứ sai phạm của cơ quan, cá nhân
có thẩm quyền đó.
Mặc dù luật cũng quy định Tòa án có trách nhiệm hỗ trợ đương sự trong
việc thu thập tài liệu, chứng cứ và tiến hành thu thập, xác minh chứng cứ, yêu
cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu, chứng cứ cho Tòa án hoặc
đương sự. Tuy nhiên, bản thân các cơ quan quản lý nhà nước không phải lúc
nào cũng hợp tác với Tòa án để cung cấp tài liệu theo yêu cầu.
Điển hình cho những khó khăn trong việc xác minh, thu thập chứng cứ là
vụ án hành chính giữa người khởi kiện là ông Nguyễn Văn Linh và người bị
kiện là Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội được trình bày cụ thể
trong luận văn.
Tòa án có trách nhiệm rất cao trong việc hỗ trợ đương sự tìm kiếm và
xác minh chứng cứ. Nếu thiếu đi sự hỗ trợ này thì hồ sơ vụ án sẽ có rất nhiều
kẽ hở dẫn đến phán quyết không chính xác khi chưa đủ căn cứ khách quan,
đặc biệt với những vụ án hành chính phức tạp và có nguồn gốc phát sinh từ
rất lâu trước đó thì việc thu thập chứng cứ là điều vô cùng khó khăn.
Vì vậy, pháp luật nên có những quy định nâng cao trách nhiệm của Tòa
án trong việc hỗ trợ người khởi kiện thu thập chứng cứ trong trường hợp
những chứng cứ ấy nằm ngoài khả năng thu thập của người khởi kiện, đặc
biệt là khi những chứng cứ ấy nằm dưới sự quản lý của cơ quan quản lý nhà
nước – đối tượng bị khởi kiện.
Vấn đề vi phạm quy trình xét xử
Quy trình xét xử vụ án hành chính được hiểu là trình tự, thủ tục tiến hành
giải quyết các vụ án hành chính do Tòa Hành chính thực hiện nhằm bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức. Quy trình xét xử
được Luật Tố tụng Hành chính quy định và phải tuân thủ một cách nghiêm
ngặt. Những thiếu sót, sai phạm của chủ thể tiến hành tố tụng trong quy trình

xét xử có thể dẫn đến hệ quả hủy bản án khi có kháng cáo của các đương sự
liên quan
12


Qua phân tích trong luận văn, có thể thấy xét xử vụ án hành chính phức
tạp không chỉ trong việc xác định đối tượng khởi kiện, thu thập, xác minh
chứng cứ mà ngày cả Tòa án còn dễ nhầm lẫn trong việc xác định quan hệ
pháp luật trong từng vụ việc dẫn đến việc làm chậm tiến trình giải quyết vụ
việc do phải xét xử lại. Liệu cần hay không, một chế tài nghiêm khắc được
đưa ra để nâng cao trách nhiệm của cơ quan, cá nhân tiến hành tố tụng trong
hoạt động xét xử vụ án hành chính để đảm bảo nguyên tắc kịp thời, công
bằng, công lý trong Tố tụng Hành chính và vấn đề bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức được thực hiện một cách hiệu quả
nhất?
Vấn đề tranh tụng trong phiên tòa xét xử
“Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được đảm bảo” được Hiến pháp
2013 quy định tại khoản 5 Điều 103, do đó tất cả các hoạt động xét xử tại tòa
án đều phải đảm bảo việc tranh tụng được diễn ra một cách công bằng, khách
quan nhất. Tuy nhiên, thực tế áp dụng chưa thực sự hiệu quả. Mặc dù hoạt
động tranh tụng được đánh giá là một hoạt động quan trọng, cần thiết, đề cao
tính dân chủ, công bằng, công lý, nhưng việc quy định chỉ mang tính hình
thức khiến cho thủ tục này trở nên mờ nhạt, dễ bị bỏ qua trong phiên tòa xét
xử.
Dẫn tới những khó khăn và hạn chế trong công tác xét xử vụ án hành
chính của Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội, có thể nêu lên một số nguyên
nhân sau:
Thứ nhất, sự độc lập của Tòa án trong hoạt động xét xử vẫn là một vấn
đề nhiều bất cập, liên quan tới thế chế nhà nước, mối quan hệ giữa các cơ
quan, cá nhân trực thuộc các tổ chức chính trị.

