Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

Nghiên cứu, đề xuất giải pháp quản lý, sử dụng đất rừng dựa và cộng đồng trên địa bàn tỉnh hoà bình (tt)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.01 MB, 27 trang )

HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM

PHẠM THANH QUẾ

NGHIÊN CỨU, ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP QUẢN LÝ,
SỬ DỤNG ĐẤT RỪNG DỰA VÀO CỘNG ĐỒNG
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH HOÀ BÌNH

Ngành: Quản lý đất đai
Mã số: 9 85 01 03

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ

NHÀ XUẤT BẢN HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP - 2020


Công trình được hoàn thành tại:
HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM

Người hướng dẫn khoa học:

1. TS. Phạm Phương Nam
2. TS. Nguyễn Nghĩa Biên

Phản biện 1: PGS.TS. Trần Quốc Vinh
Học viện Nông nghiệp Việt Nam
Phản biện 2: PGS.TS. Nguyễn Bá Ngãi
Hội chủ rừng Việt Nam
Phản biện 3: TS. Mai Văn Phấn
Tổng cục Quản lý đất đai


Luận án sẽ được bảo vệ trước hội đồng đánh giá luận án cấp Học viện, họp tại:
Học viện Nông nghiệp Việt Nam
Vào hồi ….. ngày….tháng….năm 20…

Có thể tìm hiểu Luận án tại thư viện:
-

Thư viện Quốc gia

-

Thư viện Học viện Nông nghiệp Việt Nam

1


PHẦN 1. MỞ ĐẦU
1.1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng đã hình thành và tồn tại ở nhiều nước
trên thế giới, nhất là tại các nước đang phát triển (FAO, 2015; Gilmour, 2016). Ở Việt Nam
do đặc thù về địa hình, về dân tộc và các thành phần kinh tế nên hình thức quản lý, sử dụng
đất rừng dựa vào cộng đồng là rất phù hợp, đem lại một số lợi ích nhất định cho các cộng
đồng dân tộc thiểu số sống dựa vào rừng. Tuy nhiên, các nghiên cứu còn mang tính định
tính, chưa định lượng được các yếu tố ảnh hưởng do vậy gây khó khăn cho công tác quản lý,
sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng.
Hoà Bình là một tỉnh nằm ở cửa ngõ của vùng Tây Bắc. Trên địa bàn tỉnh Hoà Bình có
nhiều dân tộc cùng sinh sống (Mường, Kinh, Thái, Tày, Dao, H’mông…) nên việc quản lý, sử
dụng đất rừng ở Hoà Bình từ trước đến nay dựa chủ yếu vào cộng đồng. Tỉnh Hoà Bình đã
thực hiện việc giao đất, giao rừng cho các chủ sử dụng đất. Tuy nhiên, thực tế triển khai cho
thấy nhiều vấn đề tồn tại trong quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng tại Hòa Bình. Các

quy định của nhà nước trong công tác quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào các cộng đồng địa
phương chưa được cụ thể, chủ yếu vận dụng những quy định chung nên nảy sinh mâu thuẫn
trong quá trình quản lý, sử dụng đất rừng. Các cộng đồng dân tộc thiểu số sống dựa vào rừng
tỷ lệ hộ nghèo vẫn cao, sống phụ thuộc vào gây áp lực lớn lên tài nguyên rừng. Đa phần diện
tích đất rừng giao cho cộng đồng đều là rừng tự nhiên nghèo kiệt, xa cộng đồng, địa hình khó
khăn, hiểm trở, hạ tầng yếu kém gây lên sự khó khăn lớn cho việc quản lý, sử dụng đất.
1.2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
- Đánh giá thực trạng và kết quả công tác quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng
đồng trên địa bàn tỉnh Hòa Bình;
- Xác định một số yếu tố ảnh hưởng và mức độ ảnh hưởng của các yếu tố đến công
tác quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng tại tỉnh Hoà Bình;
- Đánh giá những điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và thách thức từ đó đề xuất một số
giải pháp hoàn thiện công tác quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng trên địa bàn
tỉnh Hòa Bình.
1.3. PHẠM VI NGHIÊN CỨU
- Phạm vi về nội dung:
+ Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu diện tích đất rừng được giao cho các cộng đồng quản
lý, sử dụng (là đất rừng phòng hộ) trên địa bàn tỉnh Hoà Bình.
+ Nghiên cứu thực trạng, một số yếu tố ảnh hưởng đến công tác quản lý, sử dụng đất
rừng dựa vào cộng đồng và đề xuất giải pháp hoàn thiện công tác quản lý, sử dụng đất rừng
dựa vào cộng đồng trên địa bàn tỉnh Hòa Bình.
- Phạm vi về không gian: Đề tài thực hiện trên địa bàn tỉnh Hòa Bình, trong đó tập trung
nghiên cứu điểm tại 5 cộng đồng đại diện được giao đất rừng. Đây là những cộng đồng người
Việt Nam sinh sống trong cùng một thôn, làng, bản… có cùng phong tục tập quán, chung một
dân tộc được Nhà nước giao đất, bao gồm: 01 thôn/bản dân tộc Tày là bản Nhạc (xã Đồng Chum,
huyện Đà Bắc); 03 thôn/bản dân tộc Mường là thôn Đúc (xã Nam Phong, huyện Cao Phong);
thôn Củ (xã Tú Sơn, huyện Kim Bôi); thôn Thung 2 (xã Quý Hoà, huyện Lạc Sơn) và 01

1



thôn/bản dân tộc Dao là xóm (thôn) Suối Bến (xã Tiến Sơn, huyện Lương Sơn).
1.4. NHỮNG ĐÓNG GÓP MỚI CỦA ĐỀ TÀI
Nghiên cứu đã xác định được 29 yếu tố thuộc 4 nhóm yếu tố có ảnh hưởng đến công
tác quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng trên định bàn tỉnh Hòa Bình theo mức độ
như sau: Nhóm yếu tố những quy định của pháp luật có ảnh hưởng lớn nhất (33,44%); sau
đó đến nhóm yếu tố tự nhiên, cơ sở hạ tầng (32,27%), tiếp đến là nhóm yếu tố xã hội
(25,13%) và nhóm yếu tố điều kiện kinh tế (9,16%) có ảnh hưởng ít nhất.
1.5. Ý NGHĨA KHOA HỌC CỦA ĐỀ TÀI
1.5.1. Ý nghĩa khoa học
Luận án đã hệ thống hóa và bổ sung, hoàn thiện cơ sở lý luận về quản lý, sử dụng đất
rừng dựa vào cộng đồng. Xác định và đánh giá được mức độ các nhóm yếu tố ảnh hưởng
đến hiệu quả quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng, trong đó nhóm yếu tố quy định
của pháp luật có ảnh hưởng lớn nhất.
1.5.2. Ý nghĩa thực tiễn
- Luận án đã chỉ ra những khó khăn, vướng mắc và nguyên nhân trong quản lý, sử dụng
đất rừng dựa vào cộng đồng và đề xuất các giải pháp khắc phục để quản lý, sử dụng đất rừng
dựa vào cộng đồng trên địa bàn tỉnh Hòa Bình được hoàn thiện hơn;
- Kết quả nghiên cứu của luận án có thể được dùng làm tài liệu tham khảo cho những
nhà khoa học, nhà quản lý, người học và những người khác quan tâm đến công tác quản lý,
sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng trên địa bàn tỉnh Hòa Bình. Đặc biệt, các giải pháp được
đề xuất trong luận án có thể để các địa phương khác trên cả nước tham khảo, áp dụng nhằm
giải quyết những tồn tại, hạn chế trong công tác quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng
đồng phù hợp với điều kiện thực tế của địa phương.
PHẦN 2. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ, SỬ DỤNG ĐẤT RỪNG DỰA VÀO CỘNG ĐỒNG

2.1.1. Quản lý, sử dụng đất rừng
2.1.1.1. Quản lý đất rừng
Ở Việt Nam, đất rừng là đất có rừng và đất không có rừng hoặc đất trống, đồi núi trọc được

quy hoạch cho mục tiêu phát triển lâm nghiệp, bao gồm: đất rừng sản xuất, đất rừng phòng hộ
và đất rừng đặc dụng theo quy định của Luật Đất đai 2013 (Quốc hội, 2013). Quản lý đất rừng
thuộc nội dung quản lý nhà nước về đất đai. Nhà nước là chủ thể duy nhất quản lý xã hội toàn
dân, toàn diện bằng pháp luật. Việc quản lý đất rừng được thực hiện theo nguyên tắc của việc
quản lý nhà nước về đất đai. Sử dụng các công cụ: Công cụ pháp luật; công cụ quy hoạch, kế
hoạch sử dụng đất; công cụ tài chính.
2.1.1.2. Sử dụng đất rừng
Việc sử dụng đất đã phát triển cả không gian bên trên và bên dưới mặt đất, phạm vi sử
dụng đất đã mở rộng cả 3 chiều. Sử dụng đất được đặc trưng bởi sự sắp xếp, hoạt động và đầu
vào của người dân để sản xuất, thay đổi hoặc duy trì một loại sử dụng đất nhất định (FAO/UNEP,
1999). Như vậy, sử dụng đất, trong đó có sử dụng đất rừng, là một hệ thống các biện pháp tác
động vào đất nhằm điều hòa mối quan hệ giữa con người với đất đai trong tổng hòa các mối

2


quan hệ với các nguồn tài nguyên thiên nhiên, môi trường và các nguồn lực khác của xã hội
nhằm tạo được hiệu quả mong muốn (Tô Xuân Phúc & Trần Hữu Nghị, 2014).
2.1.1.3. Mối quan hệ giữa quản lý với sử dụng đất rừng
Quản lý, sử dụng đất đai nói chung và quản lý, sử dụng đất rừng nói riêng là một cụm từ
chỉ hai mặt của một vấn đề quản lý khai thác nguồn lực đất đai trong hoạt động kinh tế - xã hội.
Nó luôn đi liền với nhau, gắn kết với nhau, không thể tách rời kể cả trong lý luận cũng như hoạt
động thực tiễn. Việc quản lý rừng được tổ chức theo điều 24, Luật Lâm nghiệp Nhà nước giao
rừng, cho thuê rừng, tổ chức quản lý, bảo vệ rừng, bảo đảm các diện tích rừng có chủ. Người sử
dụng đất (chủ rừng) phải thực hiện việc quản lý rừng bền vững; có trách nhiệm quản lý, bảo vệ,
phát triển, sử dụng rừng theo quy chế quản lý rừng (Quốc hội, 2017).
2.1.2. Quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng
“Cộng đồng” có thể được hiểu là những nhóm xã hội cùng chia sẻ một môi trường,
trong một phạm vi địa lý; nơi họ cùng nhau nỗ lực, chung niềm tin, chung nguồn tài nguyên
cùng có nhu cầu và chịu cùng rủi ro cũng như những điều kiện chung khác tác động đến cuộc

