KHÁI QUÁT VỀ ĐẦU TƯ ĐỔI MỚI CÔNG NGHỆ
I. KHÁI NIỆM VÀ PHÂN LOẠI ĐẦU TƯ
1. Khái niệm đầu tư
Xuất phát từ phạm vi phát huy tác dụng của các kết quả đầu tư chúng ta
có thể có những cách hiểu khác nhau về đầu tư (còn gọi là hoạt động đầu tư ).
Đầu tư theo nghĩa rộng, nói chung, là sự hy sinh các nguồn lực ở hiện
tại để tiến hành các hoạt động nào đó nhằm thu về cho người đầu tư các kết
quả nhất định trong tương lai lớn hơn các nguồn lực đã bỏ ra để đạt được các
kết quả đó. Nguồn lực đó có thể là tiền, là tài nguyên thiên nhiên, là sức lao
động và trí tuệ
1
.
Những kết quả đó có thể là sự tăng thêm các tài sản tài chính (tiền vốn),
tài sản vật chất (nhà máy, đường xá, các của cải vật chất khác...), tài sản trí tuệ
(trình độ văn hoá, chuyên môn, khoa học kỹ thuật...) và nguồn nhân lực có đủ
điều kiện để làm việc với năng suất lao động cao hơn trong nền sản xuất xã hội.
Trong các kết quả đã đạt được trên đây những kết quả là tài sản vật chất,
tài sản trí tuệ và nguồn nhân lực tăng thêm có vai trò quan trọng trong mọi lúc,
mọi nơi, không chỉ đối với người bỏ vốn mà còn đối với cả nền kinh tế. Những
kết quả này không chỉ nhà đầu tư mà cả nền kinh tế được thụ hưởng.
Theo nghĩa hẹp, đầu tư chỉ bao gồm những hoạt động sử dụng các nguồn
lực hiện tại nhằm đem lại cho nền kinh tế-xã hội những kết quả trong tương lai
lớn hơn các nguồn lực đã sử dụng để đạt được các kết quả đó.
Như vậy nếu xem xét trong phạm vi quốc gia thì chỉ có hoạt động sử
dụng các hoạt động của các tài sản và nguồn nhân lực sẵn có thuộc phạm trù
đầu tư phát triển.
Từ đây ta có thể định nghĩa về đầu tư phát triển như sau: Đầu tư phát
triển là hoạt động sử dụng các nguồn lực tài chính, nguồn lực vật chất, nguồn
lực lao động và trí tuệ để xây dựng, sửa chữa nhà cửa và cấu trúc hạ tầng, mua
sắm trang thiết bị và lắp đặt chúng trên nền bệ, bồi dưỡng đào tạo nguồn nhân
1
1
. PGS.TS. Nguyễn Bạch Nguyệt (2004), giáo trình kinh tế đầu tư, NXB Thống Kê
lực, thực hiện chi phí thường xuyên gắn liền với sự hoạt động của các tài sản
này nhằm duy trì tiềm lực hoạt động của các cơ sở đang tồn tại và tạo tiềm lực
mới cho nền kinh tế xã hội, tạo việc làm và nâng cao đời sống của mọi thành
viên trong xã hội.
2. Phân loại các hoạt động đầu tư
Trong công tác quản lý và kế hoạch hoạt động đầu tư các nhà kinh tế
phân loại hoạt động đầu tư theo các tiêu thức khác nhau. Những tiêu thức phân
loại đầu tư thường được sử dụng là:
- Theo bản chất của đối tượng đầu tư, hoạt động đầu tư bao gồm đầu tư
cho các đối tượng vật chất (đầu tư tài sản vật chất hoặc tài sản thực như nhà
xưởng,máy móc, thiết bị...) cho các đối tượng tài chính như mua cổ phiếu, trái
phiếu và các chứng khoán khác...) và đầu tư cho các hoạt động phi vật chất (đầu
tư tài sản trí tuệ và nguồn nhân lực như đào tạo, nghiên cứu khoa học, y tế...).
Trong các loại đầu tư trên đây, đầu tư đối tượng vật chất là điều kiện tiên
quyết, cơ bản làm tăng tiềm lực của nền kinh tế, đầu tư tài chính là điều kiện
quan trọng để thu hút mọi nguồn vốn từ mọi tầng lớp dân cư cho đầu tư đối
tượng vật chất, còn đầu tư tài sản trí tuệ và nguồn nhân lực là điều kiện tất yếu
để đảm bảo cho đầu tư các đối tượng vật chất tiến hành thuận lợi và đạt hiệu
quả kinh tế- xã hội cao.