Thứ hai, quy định của pháp luật Tố tụng Hành chính còn nhiều hạn chế,
bất cập khiến cho quá trình áp dụng các quy định của pháp luật Tố tụng Hành
chính gặp những vướng mắc.
Thứ ba, hệ thống văn bản quản lý hành chính đa dạng, phức tạp, còn
thiếu và kém thống nhất gây khó khăn cho hoạt động xét xử
Thứ tư, đội ngũ thẩm phán Tòa án còn mỏng, thiếu kiến thức về các lĩnh
vực quản lý hành chính
Thứ năm, kiến thức của người dân về thủ tục Tố tụng Hành chính còn
nhiều hạn chế.

13


TIỂU KẾT CHƢƠNG 2
Từ những phân tích về quá trình hình thành, mô hình hoạt động cùng các
thành tích đạt được, Tòa Hành chính Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội qua
các thời kỳ đã phát triển và có những chuyển biến tích cực trong hoạt động
giải quyết các vụ án hành chính trên địa bàn thành phố. Nhận thức được tầm
quan trọng của việc nâng cao chất lượng xét xử, nâng cao trình độ chuyên
môn, Tòa án đã có những đòi hỏi nhất định đối với Thẩm phán Tòa án trong
việc hoàn thiện trình độ, vốn hiểu biết của mình, luôn không ngừng cập nhật,
nắng vững quy định của pháp luật hiện hành.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tích đạt được, hoạt động xét xử vụ án
hành chính của Tòa Hành chính Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội vẫn còn
nhiều hạn chế, thiếu sót dẫn đến tình trạng kháng cáo, hủy bản án sơ thẩm gây
làm ảnh hưởng đến uy tín, chất lượng của Tòa. Trước những thách thức, khó
khăn đó, đòi hỏi ngành Tòa án nói chung và Tòa Hành chính Tòa án nhân dân
thành phố Hà Nội nói riêng phải có những định hướng mang tầm chiến lược,
lâu dài, đưa ra những giải pháp cụ thể, phụ hợp, bám sát với thực trạng còn
tồn tại trong hoạt động xét xử vụ án hành chính của Tòa để nâng cao chất

lượng giải quyết vụ án hành chính, đảm bảo việc xét xử công tâm, vô tư,
khách quan, thể hiện tính tuyết phục trong bản án, quyết định của Tòa án.
CHƢƠNG 3
PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN
HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ VỤ ÁN HÀNH CHÍNH TỪ
THỰC TIỄN TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ
HÀ NỘI
3.1. Phƣơng hƣớng hoàn thiện hoạt động xét xử vụ án hành chính
Từ Đại hội Đảng VIII đến nay, các định hướng cải cách nền tư pháp
của Đảng ta được cụ thể hoá và phát triển trong nghị quyết của Đại hội Đảng
VIII, IX, các Hội nghị trung ương khoá VII,VIII, IX và phát triển thêm một
bước ở Nghị quyết số 08-NQ-TW của Bộ Chính trị khoá IX ngày 2/1/2002 về
một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới và Nghị quyết
49-NQ/TW ngày 2/6/2005 về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. Cụ
thể Nghị quyết số 49 đã thể hiện rõ quan điểm, yêu cầu của Đảng như “Tổ
14