sống của họ (Hoàng Thị Thanh Nhàn & Nguyễn Thị Hồng Nhung, 2015). Tại Điều 5, Luật
Đất đai 2013 (Quốc hội, 2013) khái niệm “cộng đồng sử dụng đất” đã được quy định gồm
cộng đồng người Việt Nam sinh sống trên cùng một địa bàn thôn, làng, bản, ấp, buôn, phum
sóc và các điểm dân cư tương tự có cùng phong tục tập quán hoặc có chung dòng họ được nhà
nước giao đất hoặc cộng nhận quyền sử dụng đất. Đây cũng là quan điểm mà tác giả sử dụng
thống nhất trong nghiên cứu của mình.
Theo Nguyễn Bá Ngãi (2009) có ba loại hình quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào
cộng đồng chủ yếu, bao gồm: Đất rừng do cộng đồng tự công nhận theo truyền thống từ
lâu đời (các cộng đồng quản lý theo luật tục); đất rừng được chính quyền địa phương giao
cho cộng đồng quản lý, sử dụng ổn định lâu dài (các cộng đồng quản lý theo quy định của
pháp luật) và đất rừng của các tổ chức nhà nước khoán cho các cộng đồng bảo vệ, khoanh
nuôi và trồng mới (cộng đồng quản lý theo hợp đồng khoán).
Việc tổ chức quản lý, sử dụng đất rừng của cộng đồng ở mỗi vùng miền khác nhau là
không giống nhau, tùy thuộc vào phong tục tập quán, bản sắc văn hóa của mỗi dân tộc. Tuy
nhiên, có 3 hình thức tổ chức phổ biến là: Tổ chức theo dòng tộc (dòng họ), theo dân tộc; tổ
chức theo thôn, làng, buôn, bản, ấp (gọi chung là thôn) và theo nhóm hộ/nhóm sở thích.
2.1.3. Một số yếu tố ảnh hưởng đến công tác quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng
2.1.3.1. Nhóm yếu tố những quy định của pháp luật
Việc sử dụng linh hoạt đất đai chịu ảnh hưởng của rất nhiều yếu tố như: Chính sách,
Luật và những qui định về sử dụng đất đai. Trong đó, những quy định về quyền quản lý, sở
hữu rừng và đất rừng; quy định về giao đất, giao rừng cho cộng đồng dân cư thôn; mối quan
hệ giữa các quy định của nhà nước với các quy ước, hương ước… được xem là các yếu tố
tác động đến quản lý tài nguyên rừng công bằng và bền vững. Pháp luật bao gồm cả những
quy định của nhà nước và những luật tục của địa phương đều có ý nghĩa đối với việc sử dụng
đất, đặc biệt là đối với các cộng đồng dân tộc thiểu số sống phụ thuộc vào rừng.
2.1.3.2. Nhóm yếu tố điều kiện tự nhiên, cơ sở hạ tầng
Sản xuất nông nghiệp nói chung và lâm nghiệp nói riêng bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố trong

3



đó có yếu tố điều kiện tự nhiên như diện tích, vị trí của thửa đất, có liên quan đến mức độ giàu
nghèo, trữ lượng các loài lâm sản và lâm sản ngoài gỗ của diện tích đất rừng khi giao cho cộng
đồng. Bên cạnh đó, khoảng cách từ nơi cư trú đến diện tích đất rừng được giao quyết định đến
khả năng tiếp cận rừng. Những diện tích đất rừng giao cho các cộng đồng càng gần khu dân
cư, địa hình thuận lợi thì càng dễ tiếp cận, dễ quản lý, sử dụng còn càng xa khu dân cư, địa
hình phức tạp thì khả năng tiếp cận càng khó khăn, không thuận lợi trong việc quản lý, sử dụng
đất. Ngoài ra điều kiện hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội cũng ảnh hưởng rất lớn đến quản lý,
sử dụng đất.
2.1.3.3. Nhóm yếu tố kinh tế
Theo nghiên cứu của tác giả Dương Viết Tình & Trần Hữu Nghị (2012) điều kiện
kinh tế của hộ nói nên mức sống của người dân. Việc tiếp cận các nguồn tài chính đối với
người nông dân là rất khó khăn. Chủ yếu đến từ các chương trình, dự án. Có rất ít các tổ
chức tín dụng tham gia vào việc cho người nông dân vay vốn sản xuất (Nguyễn Quang Tân
& cs., 2008). Bên cạnh đó, để công tác quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng thực
sự đem lại hiệu quả thì công tác gây quỹ, các nguồn gây quỹ và việc sử dụng quỹ cũng
thực sự cần thiết và quan trọng.
2.1.3.4. Nhóm yếu tố xã hội
Theo tác giả Nguyễn Trần Hòa (2014), cũng như tác giả Hoàng Xuân Tý & Lê
Trọng Cúc (1998) kiến thức bản địa là hệ thống kiến thức của người dân sống trong các
cộng đồng tại một khu vực nào, nó tồn tại và phát triển trong những điều kiện nhất định
với sự đóng góp của mọi thành viên trong cộng đồng ở một vùng địa lý xác định. Đó là
những thói quen, tập quán và những quy ước cộng đồng được quy ước hóa thông qua hành
vi, hoạt động thực tiễn sản xuất, ứng xử với môi trường tự nhiên và xã hội. Vai trò của
trưởng bản rất lớn trong mọi hoạt động từ bảo vệ rừng, phân bố lượng khai thác cho từng
thành viên trong cộng đồng cũng như huy động nguồn nhân lực cho các hoạt động khác
(Poffenberger & cs., 1998).
2.2. CƠ SỞ PHÁP LÝ CỦA CÔNG TÁC QUẢN LÝ, SỬ DỤNG ĐẤT RỪNG DỰA
VÀO CỘNG ĐỒNG
2.2.1. Căn cứ pháp lý về quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng

- Quyết định 184/QĐ-HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng năm 1982 và Chỉ thị 29/CTTW ngày 12 tháng 11 năm 1983 của Ban Bí thư về việc đẩy mạnh giao đất, giao rừng, xây
dựng rừng và tổ chức kinh doanh theo phương thức nông - lâm kết hợp.
- Luật Đất đai 1987, Luật Đất đai 2993, Luật Đất đai 2003, Luật Đất đai 2013.
- Nghị định 01/1995/NĐ-CP ngày 04 tháng 01 năm 1995 của Chính phủ ban hành
quy định về việc giao khoán đất sử dụng và mục đích sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi
trồng thuỷ sản trong các doanh nghiệp nhà nước.
- Quyết định 245/1998/QĐ-TTg ngày 21 tháng 12 năm 1998 của Thủ tướng Chính
phủ về thực hiện trách nhiệm quản lý nhà nước của các cấp về rừng và đất lâm nghiệp.
- Thông tư 56/1999/TT- BNNPTNT ngày 30 tháng 3 năm 1999 của Bộ NN&PTNT
về hướng dẫn xây dựng quy ước bảo vệ phát triển rừng trong cộng đồng dân cư thôn, làng,
buôn, bản, ấp.
- Quyết định 08/2001/QĐ-TTg ngày 11 tháng 1 năm 2001 của Thủ tướng Chính phủ về
việc ban hành quy chế quản lý rừng đặc dụng, rừng phòng hộ, rừng sản xuất là rừng tự nhiên.

4


- Quyết định 178/2001/QĐ-TTg ngày 12 tháng 11 năm 2001 của Thủ tướng Chính
phủ quy định về quyền lợi, nghĩa vụ của hộ gia đình, cá nhân được giao, được thuê, nhận
khoán rừng và đất lâm nghiệp.
- Luật Luật Bảo vệ và Phát triển rừng năm 2004.
- Quyết định 106/2006/QĐ-BNN ngày 27 tháng 11 năm 2006 của Bộ Nông nghiệp
và Phát triển nông thôn ban hành hướng dẫn quản lý rừng cộng đồng dân cư thôn.
- Thông tư 38/2007/TT-BNN ngày 25 tháng 4 năm 2007 của Bộ Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn hướng dẫn trình tự, thủ tục giao rừng, cho thuê rừng, thu hồi rừng cho tổ
chức, hộ gia đình, cá nhân và cộng đồng dân cư thôn.
- Luật Lâm nghiệp 2017.
2.2.2. Căn cứ pháp lý về giao đất, giao rừng cộng đồng
- Luật Đất đai 1993, Luật Đất đai 2003, Luật Đất đai 2013.
- Nghị định số 02/1994/NĐ-CP ngày 15 tháng 1 năm 1994 của Chính phủ ban hành

bản quy định về việc giao đất, lâm nghiệp cho tổ chức, hộ gia đình, cá nhân sử dụng ổn định,
lâu dài vào mục đích lâm nghiệp.
- Nghị định số 163/1999/NĐ-CP ngày 16 tháng 11 năm 1999 của Chính phủ về giao
đất, cho thuê đất lâm nghiệp cho tổ chức, hộ gia đình và cá nhân sử dụng ổn định, lâu dài
vào mục đích lâm nghiệp.
- Quyết định 672/QĐ-TTg ngày 26 tháng 4 năm 2006 của Thủ tướng Chính phủ về
việc lập bản đồ địa chính tỷ lệ 1/10000, xét duyệt cấp giấy CNQSDĐ lâm nghiệp.
2.2.3. Căn cứ pháp lý về giao khoán đất rừng cho cộng đồng
Nghị định 01/1995/NĐ-CP ngày 04 tháng 01 năm 1995 của Chính phủ, văn bản này
đã tạo khuôn khổ pháp lý cho các tổ chức được Nhà nước giao đất có quyền giao khoán đất
cho các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân; quy định thời gian giao khoán đất lâm nghiệp đối với
đất rừng đặc dụng, đất rừng phòng hộ là 50 năm, đất rừng sản xuất theo chu kỳ kinh doanh.
2.2.4. Căn cứ pháp lý về hưởng lợi từ đất rừng cộng đồng
- Quyết định 08/2001/QĐ-TTg ngày 11 tháng 1 năm 2001 của Thủ tướng Chính phủ
ban hành quy chế quản lý rừng đặc dụng, rừng phòng hộ, rừng sản xuất là rừng tự nhiên.
- Quyết định 178/2001/QĐ-TTg ngày 12 tháng 11 năm 2001 của Thủ tướng Chính
phủ quy định về quyền lợi, nghĩa vụ của hộ gia đình, cá nhân được giao, được thuê, nhận
khoán rừng và đất lâm nghiệp.
- Thông tư liên tịch số 80/2003/TTLT-BNN-BTC ngày 3 tháng 9 năm 2003 của Bộ
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và Bộ Tài chính hướng dẫn Quyết định 178/2001/QĐTTg.
2.2.5. Căn cứ pháp lý về đầu tư cho công tác quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng
Vận dụng Quyết định 661/TTg ngày 29 tháng 7 năm 1998 của Thủ tướng Chính phủ
để đầu tư hỗ trợ cho cộng đồng đã được Nhà nước giao đất, giao rừng hoặc tham gia nhận
khoán bảo vệ, khoanh nuôi xúc tiến tái sinh và trồng rừng phòng hộ, rừng đặc dụng. Ngoài
ra có thể vận dụng Quyết định 147/TTg ngày 10 tháng 09 năm 2007 về Một số chính sách
phát triển rừng sản xuất giai đoạn 2007 - 2015.
2.3. QUẢN LÝ, SỬ DỤNG ĐẤT RỪNG DỰA VÀO CỘNG ĐỒNG Ở MỘT SỐ

5



NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI VÀ Ở VIỆT NAM
2.3.1. Quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng ở một số nước trên thế giới
2.3.1.1. Quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng ở Philippines
Philippines đã thực hiện giao đất, giao rừng cho các cộng đồng dân cư từ những năm
1970 và đến những năm 1990 thì trở thành phương thức phổ biến và rộng rãi. Calderon & Nawir
(2006) đã nghiên cứu tính khả thi và lợi ích của mô hình quản lý rừng dựa vào cộng đồng và
quản lý rừng của các đối tượng không phải là cộng đồng tại Philippines và chỉ ra rằng cả hai
hình thức đều đem lại tính khả thi và lợi ích cho việc quản lý, sử dụng đất rừng. Tuy nhiên, khó
khăn lớn nhất trong sản xuất đó là thị trường tiêu thụ sản phẩm từ rừng, do việc nhập khẩu có
chi phí thấp hơn chi phí bỏ ra để sản xuất trong nước. Điều quan trọng trong quản lý dựa vào
cộng đồng ở Philippines đó là việc phân quyền và trách nhiệm cụ thể hơn cho các cộng đồng
(Pulhin, 2003).
2.3.1.2. Quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng ở Indonesia
Sau Hội nghị Lâm nghiệp thế giới tổ chức tại Jakarta vào năm 1978 (FAO, 1978), việc bảo
tồn rừng thì chính phủ Indonesia mới nỗ lực tăng cường hợp tác với các cộng đồng trong hoạt
động quản lý tài nguyên. Có rất nhiều các chương trình, dự án đã được thực hiện nhằm mục tiêu
quản lý, sử dụng đất rừng hiệu quả dựa vào cộng đồng. Tuy nhiên, việc bảo vệ và phát triển rừng
cộng đồng ở Indonesia vẫn còn gặp rất nhiều những tồn tại, bất cập cần phải khắc phục như:
Chưa có quy định rõ ràng liên quan đến quyền kiểm soát, quyền sở hữu đất và tài sản trên đất.
2.3.1.3. Quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng ở Ấn Độ
Ở Ấn Độ việc quản lý đất rừng và rừng dựa vào cộng đồng đã thành công trong điều
tiết các nguồn lợi từ rừng và cho thấy rừng thuộc quyền quản lý cộng đồng không bị suy
thoái hơn rừng do Nhà nước quản lý hoặc ít nhất là như các bộ phận rừng của Nhà nước.
Nhưng nhìn chung, quản lý đất rừng dựa vào cộng đồng không phải là tối ưu, không có mô
hình chung cho tất cả các cộng đồng. Thay vào đó, nó nên được triển khai bằng nhiều hình
thức. Vấn đề phân cấp quản lý là nguyên nhân lớn nhất dẫn đến sự thất bại trong quản lý dựa
vào cộng đồng. Nhiều chính quyền địa phương chưa được thực sự phân cấp quản lý trong
việc quản lý rừng và đất rừng. Nhiều cộng đồng địa phương đã bị ảo giác về sức mạnh trong
quyền quản lý cộng đồng.