- Theo lĩnh vực hoạt động trong xã hội của các kết quả đầu tư có thể
phân chia các hoạt động đầu tư thành đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, đầu
tư phát triển khoa học kỹ thuật, đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng (kỹ thuật và xã
hội). Các hoạt động đầu tư này có quan hệ tương hỗ với nhau. Chẳng hạn đầu tư
phát triển khoa học kỹ thuật và cơ sỏ hạ tầng tạo điều kiện cho đầu tư phát triển
kinh doanh đến lượt mình lại tạo tiềm lực cho đầu tư phát triển khoa học kỹ
thuật, cơ sở hạ tầng và các hoạt động đầu tư khác.
- Theo quan hệ quản lý của chủ đầu tư, hoạt động đầu tư có thể chia
thành đầu tư gián tiếp và đầu tư trực tiếp.
+ Đầu tư trực tiếp: trong đó người bỏ vốn trực tiếp tham gia quản ký điều
hành quá trình thực hiện và vận hành kết qủa đầu tư đầu tư trực tiếp lại được
phân cha thành 2 loại: Đầu tư dịch chuyển và đầu tư phát triển.
Đầu tư dịch chuyển là loại đầu tư trong đó người có tiền mua lại một số
cổ phần lớn để nắm quyền chi phối hoạt động của doanh nghiêp. Trong trường
hợp này, việc đầu tư không làm gia tăng tài sản của doanh nghiệp, mà chỉ thay
đổi quyền sử hữu các cổ phần của doanh ngiệp.
Đầu tư phát triển là loại bỏ vốn đầu tư để tạo nên những năng lực sản
xuất phục vụ mới (cả về lượng và chất). Đây là loại đầu tư để tái sản xuất mở
rộng, là biện pháp chủ yếu để cung cấp việc làm cho người lao động, là tiền đề
để thực hiện đầu tư tài chính và đầu tư chuyển dịch.
+ Đầu tư gián tiếp: Trong đó người bỏ vốn đang trực tiếp tham gia điều
hành quá trình thực hiện và phân hành các kết quả đầu tư. Đó là việc các chính
phủ thông qua các chương trình tài trợ không hoàn lại, có hoàn lại với lãi suất
thấp cho các chính phủ của các nước khác và để phát triển kinh tế -xã hội; là
việc các cá nhân, các tổ chức mua các chứng chỉ có giá như cổ phiếu, trái
phiếu...để được hưởng tức lợi (gọi là đầu tư tài chính).
Chính sự điều tiết của bản thân thị trường và các chíng sách khuyến khích
đầu tư theo định hướng của nhà nước, từ đó tạo nên một cơ cấu hợp lý, có nghĩa
là người có vốn sẽ không chỉ đầu tư cho lĩnh vực thương mại mà cả cho lĩnh
vực sản xuất, không chỉ đầu tư tài chính, đầu tư chuyển dịch mà cả đầu tư phát
triển.
3. Vai trò của đầu tư với việc tăng cường khả năng khoa học và công nghệ
của đất nước.
Công nghệ là trung tâm của công nghiệp hoá. Đầu tư là điều kiện tiên
quyết của sự phát triển và tăng cường khẳ năng công nghệ của nước ta hiện nay.
Theo đánh giá của các chuyên gia công nghệ, trình độ Việt Nam lạc hậu nhiều
thế hệ so với thế giới và khu vực. Theo VNIDO, nếu chia quá trình phát triển
công nghệ trên thế giới làm 7 giai đoạn thì Việt Nam hiện ở vào giai đoạn 2.
Viêt Nam đang là một trong 90 nước kém nhất về công nghệ. Với trình độ công
nghệ lạc hậu này, quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam sẽ gặp rất
nhiều khó khăn nếu không đề ra được một chiến lược đầu tư phát triển công
nghệ nhanh và vững chắc.
Chúng ta đều biết rằng có hai con đường cơ bản để có công nghệ là tự
nghiên cứu và phát minh ra công nghệ và nhập công nghệ từ nước ngoài. Dù là
nghiên cứu hay nhập từ nước ngoài cần phải có tiền, cần phải có vốn đầu tư mọi
phương án đổi mới công nghệ không gắn với nguồn vốn đầu tư sẽ là những
phương án không khả thi.
