Tải bản đầy đủ (.docx) (53 trang)

Chính thể Việt Nam Hiến pháp 1946 so sánh với chính thể một số nước trên thế giới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (327.16 KB, 53 trang )

Chính thể Việt Nam Hiến pháp 1946 so sánh với
chính thể một số nớc trên thế giới
2.1. Khái quát về chính thể Nhà nớc Việt Nam Hiến pháp
1946
2.1.1. T tởng về các mô hình chính thể Nhà nớc ở Việt Nam trớc
cách mạng tháng Tám năm 1945
Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, nhân dân Việt Nam đang rên xiết dới ách
áp bức, bóc lột nặng nề của chính quyền thực dân phong kiến: su cao, thuế nặng,
các quyền tự do, dân chỉ bị chà đạp. Chính quyền phong kiến nhà Nguyễn đồi bại,
nhu nhợc. Nhân dân trong cảnh mất nớc, nhà tan, sống kiếp ngời nô lệ. Trớc tình
hình đó, một câu hỏi lớn đợc đặt ra là làm thế nào để đánh đuổi thực dân Pháp, lật
đổ chế độ phong kiến nhà Nguyễn thối nát, giành độc lập, tự do cho dân tộc, đem
lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc, các quyền tự do cho nhân dân.
Do đó, vào giai đoạn này ở nớc ta đã xuất hiện những dòng t tởng mới và
các cuộc vận động cách mạng lớn. Những trào lu t tởng và các cuộc vận động
cách mạng đều có chung mục đích là đánh đuổi thực dân pháp, giành độc lập dân
tộc. Tuy nhiên, phơng pháp và đờng lối cách mạng thì lại khác nhau, trong đó vấn
đề cơ bản, quan trọng nhất là việc xác định một mô hình tổ chức nhà nớc sẽ đợc
xây dựng sau khi giành đợc chính quyền.
Với ý thức hệ phong kiến, dới chiếu Cần Vơng của Vua Hàm Nghi, các sĩ
phu phong kiến đã hăng hái phát động phong trào chống Pháp, chủ trơng "khôi
phục lại nớc Việt Nam cũ" [37;12]. Thực chất, phong trào Cần Vơng chủ trơng
xây dựng lại Nhà nớc quân chủ phong kiến ở Việt Nam nhằm khôi phục và bảo vệ
quyền lợi của giai cấp phong kiến. Phong trào phát triển đợc một thời gian thì bị
đàn áp và thất bại. Một trong những nguyên nhân chủ yếu là hình thức nhà nớc
phong kiến không còn phù hợp với trào lu chung của thế giới và sự phát triển tất
yếu của lịch sử Việt Nam. Thực tế ở Việt Nam, triều đình nhà Nguyễn bất lực,
thối nát... nên đã không tranh thủ đợc sự ủng hộ của nhân dân lao động.
Ngời anh hùng Yên thế Hoàng Hoa Thám nổi dậy vũ trang chống Pháp,
song "còn nặng cốt cách phong kiến" nên cũng thất bại. [33;12]
Đầu thế kỷ XX, phong trào cách mạng t sản đã ảnh hởng đến Việt Nam,


làm xuất hiện những dòng t tởng mang màu sắc mới của các nhà yêu nớc, nh:
Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh... với các phong trào Đông Du, Đông kinh nghĩa
thục, Duy Tân...
Trong giới trí thức Việt Nam lúc này đã xuất hiện t tởng lập hiến. Phạm
Quỳnh và Bùi Quang Chiêu bênh vực chế độ vua quan cũ, cho rằng mặc dù chế độ
này còn có nhiều lệ tục, ngời ta vẫn có thể cải tiến chế độ cũ bằng cách áp dụng
chế độ quân chủ lập hiến, nghĩa là ban hành một bản hiến pháp để hạn chế quyền
lực của Hoàng đế Việt Nam. Theo t tởng của hai ông thì phải xây dựng một bản
hiến pháp vừa bảo đảm "quyền dân chủ cho nhân dân", "quyền điều hành đất nớc"
của Hoàng đế và "quyền bảo hộ" của thực dân Pháp. Còn Nguyễn Văn Vĩnh chủ
trơng bãi bỏ chế độ vua quan ở miền Bắc và miền Trung, và đặt chúng dới quyền
cai trị của Chính phủ Pháp.
Nh vậy, thực chất t tởng của Phạm Quỳnh, Bùi Quang Chiêu và Nguyễn
Văn Vĩnh dù trình bày cách này hay cách khác, ngời chủ trơng xoá bỏ chế độ vua
quan, ngời chủ trơng thay thế chế độ quân chủ chuyên chế bằng chế độ quân chủ
lập hiến, nhng tựu trung vẫn đặt đất nớc dới sự cai trị của thực dân Pháp.
Phan Bội Châu là một đại biểu xuất sắc, ông chủ trơng cầu ngoại viện, dùng
bạo lực để khôi phục độc lập. Đầu tiên là đánh đuổi thực dân Pháp, giành lại chủ
quyền dân tộc, sau đó xây dựng ở Việt Nam một chính quyền nhà nớc quân chủ
lập hiến theo kiểu Nhật Bản hoặc một chính quyền cộng hoà dân chủ theo kiểu
phơng Tây. [38;198]. T tởng của Phan Bội Châu là đoàn kết nhân dân lao động
đánh đuổi thực dân pháp rồi tiến hành canh tân xã hội.
Khác với Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh là ngời chống đối triều đình
quyết liệt và đấu tranh cho một nền cộng hoà ở Việt Nam. Ông muốn "ỷ Pháp cầu
tiến bộ, khai thông dân trí, chấn hng dân khí để tính chuyện giải phóng [33;12].
Phan Châu Trinh chủ trơng đoàn kết nhân dân canh tân, dân chủ hoá xã hội, đánh
đổ phong kiến noi thoi phơng Tây, tự cờng dân tộc dành độc lập. Do hạn chế của
lịch sử mà cả Phan Bội Châu và Phan Chu Trinh ở mức độ khác nhau đều cha
nhận thức đợc bản chất thực sự của chủ nghĩa đế quốc. Mô hình tổ chức nhà nớc
theo khuynh hớng dân chủ t sản, mặc dù có những mặt tiến bộ nhng không phù