2.3.1.4. Quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng ở Nepal
Năm 1976 Chính phủ đã ban hành Kế hoạch Lâm nghiệp Quốc gia. Trong khuôn khổ
kế hoạch này, năm 1978 Chính phủ đưa ra quy định mới về bàn giao rừng quốc gia cho các cơ
quan được lựa chọn tại địa phương trong đó có các nhóm người sử dụng gọi là cộng đồng. Từ
đó, việc quản lý, sử dụng đât rừng dựa vào cộng đồng trở thành xu thế của các chính sách và
chương trình phát triển rừng ở Nepal. Tuy nhiên, việc này cũng chưa giải quyết được vấn đề
sinh kế cho người dân trong cộng đồng như mong đợi, các chính sách cũng chưa hỗ trợ tối ưu
cho việc quản lý, sử dụng đất rừng.
2.3.1.5. Quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng ở Canada
Ở Canada mô hình quản lý dựa vào cộng đồng cũng đã được hình thành từ
những năm 1990. Hầu hết các mô hình quản lý dựa vào cộng đồng thời điểm này đều
dựa vào sự bảo trợ của các tổ chức phi chính phủ (khoảng 60%) còn lại khoảng 40%

6


các cộng đồng hoạt động thông qua quản lý của chính quyền địa phương. Hiện nay,
các cộng đồng được tổ chức rất chặt chẽ. Chính quyền địa phương chỉ đóng vai trò
quản lý thông qua việc giao trách nhiệm cho các cộng đồng địa phương. Đa số các
cộng đồng có Hội đồng quản trị là các thành viên hội đồng được bầu (chiếm khoảng
88% trong tổng số). Một số cộng đồng có ủy ban tư vấn công cộng, nhưng đây không
phải là xu hướng chủ đạo.
2.3.1.6. Quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng ở Anh
Tại Vương Quốc Anh quản lý dựa vào cộng đồng rất đa dạng. Trước thực trạng diện
tích rừng bị suy giảm, cùng với quá trình đô thị hóa, mật độ dân số tăng cao đã hình thành
nên các cộng đồng quản lý rừng với mục đích gìn giữ bản sắc dân tộc và đảm bảo phát triển
kinh tế, tạo sự kết nối với các vùng xung quanh. Nghiên cứu của (Lawrence & cs., 2009) chỉ
ra rằng việc hỗ trợ tài chính cho việc quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng đang
giảm và các ưu tiên phải được xem xét kỹ lưỡng, thay vào đó là việc xem xét trao quyền cho
cộng đồng, giúp cộng đồng có quyền quyết định trong hoạt động sản xuất.

2.3.2. Quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng ở Việt Nam
2.3.2.1. Công tác quản lý, sử dụng đất rừng ở vùng núi phía bắc
- Ở Lào Cai: cộng đồng quản lý, sử dụng đất rừng tại xã Lùng Sui, huyện Si Ma Cai
là một điển hình trong công tác quản lý, sử dụng đất dựa vào cộng đồng. Phần lớn cộng đồng
quản lý, bảo vệ đất rừng chủ yếu là để duy trì không gian tín ngưỡng và quỹ tài nguyên cho
sinh kế. Các thành viên trong cộng đồng cùng nhau quản lý, bảo vệ hoàn toàn dựa trên
nguyên tắc tự nguyện, cùng có lợi.
- Ở Cao Bằng: Công tác quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng tương đối tốt
như của các hộ gia đình, tuy nhiên vẫn chưa huy động hết được công sức của cộng đồng
trong công tác quản lý, sử dụng.
- Ở Sơn La: quản lý đất rừng mang lại hiệu quả trên các mặt xã hội và môi trường
hơn là hiệu quả kinh tế. Trong khi đó, khi sản xuất hàng hoá phát triển việc quản lý rừng
cộng đồng chuyển sang một hình thức mới đó là tạo thành xu hướng cộng đồng nhóm hộ
trong quản lý rừng.
2.3.2.2. Công tác quản lý, sử dụng đất rừng ở vùng núi trung Bộ
- Ở Nghệ An: Công tác quản lý, sử dụng đất rừng trên địa bàn được thực hiện dựa
vào các tổ chức đoàn thể của cộng đồng: Thành lập các cụm liên gia tự quản, thanh niên, dân
quân. Các tổ đội này cùng nhau liên kết hoạt động dưới sự chỉ đạo trực tiếp của chính quyền
các thôn bản.
- Ở Thừa Thiên - Huế: Cộng đồng dân cư thôn quản lý bảo vệ có hiệu quả hơn so với
nhóm hộ. Chất lượng rừng do cộng đồng dân cư thôn quản lý bảo vệ ngày càng được nâng
cao, cơ cấu thu nhập của người dân thay đổi so với trước khi giao rừng. Nhờ đó mà rừng
cộng đồng hạn chế được hiện tượng xói mòn, lở núi, cát bay; bảo đảm được nguồn nước cho
sinh hoạt, sản xuất và hoạt động du lịch sinh thái ở các thôn.

7


2.3.2.3. Công tác quản lý, sử dụng đất rừng ở vùng núi Tây nguyên
- Ở Gia Lai: quản lý, sử dụng đất và rừng dựa vào cộng đồng ở Tây Nguyên trong đó

có tỉnh Gia Lai đã được hình thành từ lâu đời gắn với phong tục, tập quán, truyền thống của
đồng bào dân tộc thiểu số nơi đây. Ban quản lý của cộng đồng cùng với các nhóm trưởng nhận
đất rừng tổ chức xây dựng, thực thi và giám sát kế hoạch quản lý đất rừng của
chính mình.
- Ở Đắk Nông: giao đất, giao rừng cho cộng đồng được quản lý tốt hơn, người dân có
niềm vui và ý thức được rừng là tài sản của mình. Người dân đã quan tâm đầu tư vào các khu
rừng của mình, một số khu rừng giao cho cộng đồng đầu tư chăm sóc, làm giàu rừng, áp dụng
kiến thức bản địa để kinh doanh.
2.4. NHỮNG NGHIÊN CỨU VỀ QUẢN LÝ, SỬ DỤNG ĐẤT RỪNG DỰA VÀO CỘNG
ĐỒNG TRÊN THẾ GIỚI VÀ Ở VIỆT NAM
2.4.1. Một số công trình nghiên cứu về quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng
trên thế giới
Trên thế giới quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng đã trở thành phương thức
khá phổ biến. Có nhiều dự án cũng như các nghiên cứu về lĩnh vực này được thực hiện ở
nhiều quốc gia trên thế giới như các nghiên cứu của Guiang & cs. (2001) và của Pulhin &
Pulhin (2003), Calderon & Nawir (2006), Royer & cs. (2016), Anup & cs. (2015), Agrawal
& Chhatre (2006)….
Các nghiên cứu của Guiang & cs. (2001) và của Pulhin & Pulhin (2003) chủ yếu sử
dụng phương pháp thống kê cơ bản theo dõi lịch sử của quản lý dựa vào cộng đồng, kiểm
tra các thành tựu của quản lý rừng dựa vào cộng đồng và các mối quan tâm của cộng đồng.
Đồng thời đưa ra những triển vọng của việc quản lý dựa rừng dựa vào cộng đồng đối với
việc phát triển các vùng cao của Philippines (Pulhin & Pulhin (2003). So sánh tính khả thi
và lợi ích của mô hình quản lý rừng cộng đồng và quản lý rừng của các đối tượng không phải
là cộng đồng tại Philippines. Từ đó đánh giá được hiệu quả của các mô hình quản lý rừng tại
địa phương và đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả các mô hình quản lý rừng cộng
đồng (Calderon & Nawir, 2006). Một số nghiên cứu được thực hiện tại các cộng đồng sử
dụng phương pháp phỏng vấn trực tiếp (Royer & cs., 2016), thực hiện tại 03 cộng đồng của
Indonesia. Tuy nhiên, số lượng mẫu phỏng vấn nhỏ (mỗi làng chỉ phỏng vấn 10 cá nhân) và
mỗi làng tổ chức 1 cuộc thảo luận nhóm về lợi ích và mối quan tâm của người dân về quản
lý đất rừng của cộng đồng và thống kê, so sánh giữa các làng với nhau. Phân tích những

thuận lợi, khó khăn, tồn tại và đề xuất một số giải pháp phát triển mô hình quản lý, sử dụng
đất rừng dựa vào cộng đồng tại địa phương. Nhưng những đề xuất giải pháp chỉ mang tính
chung chung, chưa có mô hình cụ thể.
Một số nghiên cứu khác đã sử dụng các phương pháp có tính hệ thống và khoa học
hơn như phương pháp phân tích lợi ích, chi phí (Anup & cs., 2015), nghiên cứu đã tính toán
hiệu quả kinh tế trung bình hàng năm từ rừng cộng đồng bằng việc điều tra trực tiếp 50%
các hộ gia đình trong cộng đồng được giao quản lý, sử dụng đất rừng cộng đồng tại Nepal.
Mô hình phân tích hồi quy (Agrawal & Chhatre, 2006) đã đánh giá một số yếu tố ảnh hưởng
đến quản lý, sử dụng đất rừng của các cộng đồng tại ở Ấn Độ và cho thấy có 2 nhóm yếu tố

8


ảnh hưởng lớn đến công tác quản lý, sử dụng đất của cộng đồng là yếu tố độ cao và yếu tố
thị trường.
Như vậy có thể thấy, đã có nhiều nghiên cứu về quản lý sử dụng đất rừng dựa vào
cộng đồng và cho thấy mô hình này đã đem lại hiệu quả, nhất là đối với các dân tộc thiểu số
sống dựa vào rừng. Tuy nhiên, tất cả các nghiên cứu này đều mới chỉ nghiên cứu trên các
cộng đồng nhỏ, sử dụng các phương pháp đơn giản, chưa đánh giá được đầy đủ các yếu tố
ảnh hưởng và mức độ ảnh hưởng của các yếu tố đến công tác quản lý, sử dụng đất rừng dựa
vào cộng đồng.
2.4.2. Một số công trình nghiên cứu về quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng ở
Việt Nam
Ở Việt Nam, mô hình quản lý dựa vào cộng đồng đã được hình thành từ rất lâu đời,
đặc biệt gắn với các cộng đồng dân tộc thiểu số (Nguyễn Bá Ngãi & cs, 2009). Đã có nhiều
tác giả thực hiện các nghiên cứu tại khắp các vùng miền Bắc, miền Trung và miền Nam như
Nguyễn Bá Ngãi & cs. (2009); Bảo Huy (2009); Viết Tình & Trần Hữu Nghị (2012); Lê
Quang Vĩnh & Ngô Thị Phương Anh (2012); Võ Đình Tuyên (2012); Nghiên cứu của Đỗ
Anh Tuân (2012); Vũ Quốc Phương & cs. (2014)….
Nghiên cứu của Vũ Quốc Phương & cs. (2014) Nguyễn Bá Ngãi & cs. (2009), Dương