chức các cơ quan tư pháp và các chế định bổ trợ tư pháp hợp lý, khoa học;
trong đó xác định Tòa án có vị trí trung tâm và xét xử là hoạt động trọng
tâm”; Hoạt động tư pháp mà trọng tâm là hoạt động xét xử được tiến hành có
hiệu quả và hiệu lực cao”, “Mở rộng thẩm quyền xét xử của Tòa án đối với
các khiếu kiện hành chính. Đổi mới mạnh mẽ thủ tục giải quyết các khiếu
kiện hành chính tại Tòa án; tạo điều kiện thuận lợi cho người dân tham gia tố
tụng, bảo đảm sự bình đẳng giữa công dân và cơ quan công quyền trước Tòa
án”; “Đổi mới việc tổ chức phiên tòa xét xử, xác định rõ hơn vị trí, quyền
hạn, trách nhiệm của người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng theo
hướng bảo đảm tính công khai, dân chủ, nghiêm minh; nâng cao chất lượng
tranh tụng tại các phiên tòa xét xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt động tư
pháp”. Vì vậy, trong các bước phát triển tiếp theo, hoạt động xét xử vụ án

hành chính cần gắn kết chặt chẽ với các mục tiêu, phương hướng đã được nêu
ra trong các văn bản chỉ đạo về cải cách tư pháp, thống nhất trong sự lãnh đạo
của Đảng và Nhà nước đối với hoạt động xét xử của Tòa án.
3.2 Một số giải pháp góp phần hoàn thiện hoạt động xét xử vụ án
hành chính từ thực tiễn Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội
3.2.1 Tăng cường tính độc lập của Tòa án
Thực tế cho thấy, hoạt động xét xử của Tòa án khó có thể độc lập khi còn
chịu sự sự tác động quản lý của chính quyền địa phương. Trong khi đó, đảm
bảo tính độc lập của Tòa án khi xét xử là vấn đề mang tính nguyên tắc, là cơ
sở nền tảng thực hiện các yêu cầu về sự công minh, dân chủ, hiệu lực, hiệu
quả. Như vậy, muốn đảm bảo tính độc lập trong xét xử của Tòa án trước tiên
phải thể chế hóa nguyên tắc độc lập vào trong các văn bản quy phạm pháp
luật. Đồng thời phải có cơ chế đảm bảo thực thi và chế tài nghiêm khắc khi
có sự vi phạm. Sự bất cập trong mô hình tổ chức Tòa án nhân dân khiến cho
Tòa án bị ràng buộc về địa giới hành chính trong phạm vi cấp huyện, khó
đảm bảo tính thống nhất về bề dọc (hệ thống Tòa án phân cấp) và tính độc lập
về bề ngang (các cơ quan nhà nước cùng cấp).
Chính vì vậy rất cần thiết có sự điều chỉnh, tách bạch hoạt động của Tòa
án khỏi tổ chức bộ máy chính quyền địa phương, tổ chức hoạt động theo các
cấp xét xử, có như vậy mới đảm bảo được tính độc lập, khách quan và hiệu
quả trong xét xử
15


3.2.2. Hoàn thiện hệ thống pháp luật Tố tụng Hành chính
3.2.2.1. Vấn đề ban hành, thực hiện và tính thống nhất của hệ thống văn
bản pháp luật tố tụng
Nhà nước cần phải hoàn thiện các văn bản quy phạm hướng dẫn cụ thể
và làm rõ các vấn đề chưa rõ ràng, khó hiểu và còn gây tranh cãi trong quá
trình áp dụng để xét xử vụ án hành chính. Cần đẩy mạnh công tác pháp điển