II. CÔNG NGHỆ VÀ VAI TRÒ CỦA CÔNG NGHỆ TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ.
1. Khái niệm và phân loại công nghệ
1.1. Khái niệm công nghệ và các yếu tố cấu thành công nghệ
Công nghệ là một yếu tố tạo ra quá trình sản xuất hàng hoá và cung cấp
dịch vụ. Nó liên kết các yếu tố khấc của quá trình sản xuất kinh doanh theo một
lô gíc về mặt kỹ thuật. Thiếu yếu tố này, không thể có bất kỳ quá trình sản xuất-
kinh doanh nào. Ngay trong các quá trình cung cấp dịch vụ thuộc các lĩnh vực
phi vật chất, thậm chí trong các hoat động công cộng, người ta cũng nói tới
công nghệ, công nghệ triển khai, cung cấp dịch vụ và tiến hành các hoạt động.
Công nghệ được định nghĩa theo nhiều cách khác nhau, những cách tiếp
cận khác nhau. Theo nghĩa hẹp ban đầu, công nghệ chỉ được dùng trong sản
xuất và được hiểu là "phương pháp công nghệ", tức là những phương pháp sản
xuất sản phẩm, được mô tả qua những quy trình được hình thành dưới những
hình thức bản vẽ, sơ đồ, bảng, biểu. Một khái niệm khác cũng được dùng trong
mối quan hệ với công nghệ là khái niệm kỹ thuật-bao gồm toàn bộ các phương
tiện kỹ thuật. Về sau, khái niệm công nghệ đã được sử dụng trong cả lĩnh vực
cung cấp hàng hoá, dịch vụ và gần đây trong cả quản lý.
Cùng với sự phát triển của quá trình chuyển giao công nghệ, khái niệm
công nghệ đã được mở rộng: công nghệ là tập hợp tất cả các phương pháp sản
xuất, cung cấp dịch vụ cũng như những phương tiện kỹ thuật cần thiết để thực
hiện phương pháp đó. Công nghệ không chỉ bị giới hạn trong quá trình sản xuất,
mà bao gồm cả những hoạt động nằm ngoài quá trình sản xuất trực tiếp( trong
các quá trình chuẩn bị sản xuất và trong phân phối, lưu thông hàng hoá...). Với
định nghĩa này, cả hai khái niệm “công nghệ” và “kỹ thuật” theo nghĩa hẹp đã
được liên kết lại với nhau. Người ta xem phương pháp và quy trình công nghệ là
yếu tố "phần mềm" của công nghệ còn thiết bị, máy móc và công cụ sản xuất là
"phần cứng" của công nghệ.
Tiếp đó sau thập kỷ 90, khái niệm công nghệ được mở rộng hơn. Nó được
định nhĩa như tổng thể của các phương pháp, quy trình, máy móc, thiết bị cần
dùng để sản xuất sản phẩm và cung cấp dịch vụ, các hiểu biết, kỹ năng, thông
tin cũng như phương thức tổ chức mà con người cần áp dụng để sử dụng những
phương pháp, phương tiện đó. Theo định nghĩa này, công nghệ được chia thành
4 yếu tố: phần cứng (các phương tiện kỹ thuật như máy móc, thiết bị, công cụ
sản xuất...); phần mềm (các phương pháp, quy trình sản xuất và cung cấp sản
phẩm-dịch vụ); phần tổ chức (kết cấu hệ thống sản xuất và quản lý sản xuất, cơ
chế vận hành của hệ thống đó); và phần con người (kể cả các kỹ năng, kỹ xảo,
kiến thức thông tin mà người lao động và các cán bộ quản lý các cấp cần có để
sử dụng được công nghệ).
Công nghệ là một khái niệm rộng, thay đổi cùng với sự phát triển của
khoa học công nghệ, điều kiện kinh doanh và yêu cầu của quản lý. Hiện nó đã
bao hàm một nội dung rất rộng và sau này có thể tiếp tục được mở rộng.
Công nghệ, với thuật ngữ quốc tế "technology", được coi là phương tiện,
công cụ để biến đổi giới tự nhiên thành thế giới do con người tạo ra; là tác nhân
chủ chốt trong quá trình biến đổi các tài nguyên thiên nhiên thành các hàng hoá,
dịch vụ.
Theo từ điển bách Khoa Việt Nam phát hành 1999 đã tập hợp 5 khái niệm
được coi là tiêu biểu về công nghệ như sau:
1, Công nghệ là môn khoa học ứng dụng, nhằm vận dụng các quy luật tự
nhiên và nguyên lý khoa học, đáp ứng nhu cầu vật chất và tinh thần của con
người.