Viết Tình & Trần Hữu Nghị (2012), Lê Quang Vĩnh & Ngô Thị Phương Anh (2012), Võ
Đình Tuyên (2012) đều đã sử dụng phương pháp đánh giá nông thôn có sự tham gia của
người dân (PRA) sử dụng các công cụ như: Khảo sát thôn bản, phân tích kinh tế hộ gia đình
bằng cách phỏng vấn bán cấu trúc để thu thập các thông tin. Kết quả của các nghiên cứu cho
thấy mô hình quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng hợp lý và có hiệu quả hơn mô
hình quản lý của các nhóm hộ. Qua nghiên cứu này cũng cho thấy mô hình quản lý, sử dụng
đất rừng dựa vào cộng đồng đã khuyến khích người dân trong các cộng đồng tham gia tích
cực hơn vào công tác chăm sóc, bảo vệ rừng và dẫn đến chất lượng rừng ngày càng được
nâng cao.
Nghiên cứu của Bảo Huy (2009) đã thực hiện nghiên cứu trong vòng 6 năm đối với
một số cộng đồng dân tộc thiểu số sống gần rừng ở Tây Nguyên, Đỗ Anh Tuân (2012) đã
tiến hành điều tra 18 thôn, bản, thuộc 17 xã ở 13 huyện của 8 tỉnh Yên Bái, Sơn La, Điện
Biên, Lạng Sơn, Cao Bằng, Quảng Trị, Thừa Thiên - Huế và Đăk Nông cho thấy quản lý, sử
dụng đất rừng dựa vào cộng đồng ở mỗi vùng khác nhau lại có đặc trưng khác nhau. Điểm
đặc biệt của các nghiên cứu này là đã đánh giá được một số yếu tố ảnh hưởng đến công tác
quản lý, sử dụng đất rừng của các cộng đồng dân tộc thiểu số tại Tây Nguyên, sử dụng
phương pháp chấm điểm từ kết quả phỏng vấn người dân và cho thấy có một số yếu tố ảnh
hưởng đến quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng như chính sách sử dụng đất; cơ sở
hạ tầng; phong tục, tập quán; quy định của pháp luận cho đối tượng cộng đồng còn thiếu,
chưa cụ thể; tài nguyên sẵn có của diện tích đất rừng còn nghèo, do diện tích giao cho cộng
đồng chủ yếu là đất rừng phòng hộ nghèo kiệt; địa hình khó khăn, phức tạp trong khi hạ tầng
còn yếu kém; người dân trong cộng đồng chưa phát huy hết được những kiến thức bản địa
trong quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng. Tuy nhiên, những nghiên cứu này các
chỉ tiêu chủ yếu đều được đánh giá một cách định tính, chưa xác định được chính xác các
yếu tố ảnh hưởng và mức độ ảnh hưởng của từng yếu tố để có thể đề xuất các kiến nghị hiệu
quả hơn.

9



2.5. ĐỊNH HƯỚNG NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI
Qua nghiên cứu và phân tích tổng quan tài liệu tổng quan cho thấy việc quản lý, sử dụng
đất rừng dựa vào cộng đồng đã và đang trở thành một trong những phương thức phổ biến trên
thế giới và ở Việt Nam. Đã có nghiều nghiên cứu về công tác quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào
cộng đồng, nhưng có thể khẳng định chưa có nghiên cứu nào thực hiện đánh giá kết quả của
công tác quản lý, sử dụng đất rừng một cách toàn diện trên cả ba khía cạnh kinh tế, xã hội, môi
trường trong điều kiện cụ thể của một địa phương. Chưa phân tích được mối liên hệ giữa thu
nhập từ đất rừng cộng đồng với điều kiện kinh tế hộ để trả lời câu hỏi thu nhập từ đất rừng của
cộng đồng có ý nghĩa như thế nào đối với từng điều kiện kinh tế hộ. Đồng thời, có thể khẳng
định chưa có nghiên cứu về việc sử dụng phương pháp định lượng để xác định các yếu tố ảnh
hưởng và mức độ ảnh hưởng của các yếu tố đến công tác quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào
cộng đồng.
Từ thực trạng công tác quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng trên cơ sở kết quả
nghiên cứu tổng quan tài liệu, luận án định hướng tập trung nghiên cứu vào những vấn đề sau:
(1) Thực trạng công tác quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng trên địa bàn tỉnh Hòa Bình
(Hiện trạng sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng; hiện trạng diện tích đất rừng giao cho các cộng
đồng; vai trò của đất rừng được giao đối với cộng đồng; việc xây dựng quy ước; công tác hưởng
lợi từ đất rừng cộng đồng); (2) Kết quả quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng theo các
khía cạnh kinh tế, xã hội và môi trường; (3) Các yếu tố ảnh hưởng đến công tác quản lý, sử dụng
đất rừng dựa vào cộng đồng; (4) Những thuận lợi, khó khăn trong công tác quản lý, sử dụng đất
rừng dựa vào cộng đồng; và (5) Giải pháp hoàn thiện công tác quản lý, sử dụng đất rừng dựa
vào cộng đồng trên địa bàn tỉnh Hòa Bình.
PHẦN 3. NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. ĐỊA ĐIỂM NGHIÊN CỨU
Đề tài được thực hiện trên địa bàn tỉnh Hòa Bình, tiếp giáp với vùng đồng bằng sông
Hồng, là cửa ngõ của vùng núi Tây Bắc, tiếp giáp với thủ đô Hà Nội; đặc biệt trên địa bàn tỉnh
có đường quốc lộ 6 chạy qua, đây là con đường huyết mạch nối liền thủ đô Hà Nội và các tỉnh
miền xuôi với vùng Tây Bắc của Tổ quốc. Đã có nhiều cộng đồng tham gia vào công tác quản
lý, sử dụng đất rừng trong đó tập trung vào các cộng đồng dân tộc thiểu số sống trên địa bàn
tỉnh, chủ yếu là cộng đồng người Mường, cộng đồng người Tày và cộng đồng người Dao.

3.2. THỜI GIAN NGHIÊN CỨU
- Thời gian thực hiện đề tài luận án: từ năm 2014.
- Thời gian thu thập số liệu:
+ Số liệu thứ cấp được thu thập trong giai đoạn từ năm 2011 – 2017;
+ Số liệu sơ cấp được thu thập vào năm 2015.
3.3. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
Hoạt động quản lý, sử dụng đất rừng giao cho cộng đồng trên địa bàn tỉnh Hòa Bình
và các yếu tố ảnh hưởng.
3.4. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
- Khái quát điều kiện tự nhiên, kinh tế và xã hội của tỉnh Hoà Bình;
- Thực trạng quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng trên địa bàn tỉnh Hòa Bình

10


- Đánh giá kết quả hoạt động quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng trên địa bàn
tỉnh Hòa Bình;
- Đánh giá một số yếu tố ảnh hưởng đến công tác quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào
cộng đồng trên địa bàn tỉnh Hòa Bình;
- Giải pháp nhằm hoàn thiện công tác quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng
trên địa bàn tỉnh Hòa Bình.
3.5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.5.1. Phương pháp chọn điểm nghiên cứu
Các điểm nghiên cứu được lựa chọn đảm bảo tiêu chí: Thôn (bản) được giao đất, giao
rừng; đa dạng các thành phần dân tộc sống trên địa bàn tỉnh; phù hợp với quy mô dân số
của các dân tộc (Donova & cs., 1997). Số điểm nghiên cứu được chọn là 5 thôn (bản).
Trong đó, 01 cộng đồng người Tày là bản Nhạc (xã Đồng Chum, huyện Đà Bắc); 03 cộng
đồng người Mường (là cộng đồng có dân số đông nhất trên địa bàn tỉnh, chiếm khoảng
60%) gồm: thôn Đúc (xã Nam Phong, huyện Cao Phong); thôn Củ (xã Tú Sơn, huyện Kim
Bôi); thôn Thung 2 (xã Quý Hòa, huyện Lạc Sơn); và 01 cộng đồng người Dao là xóm

Suối Bến (xã Tiến Sơn, huyện Lương Sơn).
3.5.2. Phương pháp thu thập số liệu
3.5.2.1. Phương pháp thu thập số liệu thứ cấp
Các tài liệu có liên quan đến các điều kiện về tự nhiên, kinh tế - xã hội của tỉnh Hòa
Bình. Các văn bản pháp quy có liên quan đến việc quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng
đồng và các văn bản, tài liệu có liên quan; được thu thập tại các cơ quan quan lý nhà nước
về đất đai các cấp trên địa bàn tỉnh Hòa Bình.
3.5.2.2. Phương pháp thu thập số liệu sơ cấp
- Tiến hành phỏng vấn trực tiếp 41 cán bộ là những người lãnh đạo có liên quan trực
tiếp đến công tác quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng trên địa bàn tỉnh Hoà Bình.
Trên cơ sở phỏng vấn các chuyên gia, các cán bộ quản lý làm căn cứ để tác giả thiết kế
bảng hỏi phục vụ cho công tác nghiên cứu.
- Điều tra, phỏng vấn trực tiếp bằng bảng hỏi 219 hộ tại các điểm điều tra. Các hộ
điều tra được lựa chọn theo phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên phân tầng.
3.5.3. Phương pháp đánh giá kết quả công tác quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng
- Chỉ tiêu đánh giá kết quả kinh tế: Thu nhập hộ được tính như sau:
Thu nhập hộ = Tổng thu nhập của hộ – Chi phí vật chất – Tiền công thuê ngoài
- Chỉ tiêu đánh giá kết quả xã hội: Trong công tác quản lý, sử dụng đất rừng dựa
vào cộng đồng việc đánh giá hiệu quả xã hội được thể hiện thông qua một số chỉ tiêu sau:
Sự tham gia của người dân trong quản lý, sử dụng đất rừng, thể hiện bằng số công lao động;
nhận thức của người dân trong công tác quản lý, sử dụng đất rừng cộng đồng; sự thay đổi
nhận thức của người dân về vai trò của rừng.
- Chỉ tiêu đánh giá kết quả môi trường: Sự thay đổi chất lượng nguồn nước: Đây
là chỉ tiêu đánh giá hiệu quả về mặt môi trường của các diện tích đất rừng quản lý, sử dụng
dựa vào cộng đồng vì phần lớn những diện tích này đều là rừng phòng hộ đầu nguồn nước.
Tuy nhiên, việc phân tích chất lượng nguồn nước rất khó khăn, phức tạp nên chỉ có thể sử
dụng phương pháp thống kê và đánh giá từ người dân địa phương.
3.5.4. Phương pháp thống kê so sánh