hóa – tập hợp các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh lĩnh vực Tố tụng
Hành chính thành hệ thống, từ đó sắp xếp chúng theo một trình tự nhất định,
đồng thời sàng lọc những quy phạm có tính lỗi thời, mâu thuẫn, phát hiện các
lỗ hổng pháp luật để khắc phục và sửa đổi các quy phạm hiện hành còn
vướng mắc để nâng cao hiệu lực pháp lý của chúng.
3.2.2.2. Hoàn thiện các quy định cụ thể
Xác định đối tượng khởi kiện
Pháp luật Tố tụng Hành chính hiện nay mới chỉ giải thích thế nào để một
quyết định hành chính được xác định là đối tượng khởi kiện, nghĩa là nêu ra
tính chất và dấu hiệu nhận biết một quyết định hành chính được coi là đối
tượng khiếu kiện mà chưa đưa ra được tiêu chí lựa chọn đối tượng khởi kiện
trong trường hợp vụ án hành chính có nhiều quyết định hành chính chồng
chéo, đặc biệt là các vụ án tranh chấp trong lĩnh vực đất đai.
Do đó, pháp luật Tố tụng Hành chính cần phải có quy định cụ thể hơn
hướng dẫn việc chọn lựa đối tượng khởi kiện theo hướng: quyết định hành
chính được xác định và lựa chọn là đối tượng khởi kiện khi thỏa mãn đồng
thời các điều kiện: là quyết định cá biệt, là quyết định sau cùng, được người
khởi kiện cho rằng xâm hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của họ.
Xác định người bị kiện
Nếu đương sự khởi kiện cả quyết định hành chính, hành vi hành chính
của UBND cấp huyện hoặc Chủ tịch UBND cấp huyện, đồng thời khởi kiện
quyết đinh hành chính, hành vi hành chính của UBND cấp tỉnh hoặc Chủ tịch
UBND cấp tỉnh trong cùng một vụ án thì người bị kiện được xác định như thế
nào?
Việc mở rộng đối tượng khiếu kiện của Tòa án nhân dân cấp tỉnh
Bên cạnh đó, khoản 8 Điều 32 Luật Tố tụng Hành chính năm 2015 quy
định: “Trường hợp cần thiết Tòa án cấp tỉnh có thể lấy lên giải quyết vụ án
16



hành chính thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án cấp huyện theo quy định
tại Điều 31 của Luật này”.
Thiết nghĩ, để bảo đảm tính khả thi trong thực tiễn, cũng như có sự nhận
thức thống nhất trong áp dụng quy định này giữa Tòa án cấp dưới và Tòa án
cấp trên, cơ quan có thẩm quyền sớm ban hành văn bản hướng dẫn cụ thể
những trường hợp “cần thiết” mà Tòa án cấp tỉnh có thể lấy lên giải quyết.
Thời hạn chuẩn bị xét xử
Khoản 1 và khoản 2 Điều 130 Luật Tố tụng Hành chính năm 2015 chỉ
quy định thời hạn chuẩn bị xét xử đối với các trường hợp quy định tại điểm a,
khoản 2 Điều 116; còn các trường hợp tại điểm a, b khoản 3 Điều 116 lại
không có quy định cụ thể về thời hạn chuẩn bị xét xử. Do đó, rất khó cho Tòa
án khi thụ lý giải quyết các vụ án hành chính liên quan đến các trường hợp
nêu trong điểm a, b khoản 3 Điều 116 Luật Tố tụng Hành chính năm 2015.
b

Thiết nghĩ pháp luật Tố tụng Hành chính nên có quy định thống nhất về
thời hạn chuẩn bị xét xử đối với tất cả các trường hợp Luật đã quy định trong
Điều 116. Tránh trường hợp Tòa án mỗi nơi lại đưa ra một thời hiệu khác
nhau cho trường hợp được nêu tại khoản 3 Điều 116 Luật Tố tụng Hành chính
năm 2015, thiếu tính thống nhất khiến cho người dân hoang mang về việc
tuân thủ pháp luật của Tòa án nói chung và Tòa án Hành chính thành phố Hà
Nội nói riêng.
Mở rộng thẩm quyền xét xử
Ngoài thẩm quyền xem xét tính hợp pháp của các quyết định hành chính,
hành vi hành chính, Tòa án nhân dân còn có thẩm quyền giải quyết vấn đề bồi
thường thiệt hại trong vụ án hành chính.
Tuy nhiên, Tòa Hành chính chỉ xem xét tính hợp pháp của quyết định
hành chính và hành vi hành chính, chứ không được phán xét về tính hợp lí
của các quyết định hành chính, hành vi hành chính bị kiện. Quy định như vậy
là phù hợp với quan điểm quyền tư pháp không được can thiệp sâu vào quyền