2, Công nghệ là phương tiện kỹ thuật, là sự thể hiện vật chất hoá các tri
thức ứng dụng khoa học.
3, Công nghệ là tập hợp các cách thức, các phương pháp dựa trên cơ sở
khoa học và được sử dụng vào sản xuất trong các ngành sản xuất khác nhau để
tạo ra các sản phẩm vật chất hay dịch vụ.
4, Công nghệ bao gồm nhiều yếu tố hợp thành như phương tiện, máy
móc, thiết bị, các quá trình vận hành, các phương pháp tổ chức, quản lý đảm
bảo cho quá trình sản xuất và dịch vụ xã hội.
5, Xét riêng về mặt kinh tế, trong quan hệ với sản xuất, công nghệ được
coi là phương tiện để thực hiện quá trình sản xuất, biến đổi các "đầu vào" để các
"đầu ra" cho các sản phẩm và dịch vụ mong muốn.
Trong đề tài này công nghệ được hiểu theo nghĩa là sản phẩm trí tuệ, là
tập hợp những bí quyết, phương pháp, kỹ năng, quy trình, được thể hiện dưới
hai dạng cụ thể là những tri thức hay sáng kiến, sáng tạo được thể hiện trong
một sản phẩm. Còn công nghệ về quy trình sản xuất là những bí quyết gắn với
quy trình sản xuất ra sản phẩm nói chung
2
.
1.2. Phân loại công nghệ
Việc phân loại công nghệ là rất cần thiết để có thể quản lý, phát triển,
hoàn thiện chúng. Trình độ phát triển kỹ thuật và công nghệ ngày càng cao,
càng có nhiều công nghệ được đưa vào khai thác và sử dụng. Thì nhu cầu phân
loại công nghệ càng trở nên quan trọng, khó khăn và phức tạp. Việc phân loại
công nghệ có thể nhằm những mục tiêu rất khác nhau. Tuy nhiên điều quan
trọng hơn cả là cần phân loại công nghệ để có một cái nhìn bao quát, tổng hợp
về công nghệ đang tồn tại chưa được quan tâm nghiên cứu đúng mức. Phần lớn
2
2
. Nguồn: tổng quan công nghệ cao, Tổng luận khoa học công nghệ kinh tế, Bộ Khoa học công nghệ v môi à
trường, số 1-2003
các nhà nghiên cứu và quản lý công nghệ đều xem đây như một trong những
điểm yếu trong quản lý công nghệ.
Công nghệ có thể được phân loại theo những tiêu thức khác nhau, tuy
nhiên, dù theo tiêu thức nào thì mỗi cách phân loại cũng chỉ đề cập đến một
hoặc một số khía cạnh, phục vụ mục tiêu quản lý có tính chức năng riêng biệt.
Bởi vậy, khi nghiên cứu, quản lý, phát triển công nghệ và năng lực công nghệ,
cần chú ý tới cách phân chia toàn diện và phối hợp đúng với nhau. Chúng ta
phân loại công nghệ dựa theo các căn cứ sau:
- Căn cứ vào tính chất của công nghệ hoặc lĩnh vực khoa học công nghệ
dựa vào đó để thiết kế. Theo đó, công nghệ được chia thành các nhóm ứng với
các lĩnh vực khoa học tự nhiên hoặc khoa học xã hội làm nền tảng cho nó.
Ví dụ, người ta phân biệt các công nghệ sinh học, công nghệ cơ khí, công
nghệ tin học, công nghệ hoá học... Việc phân chia này có ý nghĩa thực tiễn ở
chỗ: Nếu muốn phát triển những công nghệ thuộc nhóm nào thì cần phát triển
các ngành khoa học tương ứng.
- Căn cứ vào sản phẩm, dịch vụ chủ yếu,đặc trưng sản xuất nhờ công
nghệ được xếp loại. Theo đó, các công nghệ được xếp thành từng nhóm phục
vụ cho việc sản xuất hoàn chỉnh những sản phẩm hoặc cung cấp các dịch vụ. Ví
dụ, người ta phân loại các công nghệ sản xuất ô tô, công nghệ luyện kim, công
nghệ truyền thanh, công nghệ quản lý... Hiện nay người ta đang sử dụng cách
phân loại này khá nhiều để so sánh mức độ đầu tư cho các công nghệ thuộc các
ngành hàng. Nó cũng có ý nghĩa đối với các nhà nghiên cứu, thiết kế công nghệ
bởi theo cách phân chia này, có thể dễ dàng hình dung ra địa chỉ ứng dụng công
nghệ.