11



Để đánh giá ảnh hưởng của kinh tế hộ đến thu nhập mang lại từ việc quản lý, sử
dụng đất rừng dựa vào cộng đồng và giữa các nhóm kinh tế hộ đến tầm quan trọng của thu
nhập mang lại từ việc quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng nghiên cứu đã sử dụng
một số phần mềm như SPSS; excel… và các kiểm định để đánh giá.
3.5.5. Phương pháp xác định các yếu tố ảnh hưởng đến công tác quản lý, sử dụng đất
rừng dựa vào cộng đồng
Để đánh giá một số yếu tố ảnh hưởng đến công tác quản lý, sử dụng đất rừng dựa
vào cộng đồng tác giả đã sử dụng phương pháp điều tra thông qua phiếu phỏng vấn các cán
bộ có liên quan và xác định được 4 nhóm yếu tố (Nhóm yếu tố những quy định của pháp
luật; nhóm yếu tố tự nhiên và cơ sở hạ tầng; nhóm yếu tố kinh tế và nhóm yếu tố xã hội)
có 29 biến quan sát.
3.5.6. Phương pháp đánh giá mức độ ảnh hưởng của một số yếu tố đến công tác quản
lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng
Để đánh giá mức độ ảnh hưởng của một số yếu tố đến công tác quản lý, sử dụng đất
rừng dựa vào cộng đồng (Đinh Phi Hổ, 2012) nghiên cứu đã sử dụng mô hình phân tích
nhân tố khám phá EFA (Exploratory Factor Analysis _EFA).
Đề tài sử dụng thang đo 5 mức độ trong Thang đo Likert (Likert, 1932) để đánh giá
các yếu tố tác động đến quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng. Các chỉ tiêu đánh
giá được đo lường bằng thang đo Liker 5 (Likert, 1932), xác định mức độ giá trị thấp nhất
(Min = 1) và giá trị cao nhất (Max = 5). Tương ứng: 1 – Không quan trọng/Rất kém; 2 - Ít
quan trọng/Kém; 3 - Trung bình; 4 - Quan trọng/Tốt; 5 - Rất quan trọng/
Rất tốt.
3.5.7. Phương pháp SWOT
Khung phân tích SWOT (Strengh, Weakness, Opportunities, Threats) được thể hiện
gồm 4 phần là 4 nội dung chính bao gồm: điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và thách thức.
Khung phân tích SWOT thể hiện đối với công tác quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng
đồng trên địa bàn tỉnh Hòa Bình.
PHẦN 4. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN

4.1. KHÁI QUÁT ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, KINH TẾ VÀ XÃ HỘI CỦA TỈNH HÒA BÌNH
4.1.1. Điều kiện tự nhiên của tỉnh Hòa Bình
Hòa Bình là một tỉnh miền núi, cửa ngõ của vùng Tây Bắc. Đặc điểm nổi bật của
địa hình Hòa Bình là vùng núi cao, chia cắt phức tạp, độ dốc lớn theo hướng Tây Bắc Đông Nam. Tài nguyên đất đai, điều kiện khí hậu, địa hình thuận lợi cho phát triển lâm
nghiệp. Tổng diện tích đất rừng chiếm 64,54% tổng diện tích tự nhiên.
4.1.2. Điều kiện kinh tế - xã hội tỉnh Hòa Bình
Tốc độ tăng trưởng kinh tế của tỉnh Hoà Bình khá ổn định, chuyển dịch kinh tế theo
hướng tăng tỷ trọng các ngành công nghiệp, xây dựng và giảm tỷ trọng các ngành nông, lâm
nghiệp. Khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm tỷ trọng 22,30%; khu vực công nghiệp
và xây dựng chiếm 43,26%; khu vực dịch vụ chiếm 30,46%.
Trên địa bàn tỉnh Hòa Bình có nhiều dân tộc anh em cùng chung sống trong đó chủ

12


yếu là dân tộc Mường chiếm khoảng 60% dân số toàn tỉnh. Người Kinh chiếm khoảng 30%
dân số toàn tỉnh chủ yếu sống tại các phường nội thành của thành phố Hòa Bình, các thị trấn
của các huyện vùng núi thấp và rải rác ở các địa phương khác trong tỉnh. Người Tày chiếm
khoảng 5% dân số toàn tỉnh, sống tập trung tại một số thôn/bản ở các vùng núi cao của tỉnh.
Người Dao chiếm khoảng 3% dân số của tỉnh. Còn lại là người Thái và Mông sống rải rác
trên địa bàn tỉnh. Chính vì vậy các hoạt động sản xuất và nhất là sản xuất lâm nghiệp trên
địa bàn vẫn còn mang đậm nét văn hóa cộng đồng. Các cộng đồng tham gia quản lý, sử dụng
đất rừng, gắn với truyền thống, phong tục, tập quán góp phần ổn định đời sống, xóa đói, giảm
nghèo.
Tỷ lệ hộ nghèo và cận nghèo theo chuẩn nghèo trong các cộng đồng được điều tra
chủ yếu là đồng bào dân tộc thiểu số còn rất cao. Thậm chí có thôn tỷ lệ hộ nghèo và cận
nghèo rất cao chiếm 57,11% như bản người Tày (Bản Nhạc, xã Đồng Chum, huyện Đà Bắc).
Thôn có tỷ lệ hộ nghèo và cận nghèo thấp nhất là thôn của cộng đồng người Dao (xóm Suối
Bến, xã Tiến Sơn, huyện Lương Sơn) chiếm 12,5%. Đây là một khó khăn rất lớn trong công
tác quản lý, sử dụng đất rừng của cộng đồng bởi cuộc sống của bà con đồng bào dân tộc

thiểu số dựa chủ yếu vào rừng trong khi thu nhập từ rừng thì chưa cao.
4.2. THỰC TRẠNG QUẢN LÝ, SỬ DỤNG ĐẤT RỪNG DỰA VÀO CỘNG ĐỒNG
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH HOÀ BÌNH
Theo số liệu thống kê diện tích tự nhiên toàn tỉnh là 459.062 ha, trong đó: nhóm đất
nông nghiệp 387.116 ha (chiếm 84,33% diện tích tự nhiên), nhóm đất phi nông nghiệp
52.904 ha (chiếm 11,52% diện tích tự nhiên) và nhóm đất chưa sử dụng 19.042 ha (chiếm
4,15% diện tích tự nhiên). Toàn bộ diện tích đất đã được giao hết cho các đối tượng quản lý,
sử dụng thể hiện qua biểu đồ 4.1.
ha

58,52%

180,000
160,000
140,000
120,000
100,000
80,000
60,000
40,000
20,000
0

16,39%
6,04%

9,45%

9,58%
3,03%


Hộ gia
đình, cá
nhân

Tổ chức Cơ quan Tổ chức
Cộng
UBND
kinh tế
đơn vị sự nghiệp đồng dân cấp xã
của nhà công lập

nước

Biểu đồ 4.1. Cơ cấu diện tích đất rừng giao cho các chủ thể
Nguồn: UBND tỉnh Hoà Bình (2018)

Các cộng đồng trên địa bàn tỉnh sống tập trung theo các thôn, bản và có truyền thống
QLSD đất rừng dựa vào cộng đồng. Toàn bộ diện tích đất đai của tỉnh đã được giao cho các
đối tượng quản lý, sử dụng trong đó cộng đồng dân cư đã được giao 48.576 ha đất rừng, chiếm
16,39% tổng diện tích đất rừng của toàn tỉnh, đứng thứ 2 so với các đối tượng khác trong tỉnh

13


và lớn hơn nhiều tỷ lệ của cả nước là 6,7% (Bộ TNMT, 2016). Điều này cho thấy công tác
giao đất, giao rừng cho các cộng đồng dân cư đã rất được quan tâm và hình thức QLSD đất
rừng dựa vào cộng đồng đã được trú trọng trên địa bàn tỉnh.
Đối với phần diện tích đất rừng giao cho các cộng đồng quản lý, sử dụng thì cộng đồng
dân tộc Mường chiếm chủ yếu (chiếm 58,68%), tiếp đó là cộng đồng người Tày (chiếm 18,25%)

và cộng đồng người Dao (chiếm 16,11%) còn lại 6,96% là các cộng đồng người Kinh và một số
cộng đồng người Mông, người Thái sống rải rác trên địa bàn tỉnh. Mặc dù diện tích đất rừng đã
được giao cho cộng đồng quản lý, sử dụng là tương đối lớn nhưng việc cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất cho các diện tích đất này còn rất khó khăn, phức tạp. Diện tích đất rừng cộng
đồng đã được cấp GCNQSD đất là 20.618 ha (chiếm 42,44% tổng diện tích đất rừng), diện tích
chưa được GCNQSD đất (giao quản lý) 27.958 ha (chiếm 57,56% tổng diện tích đất rừng).
Trong số 5 cộng đồng điều tra mới chỉ có 2 cộng đồng được cấp giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất là thôn Đúc (xã Nam Phong, huyện Cao Phong) và thôn Thung 2 (xã Quý Hòa,
huyện Lạc Sơn) còn lại 3 cộng đồng chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Phần
lớn các diện tích đất rừng đã giao cho cộng đồng chủ yếu là đất rừng tự nhiên nghèo kiệt, việc
hưởng lợi từ rừng được giao còn rất thấp. Lại cách quá xa các khu dân cư, đi lại rất khó khăn, hệ
thống bản đồ, hồ sơ giao đất còn chưa đầy đủ, nên vẫn còn các hiện tượng vi phạm như chồng
lấn và tranh chấp, gây khó khăn trong công tác quản lý, sử dụng đất rừng.
4.3. ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ HOẠT ĐỘNG QUẢN LÝ, SỬ DỤNG ĐẤT RỪNG DỰA
VÀO CỘNG ĐỒNG TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH HÒA BÌNH
4.3.1. Lĩnh vực kinh tế
Nguồn lợi từ rừng chủ yếu là từ khai thác lâm sản ngoài gỗ tuy nhiên, nguồn thu
này không lớn và có tỷ trọng không đáng kể trong kinh tế hộ gia đình.
Bảng 4.1. Tỷ lệ thu nhập từ rừng cộng đồng đối với kinh tế hộ
Địa điểm

STT

Loại đất

Dân

Diện tích

tộc


(ha)

Tỷ lệ thu
nhập từ đất
rừng (%)

1

Bản Nhạc

Đất rừng phòng hộ

Tày

61

9,26

2

Thôn Đúc

Đất rừng phòng hộ

Mường

120

11,45


3

Thôn Củ

Đất rừng phòng hộ

Mường

605,5

16,59

4

Thôn Thung 2

Đất rừng phòng hộ

Mường

166

14,38

5

Xóm Suối Bến

Đất rừng phòng hộ


Dao

131,02

13,58

Số liệu điều tra cho thấy, tỷ trọng thu nhập từ việc quản lý, sử dụng đất rừng của các hộ
là không lớn dao động từ 9,26% đến16,59% tổng thu nhập của một hộ. Mặc dù đây không phải
là nguồn thu nhập chính của hầu hết các hộ, nhưng lại là nguồn thu khá quan trọng vì đại đa số
các cộng đồng còn rất khó khăn, tỷ lệ hộ nghèo và cận nghèo còn cao. Đối với các hộ khá trở
lên chỉ chiếm khoảng 4,00% tổng thu nhập của hộ, nhưng đối với các hộ nghèo và cận nghèo
thì tỷ lệ này cao hơn nhiều chiếm khoảng 17,71% đến 21,80 %. Điều này cho thấy, thu nhập từ

14


rừng cộng đồng có đóng góp nhất định vào việc xói đói giảm nghèo, tạo thu nhập cho người
dân.
Bảng 4.2. Tỷ lệ thu nhập từ đất rừng cộng đồng so với thu nhập hộ
Nhóm kinh tế hộ
Khá và giàu
Trung bình
Cận nghèo
Nghèo
Trung bình

Số hộ phỏng vấn
(hộ)
39

98
37
26
200

Tỷ lệ thu nhập từ đất rừng so
với tổng thu nhập hộ (%)
4,00
12,04
17,71
21,80
12,78

Kết quả điều tra trên địa bàn cho thấy do tỷ lệ thu nhập từ đất rừng của cộng đồng
quản lý, sử dụng chiếm tỷ lệ không lớn trong tổng thu nhập của hộ nên vai trò của thu nhập
từ rừng cộng đồng đối với kinh tế hộ của các đối tượng khác nhau cũng có sự khác nhau.
Giữa các nhóm kinh tế hộ có sự khác nhau về thu nhập mang lại từ rừng
cộng đồng.
Bảng 4.3. Kết quả so sánh tỷ lệ thu nhập từ rừng giữa các nhóm kinh tế hộ
Nhóm so sánh
Khá và giàu - Trung bình