hành pháp, nhưng lại chưa đáp ứng mục đích khởi kiện vụ án hành chính của
người khởi kiện là nhằm yêu cầu Tòa án không chỉ bảo vệ mà còn khôi phục
quyền, lợi ích đã bị xâm hại bởi quyết định hành chính, hành vi hành chính.
Kiến nghị mở rộng quyền phán quyết của Tòa án không chỉ có quyền
“hủy bỏ” một phần hoặc toàn bộ quyết định hành chính mà còn có quyền
17


“công nhận” quyền và lợi ích hợp pháp của ngưởi khởi kiện để tránh trường
hợp các quyền lợi đó lại tiếp tục bị xâm hại.
3.2.3 Kiện toàn hoạt động xét xử án hành chính của Tòa án nhân
dân thành phố Hà Nội theo hướng cải cách tư pháp
3.2.3.1 Đảm bảo các nguyên tắc xét xử trong hoạt động Tố tụng Hành
chính
Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo
pháp luật khi xét xử vụ án hành chính.
Nêu cao tinh thần thượng tôn pháp luật, đảm bảo công bằng trong tiếp
cận các quyền tư pháp của Nhà nước – công dân, đội ngũ Thẩm phán cần chú
trọng tôi luyện đạo đức nghề nghiệp, phẩm chất của người giữ cán cân công
lý. Ngành Tòa án cần xem xét xây dựng tiêu chí để đánh giá chất lượng làm
việc của đội ngũ Thẩm phán. Tham dự phiên Tòa, đội ngũ Hội thẩm nhân dân
cũng cần được nâng cao hơn về kỹ năng, hiểu biết đối với quy trình tố tụng,
kiến thức về lĩnh vực, vấn đề xét xử vì thực tế hiểu biết chuyên môn sâu trong
lĩnh vực quản lý hành chính nhà nước của đội ngũ Hội thẩm nhân dân hiện
nay còn rất nhiều hạn chế.
Quá trình xét xử, nghiêm cấm các cơ quan, tổ chức, cá nhân tác động tới
diễn biến và phán quyết của phiên tòa. Hiện nay, mô hình Tòa án nhân dân bị
phụ thuộc và chịu sự giám sát của cơ quan hành chính cùng cấp địa phương
gây ra không ít khó khăn, thậm chí tác động tới cả những phán quyết của Tòa
án. Do đó vấn đề đặt ra không chỉ đối với đội ngũ Thẩm phán xét xử mà còn

từ cấp cao hơn trong việc quy hoạch thẩm quyền, xây dựng thể chế và bộ máy
nhà nước.
Nguyên tắc đảm bảo tranh tụng trong xét xử
Cần đẩy mạnh việc giáo dục, tuyên truyền về Luật Tố tụng Hành chính
năm 2015 và các văn bản pháp luật, đặc biệt là quyền được tranh tụng một
cách cụ thể và sâu rộng để người dân hiểu biết về pháp luật Tố tụng Hành
chính, giúp cho họ có sự chuẩn bị cần thiết các điều kiện, tiền đề khi tham gia
vào tố tụng nhằm có thể thực hiện tốt việc tranh tụng tại phiên tòa, đồng thời,
giúp cho xã hội có sự hiểu biết pháp luật để có thể giám sát, đánh giá khách
quan về hoạt động tranh tụng trong xét xử hành chính tự bảo về quyền và lợi
ích hợp pháp của mình khi bị xâm phạm. Nâng cao trình độ, nhận thức người
18