- Căn cứ vào quá trình tạo ra công nghệ. Theo cách này, các công nghệ
được phân chia thành công nghệ do các tổ chức có nhu cầu về công nghệ mới tự
thiết kế và công nghệ được chuyển giao. Đây thường là cách phân chia được áp
dụng công nghệ cụ thể phục vụ cho việc quản lý công nghệ và đánh giá năng
lực công nghệ của doanh nghiệp.
- Căn cứ vào trình độ của các công nghệ trong tương quan với công
nghệ cùng loại và có tính "mới" của nó. Căn cứ này, các công nghệ trên cùng
một lĩnh vực được phân chia theo các "thế hệ" khác nhau. Thế hệ thứ nhất được
xem như thế hệ ban đầu. Những công nghệ thuộc thế hệ này là những công nghệ
xuất hiện đầu tiên trên lĩnh vực công nghệ được nghiên cứu, phân loại. Do mỗi
lĩnh vực có thể có sự tiến bộ khác nhau mà có những lĩnh vực, công nghệ mới
nhất đã được xếp vào thế hệ thứ 5, thứ 6 (trong khi trên lĩnh vực khác, công
nghệ mới nhất mới chỉ là thế hệ thứ 5). Những tiến bộ nhờ cải tiến dần dần công
nghệ đang được sử dụng có thể dẫn tới sự hình thành công nghệ thuộc thế hệ
mới. Mỗi "thế hệ" công nghệ thường có những đặc trưng nhất định, trong đó có
những nét mới, tiến bộ hơn về chất so với thế hệ trước nó. Thậm chí công nghệ
thế hệ mới trong mỗi lĩnh vực nhất định có thể khác hẳn về nguyên lý so với
những công nghệ cùng loại trước đó.
Những cách phân loại công nghệ trên đây thường được kết hợp với nhau,
cho phép người ta sắp xếp các công nghệ thành một hệ thống có sự phối hợp và
xem xét nhiều chiều. Nhờ đó, mỗi công nghệ có thể được xem xét một cách
toàn diện và khái quát. Nó giúp việc nghiên cứu, quản lý công nghệ tránh được
sự phiến diện cả tầm vĩ mô và tầm vi mô. Điều này cũng giúp cho các nhà
hoạch định chính sách và quản lý khắc phục tình trạng bỏ qua những lĩnh vực
công nghệ mà ngay tại thời điểm nghiên cứu, phân tích, đánh giá và hoạch định
chính sách chưa được sử dụng nhiều hoặc chưa phát huy được tác dụng của nó
như mong muốn.
2. Vai trò của công nghệ trong sự phát triển kinh tế xã hội
2.1. Vai trò và vị trí của công nghệ trong sản xuất kinh doanh
Đối với sản xuất kinh doanh trong sản xuất doanh nghiệp, công nghệ có
những vai trò sau đây:
- Công nghệ là một yếu tố cấu thành cơ sở vật chất, tạo nên điều kiện tồn
tại và phát triển của doanh nghiệp. Đặc biệt, công nghệ ảnh hưởng trực tiếp và
quyết định tới khả năng sản xuất sản phẩm ngày càng đa dạng, phong phú để
thoả mãn những nhu cầu phát triển của xã hội. Không có sự phát triển của công
nghệ, đặc biệt là những công nghệ mới, công nghệ có hàm lượng chất xám cao,
không thể đa dạng hoá sản xuất và cung cấp cho thị trường nhiều sản phẩmcó
ảnh hưởng quyết định tới nền sản xuất và đời sống xã hội hiện đại. Nhiều sản
sản phẩm mới chỉ có thể được sản xuất nhờ tiến bộ công nghệ và đổi mới công
nghệ, đặc biệt là những công nghệ cao. Hơn nữa, trong nhiều trường hợp, những
điều kiện sản xuất mới đòi hỏi phải có những công nghệ phù hợp.