Giá trị của U
-1,77

Kết luận
Ho+

Khá và giàu - Cận nghèo


-1,97

Ho+

Khá và giàu - Nghèo

-2,05

Ho-

Kết quả so sánh bằng tiêu chuẩn U cho thấy tỷ lệ thu nhập từ diện tích đất rừng được
quản lý, sử dụng dựa vào cộng đồng giữa các nhóm kinh tế hộ là khác nhau rõ rệt về mặt thống
kê. Sự khác biệt về tỷ lệ thu nhập từ rừng giữa nhóm hộ khá và giàu so với nhóm hộ nghèo và
cận nghèo là rõ rêt, bởi vì giá trị tuyệt đối của U lớn hơn 1,96 điều này cho thấy các hộ nghèo
và cận nghèo có cuộc sống phụ thuộc vào rừng rất nhiều. Ngược lại, đối với nhóm khác có trị
tuyệt đối của U nhỏ hơn 1,96. Điều này chứng tỏ thu nhập từ rừng không phải là nguồn thu chính
của các nhóm hộ này.
4.3.2. Lĩnh vực xã hội
4.3.2.1. Sự tham gia của người dân trong cộng đồng vào công tác quản lý, sử dụng
đất rừng
Trước đây, do chưa được giao đất nên người dân chủ yếu chỉ vào rừng để khai thác,
không bảo vệ và chăm sóc. Từ khi được giao quyền sử dụng đất các cộng đồng đã tự xây dựng
các quy chế tổ chức bảo vệ, chăm sóc rừng. Vì vậy, số lao động bình quân cho việc bảo vệ và
chăm sóc đã tăng, tuy nhiên tỷ lệ tăng không đáng kể, nhất là việc chăm sóc rừng gần như vẫn
không thay đổi, do người dân vẫn quan niệm đây là đất chung của cộng đồng, không phải của
cá nhân nên không cần chăm sóc. Các hoạt động chăm sóc rừng chủ yếu là phát thực bì, dây leo.
Số công chăm sóc chỉ chiếm khoảng 10% tổng số công chăm sóc, bảo vệ rừng. Việc bảo vệ ở
hầu hết các cộng đồng chủ yếu được tổ chức dưới hình thức tổ, đội cắt cử người trong cộng đồng
thay nhau đi tuần tra, một tuần đi kiểm tra khoảng 1 đến 2 lần. Việc tuần tra, chăm sóc, bảo vệ
rừng được thực hiện theo quy ước của cộng đồng, là trách nhiệm của tất cả các thành viên trong

cộng đồng. Việc phân công lao động trong quá trính quản lý, sử dụng đất rừng của cộng đồng

15


được thực hiện theo quy ước của các cộng đồng, tất cả người dân có trách nhiệm như nhau trong
công tác quản lý, bảo vệ, không phân biệt giữa người giàu và người nghèo.
4.3.2.2. Thay đổi nhận thức của người dân trong công tác chăm sóc, quản lý và bảo vệ
tài nguyên rừng
Bắt đầu từ năm 1994, khi tỉnh Hòa Bình thực hiện giao đất, giao rừng cho các cộng đồng
thì các vi phạm như số vụ cháy rừng, khai thác trộm hay lấn chiếm đất rừng đã giảm đi đáng kể.
50
45
40
35
30
25
20
15
10
5
0
Số vụ cháy
Số vụ khai thác trộm
Số trường hợp lấn chiếm

vụ

Năm 1994
26

43
46

Năm 2007
18
30
30

Năm 2015
2
8
23

Biểu đồ 4.2. Thống kê số vụ vi phạm trong quản lý, sửa dụng đất rừng dựa vào cộng đồng

Cuộc sống của đồng bào dân tộc thiểu số còn khó khăn, phụ thuộc chủ yếu vào sản
xuất nông nghiệp nhưng lại thiếu đất sản xuất nên tình trạng đốt nương làm rẫy, người dân
lấn chiếm diện tích đất rừng của cộng đồng diễn ra rất nghiêm trọng và rất khó khăn trong
công tác giải quyết. Sau khi thực hiện giao đất cho cộng đồng thôn, bản (năm 1994), tiếp
đó là thực hiện cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho các cộng đồng cùng với việc
rà soát lại diện tích đất đai và thực hiện chính sách định canh, định cư thì đã giải quyết
được một phần tình trạng lấn chiếm đất, khai thác trộm và cháy rừng.
Các vi pham còn lại chủ yếu là tình trạng người dân trong thôn lấn chiếm đất rừng của cộng
đồng.
4.3.2.3. Thay đổi nhận thức của người dân về vai trò của rừng
Cộng đồng tham gia quản lý, sử dụng đất rừng đã được hình thành từ lâu đời. Đến nay
với chính sách giao đất, giao rừng và thực hiện nhiều chính sách khác nhận thức của người
dân về vai trò của việc quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng đã được thay đổi đáng
kể. Số liệu điều tra cho thấy, đa phần người dân cho rằng việc quản lý, sử dụng đất rừng dựa
vào cộng đồng có vai trò rất lớn đối với việc duy trì và nâng cao chất lượng nguồn nước (trên

70% cho rằng rất quan trọng); trên 60% số người được hỏi cho rằng rất quan trọng đối với việc
cung cấp lâm sản ngoài gỗ chủ yếu là củi, dược liệu, măng, mây, mật ong… nhưng đa phần
người dân lại cho rằng ít quan trọng trong việc phát triển kinh tế hộ.
Bảng 4.4. Vai trò của việc quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng
ĐVT: hộ
TT

Cộng đồng

Đối với nguồn nước

Đối với kinh tế hộ

16

Đối với việc cung cấp
lâm sản ngoài gỗ


1
2
3
4

Bản Nhạc
Thôn Đúc
Thôn Củ
Thôn Thung 2

Rất

quan
trọng
28
28
36
34

5

Xóm Suối Bến

29

18

0

4

13

30

155
70,8

64
29,2

0

0

29
13,2

61
27,9

129
58,9

Tổng
Tỷ lệ (%)

8
11
13
14

ít
quan
trọng
0
0
0
0

Rất
quan
trọng

3
4
10
8

Quan
trọng

11
11
11
15

ít
quan
trọng
22
24
28
25

Rất
quan
trọng
20
26
31
29

Quan

trọng

13
8
12
13

ít
quan
trọng
3
5
6
6

26

16

5

132
60,3

62
28,3

25
11,4


Quan
trọng

4.3.3. Lĩnh vực môi trường
4.3.3.1. Thay đổi chất lượng rừng
Việc giao đất, giao rừng cho các cộng đồng quản lý, sử dụng cùng với các quy định
do cộng đồng đưa ra đã làm cho chất lượng rừng thay đổi rõ rệt. Các khu rừng từ khi giao
cho cộng đồng quản lý, bảo vệ hệ thực vật tái sinh và phát triển rất tốt, xuất hiện nhiều tầng
tán và thảm tươi, tầng thảm mùn dưới đất rừng. Đây là một yếu tố quan trọng trong việc
làm giảm sức công phá của nước mưa xuống bề mặt đất đồng thời làm giảm tốc độ dòng
chảy, hạn chế xói mòn đất, và tăng khả năng giữ nước của rừng. Biểu hiện cụ thể bằng mắt
thường có thể nhìn thấy được và kết quả phỏng vấn người dân được thể hiện qua bảng 4.5.
Bảng 4.5. Ý kiến của cộng đồng về chất lượng rừng
STT

Cộng đồng

Tốt hơn
(hộ)
32
36
42

88,9
92,3
85,7

Không thay
đổi (hộ)
4

3
7

Tỷ lệ
(%)
11,1
7,7
14,3

Kém đi
(hộ)
0
0
0

Tỷ lệ
(%)
0
0
0

Tỷ lệ (%)

1
2
3

Bản Nhạc
Thôn Đúc
Thôn Củ


4

Thôn Thung 2

40

83,3

8

16,7

0

0

5

Xóm Suối Bến
Tổng

39
189

83,0
86,3

8
30


17,0
13,7

0
0

0
0

Kết quả điều tra cho thấy đa phần người dân trong các bản (86,3%) cho rằng chất
lượng rừng tốt hơn so với trước đây, không có ai đánh giá chất lượng rừng kém đi. Điều
này cho thấy việc giao đất, giao rừng cho cộng đồng quản lý, sử dụng đã góp phần nâng
cao chất lượng rừng.
4.3.3.2. Giảm xói mòn đất
Bằng phương pháp đánh giá định tính (sự xuất hiện các khe rãnh, khe xói mòn, tỷ lệ lớp
đất mặt bị rửa trôi và sự hình thành lớp phủ thực vật) thông qua việc phỏng vấn người dân, nhằm
đánh giá gián tiếp của sự xói mòn đất. Kết quả điều tra được thể hiện qua bảng 4.6.
Bảng 4.6. Ý kiến của cộng đồng về mức độ xói mòn đất
STT
1

Cộng đồng
Bản Nhạc

Giảm đi
(hộ)

Tỷ lệ
(%)


29

80,6

17

Không
thay đổi
(hộ)
6

Tỷ lệ
(%)

Tăng
lên (hộ)

Tỷ lệ
(%)

16,7

1

2,8


2


Thôn Đúc

30

76,9

7

17,9

2

5,1

3

Thôn Củ

39

79,6

8

16,3

2

4,1


4

Thôn Thung 2

40

83,3

6

12,5

2

4,2

5

Xóm Suối Bến

35

74,5

9

19,1

3


6,4

Tổng

173

79,0

36

16,4

10

4,6

Kết quả điều tra cho thấy có 79,0% số người được hỏi cho rằng rừng cộng đồng góp
phần làm hạn chế xói mòn đất biểu hiện chính là không còn hoặc còn rất ít hiện tượng ruộng
đất bị tạo các khe xói, lớp đất mặt không bị rửa trôi. Chỉ có 4,6% người được hỏi cho rằng
mức độ xói mòn tăng lên do những hộ này đã bị cuốn trôi diện tích hoa màu và đất bị rửa
trôi mạnh trong một trận mưa lớn.
4.3.3.3. Thay đổi chất lượng nguồn nước
Nguồn nước để phục vụ cho sản xuất và sinh hoạt của các cộng đồng đồng bào dân
tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh Hòa Bình phụ thuộc rất lớn vào tự nhiên, chủ yếu là từ các sông,
suối. Tuy nhiên, nguồn nước này hiện nay đang có xu hướng bị suy giảm về chất lượng do
việc sử dụng hóa chất của người dân trong canh tác nông nghiệp. Việc sử dụng hóa chất (đặc
biệt là thuốc trừ cỏ) trong canh tác những diện tích đất nông nghiệp ở đầu nguồn gây lên tình
trạng ô nhiễm.. Kết quả điều tra cho thấy trên 42% người dân cho rằng nguồn nước kém hơn
so với trước đây, chỉ có một phần nhỏ khoảng 15% số người được hỏi cho rằng tốt hơn. Điều
này cho thấy cần phải có sự quan tâm hơn nữa đến những diện tích rừng đầu nguồn, bảo vệ

nguồn nước để đảm bảo nguồn nước phục vụ cho sản xuất và sinh hoạt của các cộng đồng.
Bảng 4.7. Ý kiến của cộng đồng về chất lượng nguồn nước
Tiêu chí
Tốt hơn
Không thay đổi
Kém hơn
Tổng