tham gia tố tụng, đảm bảo cho họ có đủ kiến thức, năng lực, khả năng diễn
đạt để thực hiện tốt việc tranh tụng tại phiên tòa. Những trường hợp người
tham gia tranh tụng không có khả năng đó thì nhất thiết phải được sự trợ giúp
của luật sư.
Hình thành các cơ quan, tổ chức bổ trợ tư pháp với chức năng hợp lý
phù hợp với cơ chế tranh tụng. Hoàn thiện cơ chế bảo đảm để luật sư thực
hiện tốt việc tranh tụng tại phiên tòa, đồng thời xác định rõ chế độ trách
nhiệm đối với luật sư.
Bảo đảm cơ sở vật chất cho quá trình tranh tụng. Việc người dân đứng ra
kiện trước Toà án những hành vi hành chính của cơ quan quản lý hành chính
nhà nước là một quan hệ không bình đẳng. Vị trí của các bên tại phiên tòa thế
nào để đảm bảo không khí tố tụng bình đẳng, khách quan, tạo điều kiện cho
các bên dễ dàng tiếp xúc trong quá trình tố tụng, hệ thống âm thanh được ghi
âm, ghi hình ảnh thuận tiện cho việc theo dõi tiến trình tố tụng là những điều
kiện rất cần thiết cho tranh tụng trong các phiên tòa hành chính vừa đạt được
chất lượng hiệu quả một phiên tòa, vừa là bài học thực tiễn rèn kỹ năng điều

hành phiên tòa để đảm bảo quyền tranh tụng của các đương sự.
3.2.3.2 Nâng cao chất lượng quy trình xét xử
Một là,tăng cường tổ chức đối thoại trong Tố tụng Hành chính
Để tăng cường đối thoại trong Tố tụng Hành chính trước hết Thẩm phán
phải chủ động tổ chức đối thoại giữa khác bên ngay từ khi giai đoạn tố tụng
mới bắt đầu. Đối thoại trực tiếp giữa bên khởi kiện và bên bị kiện thường
mang đến những lợi ích rõ rệt trong việc giải quyết các mâu thuẫn, tranh
chấp. Khi các bên đã hiểu tại sao bên kia hành động như vậy thì việc hòa giải
sẽ diễn ra thuận lợi và dễ dàng hơn rất nhiều, thậm chí không cần đến phiên
tòa xét xử mà vụ án hành chính vẫn được giải quyết triệt để.
Hai là, tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan hành chính với Tòa án
nhân dân
Tăng cường mối quan hệ phối hợp giữa Tòa án và các cơ quan hành
chính chuyên ngành về tài nguyên môi trường, xây dựng, quản lý thị trường,
lao động,… và các cơ quan hành chính như Ủy ban nhân dân các cấp là rất
cần thiết. Sự phối hợp này sẽ giúp cho Tòa án luôn kịp thời nắm bắt các chủ
trương, chính sách, các văn bản pháp luật chuyên ngành mới, đặc biệt là các
19


văn bản quy phạm có tính nội bộ. Bên cạnh đó, trong quá trình tố tụng, Tòa
án không có kiến thức chuyên môn sâu về các ngành cụ thể nên rất cần sự hỗ
trợ của các cơ quan chuyên ngành trong việc xử lý các thông tin, chứng cứ
phục vụ giải quyết tranh chấp hành chính.
Bên cạnh sự hỗ trợ về mặt chuyên môn, Tòa án cũng cần phải có cơ chế
phối hợp với các cơ quan quản lý hành chính nhà nước trong việc cung cấp,
xác minh chứng cứ phục vụ hoạt động tố tụng.
Ba là, nâng cao hiệu quả của công tác thi hành án hành chính
Cần xác định rõ trách nhiệm, các hình thức buộc người phải thi hành án
thi hành nghiêm bản án, quyết định của Tòa Hành chính và xác định rõ trách