- Công nghệ là nhân tố ảnh hưởng trực tiếp tới năng lực cạnh tranh của
doanh nghiệp. Tác động này thể hiện trước tiên ở chỗ nhờ công nghệ và tiến bộ
công nghệ mà chất lượng sản phẩm được duy trì và nâng cao, chi phí được tiết
kiệm một cách tương đối để giá thành sản phẩm được giảm bớt, sản phẩm mới
có tính năng, công dụng tốt hơn có thể được thiết kế và đưa vào sản xuất, tiêu
dùng. Hơn nữa, trong điều kiện hiện nay, công nghệ đã dần trở thành một "yếu
tố sản xuất trực tiếp". Chính vì vậy, các doanh nghiệp đều cố gắng đầu tư với
quy mô ngày càng tăng vào công nghệ để tạo ra sự phát triển nhanh chóng của
công nghệ, việc đổi mới công nghệ chậm hơn các đối thủ cạnh tranh chính là
nguyên nhân tụt hậu của doanh nghiệp.
- Công nghệ tác động mạnh mẽ tới việc tạo lập một hình ảnh cho doanh
nghiệp. Những công nghệ đổi mới công nhệ và sản phẩm một cách nhanh
chóng, liên tục có thể tạo được sự tin tưởng của khách hàng. Nhờ vậy họ dễ tạo
lập, củng cố uy tín cho mình và từ đó tạo lập một hình ảnh thuận lợi trong cạnh
tranh. Điều này cũng bắt nguồn từ chỗ người tiêu dùng và khách hàng đòi hỏi
về việc đáp ứng nhu cầu mới của họ, đáp ứng tốt hơn, đáng tin cậy hơn những
nhu cầu vốn có của họ trong những điều kiện có nhiều thay đổi
- Công nghệ là nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả sản xuất kinh doanh của
mỗi doanh nghiệp. Điều này có thể thực hiện được nhờ vào việc áp dụng các
công nghệ mới hoặc cải tiến các công nghệ truyền thống, cho phép sử dụng tiét
kiệm nguồn lực cho sản xuất, sử dụng nguyên vật liệu rẻ tiền, dễ kiếm thay thế
cho các loại vật tư quý hiếm hoặc sử dụng những phương pháp và phương tiện
có năng suất cao hơn, ổn định hơn. Theo quan điểm phát triển kinh tế theo chiều
sâu được thể hiện qua hàm sản xuất Cobb-Douglas:
Y = T. L
α
. K
β
.R
δ
Trong đó: Y-kết quả đầu ra của hoạt động kinh tế (GDP)
Hàm sản xuất này cần phân biệt rõ hai loại yếu tố tác động đến
tăng trưởng kinh tế: thứ nhất, những yếu tố tác động trực tiếp đến tăng trưởng
kinh tế, bao gồm lao động, vốn sản xuất và tài nguyên. Thứ hai: yếu tố góp phần
nâng cao hiệu quả sử dụng các yếu tố trên, đó là khoa học-công nghệ. Vì yếu tố
này không xác định được sự đóng góp trực tiếp nên có thể đánh giá bằng cách:
t = g - (αl + βk + δ.r)
Trong đó: g-tốc độ tăng trưởng kinh tế
l,k,r-tốc độ tăng trưởng lao động, vốn, tài nguyên
t-tác động của khoa học-công nghệ và tăng trưởng kinh tế
Như vậy tiến bộ khoa học -công nghệ và việc ứng dụng chúng vào sản xuất
không chỉ làm tăng năng suất, tăng hiệu quả theo cấp số cộng mà là cấp số nhân.
2.2. Vai trò của công nghệ và tiến bộ công nghệ trong việc tạo lập môi trường
kinh doanh
Đối với việc tạo lập môi trường kinh doanh, công nghệ và tiến bộ công
nghệ vừa có vai trò, ảnh hưởng trực tiếp, vừa có ảnh hưởng gián tiếp. Vai trò
này thể hiện trên các mặt sau:
- Công nghệ cho phép mở rộng và nâng cấp hệ thống cơ sở vật chất-kỹ
thuật cũng như cơ sở hạ tầng xã hội. Hệ thống này là những điều kiện không thể
thiếu cho các hoạt động chung của cộng đồng. Việc mở rộng và nâng cấp chúng
sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho sản xuất kinh doanh cũng như cho toàn xã hội nói
chung.
- Công nghệ cho phép khai thác được những lợi thế, những loại tài
nguyên mà trước đó chưa thể khai thác được. Điều này có ý nghĩa đặc biệt quan
trọng đối với các loại tài nguyên có trữ lượng nhỏ, có điều bất lợi cho việc thăm
dò, khai thác hoặc chế biến. Chẳng hạn, với những công nghệ và phương tiện kỹ