Nước cho sản xuất
Số hộ (hộ)
Tỷ lệ (%)
35
16,0
91
41,6
93
42,5
219
100,0

Nước cho sinh hoạt
Số hộ (hộ)
Tỷ lệ (%)
33
15,1
87
39,7
99
45,2
219

100,0

4.4. ĐÁNH GIÁ MỘT SỐ YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN CÔNG TÁC QUẢN LÝ, SỬ
DỤNG ĐẤT RỪNG DỰA VÀO CỘNG ĐỒNG TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH HÒA BÌNH
4.4.1. Xác định các yếu tố ảnh hưởng đến công tác quản lý, sử dụng đất rừng dựa
vào cộng đồng trên địa bàn tỉnh Hoà Bình
Nghiên cứu lý thuyết và điều tra, phỏng vấn trực tiếp 41 cán bộ của địa phương có
liên quan đến công tác quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng cho thấy có 4 nhóm
yếu tố với 29 yếu tố có ảnh hưởng đến công tác quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng
đồng là: Nhóm những quy định của pháp luật (9 yếu tố); nhóm yếu tố tự nhiên và cơ sở hạ
tầng (7 yếu tố); nhóm yếu tố kinh tế (8 yếu tố) và nhóm yếu tố xã hội (5 yếu tố).
4.4.2. Phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến công tác quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào
cộng đồng tại tỉnh Hòa Bình

18


* Kết quả phân tích nhân tố khám phá
- Kết quả kiểm định chất lượng thang đo: Để kiểm định độ tin cậy của thang đo,
nghiên cứu sử dụng kiểm định Cronbach’s Alpha. Các biến quan sát có thể hiện được ý
nghĩa của nhân tố hay không chính là độ tin cậy của thang đo. Hệ số Cronbach’s Alpha lớn
hơn 0,6 khi đo thang đo được cho là phù hợp, đảm bảo độ tin cậy.
Bảng 4.8. Kết quả kiểm định chất lượng thang đo Cronbach’ Alpha của các biến đặc trưng
Tên biến

TT

Ký hiệu biến

Cronbach’s Alpha


1

Yếu tố quy định của pháp luật

PL

0,873

2

Yếu tố điều kiện tự nhiên

TN

0,809

3

Yếu tố kinh tế

KT

0,890

4

Yếu tố xã hội

XH


0,852

Kết quả phân tích số liệu cho thấy, giá trị Cronchbach’s Alpha của các biến đặc trưng
đều lớn hơn 0,6 cho thấy số liệu điều tra là phù hợp, đảm bảo độ tin cậy của nghiên cứu.
- Kết quả kiểm định mức độ phù hợp của mô hình: Hệ số KMO (Kaiser- MeyerOlkin) được dùng để đánh giá sự thích hợp của mô hình khi sử dụng mô hình nhân tố khám
phá EFA. Khi 0,5 ≤ KMO ≤ 1 thì mô hình được cho là phù hợp.
Bảng 4.9. Kết quả kiểm định KMO và Bartlett
Kiểm định Bartlett

Trị số KMO
Kiểm định Chi bình phương

0,901
2723,019

Tổng bình phương các sai lệch (df)

406

Mức ý nghĩa (Sig.)

0,000

Kết quả nghiên cứu cho thấy KMO = 0,901 đã thỏa mãn điều kiện 0,5 < KMO < 1
như vậy dữ liệu thực tế trong nghiên cứu này phù hợp cho phân tích EFA. Bên cạnh đó,
kết quả kiểm định Bartlett có Sig. = 0,000 ≤ 0,05. Đây là kiểm định được sử dụng để đánh
giá mức về độ tương quan giữa các biến quan sát trong tổng thể. Nghĩa là các biến quan
sát có tương quan tuyến tính với nhân tố đại diện (Bảng 4.9). Như vậy, các biến quan sát
có tương quan tuyến tính với nhân tố đại diện với mức ý nghĩa 99%.

- Kết quả kiểm định mức độ giải thích của các biến quan sát: kết quả kiểm định mức
độ giải thích của các biến quan sát đại diện với mức ý nghĩa 99%, sử dụng để đánh giá mức
về độ tương quan giữa các biến quan sát trong tổng thể. Giá trị phương sai trích là 54,088,
nghĩa là 54,088% sự thay đổi của kết quả được giải thích bởi các biến quan sát.
Kết quả chạy ma trận nhân tố xoay cho thấy các biến đặc trưng đều có hệ số tải nhân
tố lớn hơn 0,5. Điều này khẳng định các nhân tố đã lựa chọn đưa vào mô hình đều ảnh
hưởng đến kết quả. Qua đó nhận diện được 4 thang đo đại diện cho các yếu tố ảnh hưởng
đến công tác quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng. Các nhóm nhân tố ban đầu
được sắp xếp lại thành 4 nhóm nhân tố được thể hiện ở bảng 4.10.
Bảng 4.10. Mô hình điều chỉnh qua kiểm định Cronbach Alpha và EFA
Nhân tố
1

Thang đo
F_PL

2

F_TN

3

F_KT

Biến đặc trưng
PL1, PL2, PL3, PL4, PL5,
PL6, PL7, PL8, PL9
TN1, TN2, TN3, TN4, TN5,
TN6, TN7
KT1, KT2, KT3, KT4, KT5,

KT6, KT7, KT8

Giải thích thang đo
Yếu tố pháp luật ảnh hưởng đến QLSDĐRDVCĐ
Yếu tố tự nhiên, cơ sở hạ tầng của đất rừng ảnh hưởng
đến QLSDĐRDVCĐ
Yếu tố điều kiện kinh tế ảnh hưởng đến
QLSDĐRDVCĐ

19


4

F_XH

Yếu tố xã hội ảnh hưởng đến QLSDĐRDVCĐ

XH1, XH2, XH3, XH4, XH5

* Kết quả phân tích hồi quy đa biến
Kết quả nghiên cứu cho thấy kiểm định F với mức ý nghĩa (Sig.) = 0,000 < 0,01,
điều này cho thấy mô hình hồi quy luôn tồn tại các biến độc lập có tương quan tuyến tính
với biến phụ thuộc với mức độ tin cậy 99%. Hệ số VIF (hệ số phóng đại phương sai) đều
nhỏ hơn 10, nghĩa là các biến độc lập không có tương quan với nhau và mô hình hồi quy
không có hiện tượng đa cộng tuyến của các biến độc lập. Hệ số Durbin Watson 1<3, như vậy mô hình hồi quy không có hiện tượng tự tương quan. Bên cạnh đó hệ số tương
quan R bình phương hiệu chỉnh = 0,745 cho biết các biến độc lập trong mô hình có thể giải
thích được 74,5% sự thay đổi của biến phục thuộc. Hay 74,5% kết quả công tác QLSD đất
rừng dựa vào cộng đồng chịu ảnh hưởng bởi 4 nhóm nhân tố nói trên, còn lại 25,5% sự

thay đổi ảnh hưởng bởi các nhân tố khác chưa xác định được.
Bảng 4.11. Kết quả hệ số hồi quy (Coefficientsa)

Mô hình

(Constant)
F_XH
F_PL
F_KT
F_TN

Hệ số hồi quy
chưa chuẩn hóa
(Unstandardized
Coeffcients)
Sai số
β
(Std. Error)
0,379
0,144
0,236
0,025
0,314
0,032
0,086
0,035
0,303
0,038

Hệ số hồi quy

chuẩn hóa
(Standardized
Coeffcients)
Beta

0,369
0,382
0,108
0,330

t

2,638
9,488
9,638
2,453
8,026

Mức ý
nghĩa
(Sig.)
0,009
0,000
0,000
0,015
0,000

Thống kê đa cộng tuyến
(Collinearity Statistics)
Tolerance


VIF

0,773
0,787
0,600
0,693

1,293
1,271
1,666
1,443

- Biến phụ thuộc: Công tác QLSDĐRDVCĐ (KQ)
- Hệ số tương quan R bình phương (R Square): 0,750
- Hệ số tương quan R bình phương hiệu chỉnh: 0,745
- Kiểm định F với mức ý nghĩa: (Sig.) = 0,000
- DurbinWatson: 2,116
- Dung lượng mẫu: N = 219

Kết quả hồi quy cũng cho thấy, cả 4 biến độc lập đều có ý nghĩa thống kê ở mức độ
tin cậy 95% (Sig = 0,000 < 0,05). Do đó, hàm hồi quy được viết lại như sau:
KQ = 0,379 + 0,314*F_PL + 0,303*F_TN + 0,236*F_XH + 0,086*F_KT
Kết quả phân tích trên cho thấy, cả 4 nhóm yếu tố đều có ảnh hưởng đến QLSD đất
rừng dựa vào cộng đồng. Trong đó, nhóm yếu tố những quy định của pháp luật (F_PL) có
ảnh hưởng lớn nhất, sau đó đến nhóm yếu tố tự nhiên, nhóm yếu tố xã hội và ảnh hưởng ít
nhất là nhóm yếu tố điều kiện kinh tế.
4.4.3. Mức độ ảnh hưởng của các yếu tố đến công tác quản lý, sử dụng đất rừng dựa
vào cộng đồng
Mức độ ảnh hưởng của các yếu tố đến công tác quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào

cộng đồng được thể hiện qua bảng 4.12.
Bảng 4.12. Mức độ ảnh hưởng của các yếu tố đến công tác quản lý, sử dụng đất rừng
Yếu tố

Ký hiệu

1
2

Yếu tố quy định của pháp luật
Yếu tố điều kiện tự nhiên, cơ sở hạ tầng

3
4

Yếu tố kinh tế
Yếu tố xã hội

F_PL
F_TN
F_KT
F_XH

STT

20

Giá trị
tuyệt đối
0,314

0,303
0,086
0,236

Mức độ
ảnh hưởng (%)
33,44
32,27
9,16
25,13

Thứ tự ảnh
hưởng
1
2
4
3


Tổng

0,937

100,00

Số liệu thống kê cho thấy mức độ ảnh hưởng của các nhóm yếu tố đến công tác quản
lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng trên địa bàn tỉnh Hòa Bình được sắp xếp theo thứ tự
sau: Thứ nhất: Nhóm yếu tố quy định của pháp luật; thứ hai: Nhóm yếu tố điều kiện tự nhiên,
cơ sở hạ tầng; thứ ba: Nhóm yếu tố xã hội; thứ tư: Nhóm yếu tố kinh tế.
4.5. PHÂN TÍCH SWOT VÀ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN CÔNG TÁC

QUẢN LÝ, SỬ DỤNG ĐẤT RỪNG DỰA VÀO CỘNG ĐỒNG TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH
HÒA BÌNH
4.5.1. Phân tích SWOT trong công tác quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng
Căn cứ vào kết quả đánh giá công tác quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng ở
phần trên, nhằm chỉ ra một cách tổng thể các điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và thác thức trong
quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng làm cơ sở đề xuất giải pháp hoàn thiện công
tác quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng tại địa phương.
Điểm mạnh (S)
- Điều kiện đất đai, khí hậu thuận lợi cho việc sử
dụng đất rừng.
- Có tiềm năng trong việc quản lý, sử dụng đất
rừng dựa vào cộng đồng.
- Có tiềm năng đất đai cho phát triển hình thức
quản lý, sử dụng dựa vào cộng đồng.
- Các cộng đồng có truyền thống quản lý, sử dụng
đất từ lâu đời.
- Công tác quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng
đồng đã góp phần cải thiện thu nhập nhất là đối với
người nghèo, thay đổi nhận thức của người dân về
vai trò của rừng, thay đổi sự phân công lao động
trong cộng đồng.
Cơ hội (O)
- Hình thành các chuỗi liên kết trong quá trình
quản lý, sử dụng đất rừng (Đồng quản lý; mối liên
kết trong tiêu thụ sản phẩm hàng hóa, dịch vụ…).
- Phương thức quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào
cộng đồng được quan tâm nhiều hơn do ở nhiều
địa phương nó đã phát huy được hiệu quả.