nhiệm của cấp trên trực tiếp của người phải thi hành án trong việc chỉ đạo,
đôn đốc cấp dưới thi hành án...
Phương hướng đổi mới quản lý công tác thi hành án hành chính là cần
xác định rõ vai trò, trách nhiệm của Tòa án trong việc ra quyết định buộc thi
hành án như tăng cường vai trò, trách nhiệm của Tòa án trong việc theo dõi,
kiểm soát, thống kê, giải thích, đính chính các bản án, quyết định đã được Tòa
án ra quyết định thi hành.
Để bảo đảm sự thống nhất và toàn diện từ trình tự, thủ tục, thẩm quyền,
trách nhiệm của các cá nhân, cơ quan liên quan trong việc thi hành án hành
chính thì Nhà nước cần hoàn thiện hệ thống thể chế về thi hành án hành
chính, đặc biệt là xây dựng Luật Thi hành án hành chính.
3.2.3.3 Phát triển án lệ trong Tố tụng Hành chính
Trong hệ thống pháp luật Việt Nam, án lệ không phải là nguồn luật. Án lệ
được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao tổng kết, phát triển từ các
bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật, có tính chuẩn mực của các Tòa án,
để cho các Tòa án nghiên cứu, áp dụng trong xét xử nên nếu trong xét xử.

Để việc phát triển án lệ có hiệu quả, xin đưa ra một số kiến nghị như sau: Cần
quy định phát triển án lệ, giá trị pháp lý, nguyên tắc áp dụng án lệ trong các
luật tố tụng nói chung và luật Tố tụng Hành chính nói riêng. Quy
định rõ trong phạm vi điều chỉnh, đối tượng áp dụng của các luật tố tụng.
Về trình tự, thủ tục áp dụng án lệ, Luật cần quy định cụ thể các bước tiến
hành khi áp dụng án lệ trong các giai đoạn tố tụng xét hỏi, tranh tụng, nghị
án, tuyên án, để đảm bảo hoạt động xét xử được công khai, minh bạch, công
20


bằng và đúng pháp luật, giúp quyền và lợi ích hợp pháp của người dân được
bảo vệ hiệu quả nhất trong hoạt động tố tụng nói chung và Tố tụng Hành
chính nói riêng.

3.2.3.4 Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ công chức ngành Tòa án
Tăng biên chế cán bộ công chức trong ngành Tòa án nói chung và Tòa
Hành chính nói riêng. Có thể thấy, theo thống kê đưa ra ở chương II thì Tòa
Hành chính Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội đang phải chịu áp lực rất lớn
do số vụ án hành chính tăng nhanh, mức độ phức tạp cũng tăng lên trong khi
đó nguồn nhân lực của Tòa án còn mỏng.
Nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ công chức ngành Tòa án: từ khâu
tuyển dụng, đào tạo, đào tạo hợp tác quốc tế cho tới xây dựng khung năng lực để
đánh giá chất lượng, hiệu quả làm việc của Thẩm phán. Ban hành quy tắc đạo
đức nghề nghiệp và các chế tài xử phạt vi phạm nghiêm minh hơn nữa.

Cải cách chế độ tiền lương công chức nói chung và tiền lương của thẩm
phán nói riêng cũng rất cần thiết. Thu nhập được đảm bảo, đời sống cán bộ
được ổn định thì họ mới có thể yên tâm công tác, phục vụ nhân dân; đồng
thời cũng tránh được những tiêu cực không đáng có trong quá trình tố tụng,
đảm bảo tính nghiêm minh, công bằng trong xét xử.
3.2.4. Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật tố tụng hành
chính
Công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật là biện pháp hữu
hiệu nhằm nâng cao hiểu biết và ý thức chấp hành pháp luật cho quần chúng
nhân dân. Nhiều năm qua, công tác này đã được Nhà nước thực hiện khá hiệu
quả trên một số lĩnh vực kinh tế, giáo dục. Tuy nhiên việc tiếp cận pháp luật
tố tụng nói chung và tố tụng hành chính nói riêng của nhân dân vẫn còn nhiều
hạn chế. Thực tế cho thấy hoạt động xét xử vụ án hành chính gặp khó khăn có
nguyên nhân từ việc đương sự khiếu kiện chưa am hiểu pháp luật, dẫn tới
không xác định chính xác đối tượng khởi kiện, không đảm bảo thời hiệu khởi
kiện .vv. Chính vì vậy, công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật tố tụng hành
chính cần được quan tâm nhiều hơn. Sở Tư pháp, Sở Thông tin truyền thông
các tỉnh cần thống nhất xây dựng nội dung phù hợp với từng đối tượng tiếp
nhận, phối hợp cùng các ban ngành, đoàn thể chính quyền địa phương, các tổ