Điểm yếu (W)

- Chính sách, pháp luật có liên quan đến công tác quản lý,
sử dụng đất rừng còn chưa có những quy định cụ thể cho
đối tượng là cộng đồng dân cư.
- Diện tích đất rừng đã được cấp giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất còn ít, các quyền sử dụng đất của cộng đồng
bị giới hạn.
- Đất rừng giao cho các cộng đồng có địa hình hiểm trở, xã
khu dân cư, điều kiện hạ tầng còn thiếu và khó khăn.
- Đất rừng giao cho cộng đồng là đất rừng tự nhiên nghèo
kiệt, nguồn tài nguyên từ rừng hạn chế, nguồn thu từ rừng
ít, chiếm tỷ lệ nhỏ trong tổng thu nhập hộ.
- Thị trường các sản phẩm thu được từ rừng cộng còn bấp
bênh.
Thách thức (T)
- Các quy định của pháp luật về quyền sử dụng đất của
cộng đồng khó thay đổi.
- Việc mở rộng diện tích đất rừng giao cho các cộng đồng
khó khăn.
- Nguồn thu trong tương lai từ đất rừng khó có thể tăng do
các nguồn lợi từ rừng ngày càng khan hiếm.
- Việc mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm rất khó khăn.

4.5.2. Giải pháp nhằm hoàn thiện công tác quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào
cộng đồng
4.5.2.1. Hoàn thiện và thực thi chính sách, pháp luật liên quan đến công tác quản lý, sử
dụng đất rừng dựa vào cộng đồng
- Ban hành quy định về tăng quỹ đất để giao cho các cộng đồng từ các diện tích đã giao
cho UBND các xã quản lý, sử dụng không hiệu quả hoặc từ diện tích đất do các tổ chức khác
quản lý, sử dụng nhưng không hiệu quả. Bên cạnh đó, cần có quy định giao cho cộng đồng
các diện tích đất rừng có nguồn tài nguyên phong phú hơn như đất rừng sản xuất; đất rừng

phòng hộ là rừng sản xuất cho cộng đồng thay vì chỉ giao đất rừng tự nhiên.
- Ban hành quy định, khi cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì ghi tên người sử
dụng đất là tên cộng đồng cụ thể, không ghi tên người đại diện cộng đồng như hiện nay để tránh
tình trạng tranh chấp về quyền và nghĩa vụ như tại một số cộng đồng.Đồng thời, đẩy nhanh tiến
độ giao đất, giao rừng, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho các cộng đồng nhằm tạo
được sự ổn định trong việc quản lý, sử dụng đất rừng của các cộng đồng.

21


- Hoàn thiện những quy định về hưởng lợi và hỗ trợ, đầu tư cho đối tượng là cộng
đồng như cho phép cộng đồng được thực hiện thế chấp đất rừng để vay vốn tại các tổ chức
tín dụng hay góp vốn bằng quyền sử dụng đất để phát triển rừng nâng cao thu nhập.
4.5.2.2. Khắc phục những khó khăn về điều kiện tự nhiên, cơ sở hạ tầng
- Cơ quan nhà nước có thẩm quyền nên xem xét giao cho các cộng đồng đất rừng có
diện tích phù hợp hơn và gần nơi cư trú của cộng đồng hơn để quản lý, sử dụng đất rừng
được thuận tiện hơn, bớt thời gian và chi phí đi lại. Bên cạnh đó, Nhà nước cũng nên hỗ trợ
cộng đồng một phần chi phí đi lại trong quá trình quản lý, khai thác rừng hoặc đổi cho cộng
đồng những diện tích đất có điều kiện tự nhiên và cơ sở hạ tầng thuận lợi hơn như tại các
bản Nhạc (xã Đồng Chum), thôn Thung 2 (xã Quý Hoà)…
- Để việc đi lại được thuận tiện hơn, Nhà nước cần quan tâm đầu tư xây dựng, nâng
cấp hệ thống cơ sở hạ tầng nông thôn, nhất là hệ thống giao thông nông thôn như tại thôn Củ
(xã Tú Sơn), thôn Thung 2 (xã Quý Hoà), bản Nhạc (xã Đồng Chum).
4.5.2.3. Nâng cao vai trò của các tổ chức xã hội trong cộng đồng
- Phát huy hơn nữa những kiến thức bản địa của người dân địa phương trong công tác
quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng. Nên sửa đổi, bổ sung quy chế của cộng đồng
trong quản lý, sử dụng đất rừng cho phù hợp với phong tục, tập quán và thế mạnh của từng
cộng đồng. Cụ thể, đối với cộng đồng người Mường và người Dao do có truyền thống khai
thác và chế biến cây thuốc nên có thể tăng thêm khối lượng sản phẩm dược liệu được khai
thác từ rừng để người dân có thêm thu nhập. Cộng đồng người Tày chủ yếu sống ở vùng núi

cao, rừng cộng đồng chủ yếu là rừng truyền thống, gắn với yếu tố tâm linh nên không cho
người ngoài thôn/bản vào khai thác.
- Trong quá trình quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng cần phát huy hơn nữa vai trò,
tinh thần trách nhiệm của những người đứng đầu các địa phương, nhất là các già làng, trưởng bản,
người đứng đầu các tổ chức chính trị, xã hội hay những người khác có uy tín trong cộng đồng.
4.5.2.4. Tăng cường các hoạt động làm thay đổi điều kiện kinh tế
- Khuyến khích người dân trong cộng đồng thay đổi cơ cấu nguồn thu nhập, hạn chế
phụ thuộc vào rừng bằng cách chuyển sang hoạt động ở các lĩnh vực kinh tế khác như: sản
xuất nông nghiệp, chăn nuôi, dịch vụ,… để nâng cao nguồn thu nhập cho người dân. Đối
với các hộ nghèo và cận nghèo do họ sống phụ thuộc nhiều vào rừng nên có thể tập trung
phân công các công việc có liên quan đến quản lý rừng cộng đồng cho những người này
để họ có thêm các nguồn thu nhập khác ngoài việc khai thác các sản phẩm
từ rừng, từ đó giảm mức phụ thuộc vào rừng vừa cải thiện điều kiện kinh tế hộ của các gia
đình.
- Do đất rừng các cộng đồng được giao quản lý, sử dụng dù đã được cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất hay chưa thì theo quy định đều không có quyền được thế chấp, góp
vốn. Chính vì vậy, để cộng đồng có vốn sản xuất cần mở rộng thêm các quyền của cộng
đồng (có thể cho các cộng đồng được góp vốn bằng quyền sử dụng đất để liên doanh, liên
kết hoặc thế chấp quyền sử dụng đất để có vốn thực hiện công tác quản lý, sử dụng đất). Nên
có chính sách ưu đãi đối với các cộng đồng trong hỗ trợ nguồn vốn.
- Cần mở rộng thị trường các sản phẩm lâm sản mà người dân tại các cộng đồng khai
thác được từ rừng. Khuyến khích cộng đồng thực hiện các hình thức liên kết (liên kết giữa các
cộng đồng với nhau, giữa cộng đồng với các cá nhân, cộng đồng với các doanh nghiệp, tổ
chức...) để đảm bảo nguồn lâm sản của người dân khai thác đem lại hiệu quả cao nhất.
- Mở rộng các diện tích đất rừng của các cộng đồng tham gia các dịch vụ như: du
lịch sinh thái, giải trí, hấp thu và lưu giữ các bon… Cần tính toán cụ thể để nâng cao mức

22



chi trả dịch vụ môi trường rừng xứng đáng với công sức của cộng đồng và có thể tạo nguồn
thu cho các cá nhân trong cộng đồng. Tạo động lực để cộng đồng tham gia tích cực hơn
vào chăm sóc, bảo vệ rừng của cộng đồng.
- Mở rộng hình thức bán thuốc, chữa bệnh theo kinh nghiệm dân gian kết hợp với
du lịch sinh thái, nghỉ ngơi để thu hút nhiều người đến cộng động và có thời gian lưu trú
dài hơn góp phần tăng thu nhập từ dịch vụ như tại cộng đồng người Dao và cộng đồng
người Mường.
PHẦN 5. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
5.1. KẾT LUẬN
1) Hòa Bình là một tỉnh miền núi phía Bắc của Việt Nam, có vị trí địa lý và giao thông
thuận lợi. Nguồn tài nguyên phong phú với diện tích tự nhiên lớn, trong đó diện tích đất rừng
là 296.288 ha (chiếm 64,54% tổng diện tích tự nhiên của toàn tỉnh). Trên địa bàn tỉnh có nhiều
dân tộc cùng sinh sống, trong đó chủ yếu là dân tộc Mường (chiếm 60% dân số toàn tỉnh), dân
tộc Kinh (chiếm 30% dân số toàn tỉnh), còn lại là người Dao, người Tày, người Thái và người
Mông. Quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng trên địa bàn tỉnh Hòa Bình là một phương
thức sử dụng đất đã có từ lâu đời và chịu ảnh hưởng rõ nét từ các điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội nơi các cộng đồng sinh sống và tham gia quản lý, sử dụng đất rừng.
2) Trên địa bàn tỉnh Hòa Bình đã thực hiện giao đất, giao rừng cho các cộng đồng
dân cư quản lý, sử dụng với diện tích 48.576 ha (chiếm 16,39% diện tích đất rừng của toàn
tỉnh) và đứng thứ hai về diện tích sau diện tích đã giao cho hộ gia đình, cá nhân. Tuy nhiên,
chỉ có 42,44% tổng diện tích đất rừng của các cộng đồng được cấp giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất, còn lại chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Tất cả các cộng
đồng trên địa bàn tỉnh Hòa Bình đã xây được các quy ước quản lý, sử dụng đất rừng và
hàng năm các cấp chính quyền đều thực hiện triển khai tuyên truyền đến từng người dân
trong các cộng đồng. Việc hưởng lợi các sản phẩm từ đất rừng cộng đồng đều được thực
hiện theo quy ước với các sản phẩm chủ yếu là lâm sản ngoài gỗ.
3) Quản lý, sử dụng đất rừng cộng đồng trên địa bàn tỉnh Hòa Bình góp phần tăng thu
nhập cho người dân trong cộng đồng, góp phần ổn định sinh kế của người dân. Mặc dù vậy,
tỷ lệ thu nhập từ diện tích đất rừng trung bình của các hộ không cao, chỉ chiếm khoảng 9,26%
đến 16,59%; đối với các hộ khá và giàu thì thu nhập từ rừng cộng đồng chỉ đóng góp khoảng
4,00% tổng thu nhập của hộ; nhưng đối với các hộ nghèo và cận nghèo thì đây là một nguồn

thu đáng kể, chiếm khoảng từ 17,71% đến 21,80% tổng thu nhập của hộ. Nguyên nhân chủ
yếu là do các nguồn lợi trực tiếp từ rừng ngày càng suy giảm, cơ chế quản lý, sử dụng đất chưa
phù hợp, các nguồn lợi khác từ rừng như các dịch vụ chi trả môi trường rừng, du lịch, dịch vụ
các bon… chưa được triển khai thực hiện hoặc đã được thực hiện nhưng còn hạn chế, mức chi
trả còn rất thấp, thiếu cơ chế quản lý, sử dụng. Việc quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng
đồng đã góp phần thay đổi cơ cấu sử dụng lao động tại địa phương. Nhận thức của người dân
trong công tác quản lý, sử dụng đất rừng dựa vào cộng đồng cũng thay đổi. Những trường hợp
vi phạm quy chế quản lý, sử dụng đất rừng cộng đồng đã giảm đáng kể. Công tác giải quyết
những tranh chấp, lấn chiếm đất rừng của cộng đồng vẫn còn rất phức tạp, số vụ lấn chiếm đất
rừng của cộng đồng có giảm nhưng mới được khoảng 50%.
4) Kết quả điều tra, khảo sát cho thấy có29 yếu tố thuộc 4 nhóm yếu tố có ảnh hưởng
đến công tác QLSD đất rừng dựa vào cộng đồng, bao gồm: Nhóm yếu tố liên quan đến
pháp luật; nhóm yếu tố điều kiện tự nhiên, cơ sở hạ tầng; nhóm yếu tố kinh tế và nhóm yếu
tố xã hội. Kết quả chạy mô hình EFA cho thấy cả 4 nhóm yếu tố trên đều ảnh hưởng đến

23


×