chức đoàn hội trên địa bàn tuyên truyền nội dung phù hợp với từng đối tượng
21


cụ thể theo kế hoạch. Ngoài việc cung cấp toàn văn các văn bản quy phạm
pháp luật, nội dung tuyên truyền có thể tồn tại dưới dạng các câu hỏi đáp, tình
huống. Các kênh tiếp cận thông tin có thể tồn tại đa dạng, dưới hình thức
động: thông qua việc truyền đạt của cán bộ chuyên trách, các cuộc thi tìm
hiểu pháp luật, hoặc thông tin tĩnh: tồn tại chính thống tại các cổng thông tin
điện tử trên mạng internet. Hỗ trợ cho việc này, việc hiện đại hóa các cổng
thông tin điện tử của Chính phủ và Tòa án nhân dân rất cần thiết nhằm quy
hoạch đầy đủ hệ thống văn bản pháp luật, tình huống khiếu kiện để người dân
có thể tự tra cứu, làm rõ các vấn đề vướng mắc liên quan tới quyền lợi phát
sinh tranh chấp.
TIỂU KẾT CHƢƠNG 3
Từ những phân tích về thực trạng xét xử vụ án hành chính của Tòa án
nhân dân thành phố Hà Nội, có thể thấy hoạt động tố tụng hành chính đã đạt
được những thành tích đáng kể giúp đảm bảo quyền tự do, dân chủ của người
dân trong hoạt động quản lý của các cơ quan hành chính nhà nước. Tuy nhiên
thực tế cũng cho thấy hoạt động này còn tồn tại nhiều thiếu sót, hạn chế. Vấn
đề đầu tiên được đưa ra nhằm hoàn thiện hoạt động xét xử vụ án hành chính
là đảm bảo sự độc lập của Tòa án, khắc phục thực trạng bị tác động ràng buộc
bởi cơ qua dân cử tổ chức theo chính quyền địa phương thành cần thiết cải
cách, tổ chức Tòa án theo các cấp xét xử. Thứ hai, pháp luật tố tụng hành
chính cần có sự làm rõ hơn các vấn đề chuyên sâu như xác định đối tượng
khởi kiện, thời hiệu khởi kiện, cơ chế thi hành án. Thứ ba, để đáp ứng nhu
cầu hiện đại hóa nền tư pháp, xét xử vụ án hành chính cũng cần được thống
nhất với các định hướng cải cách tư pháp theo các Nghị quyết 48/NQ-TW,
49/NQ-TW về đảm bảo các nguyên tắc xét xử, hiện đại hóa cơ cấu tổ chức,
tinh lọc và nâng cao chất lượng đội ngũ nhân sự. Thứ tư, công tác tuyên

truyền, phổ biến pháp luật tố tụng hành chính là một yếu tố không kém phần
quan trọng giúp mỗi cá nhân, tổ chức chủ động bảo vệ các quyền và lợi ích
hợp pháp của mình. Trong thời gian tới, vai trò, vị trí của tài phán hành chính
mà trung tâm là hoạt động xét xử án hành chính sẽ ngày càng được nâng cao,
xét xử vụ án hành chính sẽ góp phần không nhỏ vào giải quyết các tranh chấp
phát sinh trong lĩnh vực quản lý hành chính nhà nước giữa công dân với cơ
22


×