hợp với điều kiện cách mạng Việt Nam, và vì vậy đã không trở thành hiện thực.
Nh vậy, Phan Bội Châu và Phan Chu Trinh chủ trơng phải giành lại đợc độc
lập, tự do cho dân tộc, sau đó mới xây dựng hiến pháp của nhà nớc độc lập.
Không có độc lập, tự do thì không thể có hiến pháp thực sự.
Vào cuối những năm 20 của thế kỷ, Việt Nam Quốc dân đảng - một chính
đảng của giai cấp t sản Việt Nam ra đời chủ trơng đánh pháp, đồng thời kêu gọi
trăm họ hãy đoàn kết để xây dựng một nhà nớc cộng hoà. 'Song do đờng lối
cách mạng của Việt Nam Quốc dân đảng không phù hợp với thực tiễn Việt Nam,
nên đã đi đến thất bại.
Do hạn chế về quan điểm, t tởng cũng nh phơng pháp vận động cách mạng
nên các trào lu cách mạng đầu thế kỷ XX đều thất bại, mà một trong những
nguyên nhân chủ yếu của nó là việc xác định mô hình nhà nớc theo kiểu dân chủ
t sản hay mô hình nhà nớc quân chủ lập hiến nh trên, mặc dù có mặt tiến bộ, nhng
cha là phải là kiểu nhà nớc phù hợp với tình hình thực tế ở Việt Nam lúc bấy giờ,
vì vậy nó đã không trở thành hiện thực.'' Hay nói cách khác, các mô hình nhà nớc
trên không phù hợp với Việt Nam, bởi lẽ các nhà nớc đó chỉ có thể mang lại
quyền lợi và dân chủ cho một số ít ngời trong xã hội - đó là giai cấp t sản, tiểu t
sản và giai cấp phong kiến. Trong khi đó, yêu cầu cấp bách nhất, chủ yếu nhất của
xã hội Việt Nam lúc bấy giờ lại là sự giải phóng kiếp ngời nô lệ và đem lại cuộc
sống mới cho đại đa số nhân dân lao động [38;199].
Nh vậy, trớc Nguyễn ái Quốc, ở Việt Nam đầu thế kỷ XX cha có một mô
hình nhà nớc nào chứng tỏ đợc sự phù hợp với cách mạng Việt Nam.
Trong thời điểm đất nớc trong đêm tối, Nguyễn Tất Thành - một thanh niên
mới mời lăm tuổi đã sớm hiểu biết và rất đau xót trớc cảnh thống khổ của đồng
bào. Lúc bấy giờ, Anh đã có chí đánh đuổi thực dân Pháp giải phóng đồng bào.
Tuy rất khâm phục các nhà cách mạng đơng thời nhng Anh không tán thành với đ-
ờng lối cách mạng của họ, trong đó có vấn đề hình thức chính thể nhà nớc. Có thể
thấy rằng, vào thời điểm này đã bắt đầu hình thành trong t tởng Nguyễn Tất Thành
về một nhà nớc độc lập, có chủ quyền, biểu hiện ở chủ trơng dành độc lập dân tộc,
không chấp nhận sự cai trị của thực dân Pháp ở Việt Nam. Việc Nguyễn Tất

Thành không đồng tình với con đờng cách mạng của những nhà yêu nớc đơng
thời, trong đó có vấn đề hình thức chính thể nhà nớc, cho thấy tuy cha tìm ra một
cơ sở lý luận toàn diện, nhng bớc đầu Ngời đã nhận thấy hình thức chính thể quân
chủ chuyên chế, quân chủ lập hiến, cộng hoà dân chủ kiểu t sản không phù hợp
với con đờng cách mạng Việt Nam.
Nguyễn ái Quốc đã vợt qua các lối mòn của lịch sử, ra đi tìm đờng cứu n-
ớc theo một chiều hớng mà nhiều ngời yêu nớc đơng thời cha nghĩ tới. Nguyễn ái
Quốc đã đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, t tởng tiên tiến nhất thời đại, và ngời đã
tìm ra con đờng cứu nớc đúng đắn.
"Trong thế giới bây giờ chỉ có cách mạng tháng Mời Nga là đã thành công
và thành công đến nơi, nghĩa là dân chúng đợc hởng cái hạnh phúc tự do, bình
đẳng thật sự... Cách mạng tháng Mời Nga cho chúng ta thấy rằng muốn cách
mạng thành công thì phải dân chúng (công nông) làm gốc, phải có đảng bền vững,
phải bền gan, phải hi sinh, phải thống nhất. Nói tóm lại, phải theo chủ nghĩa Mã
Khắc T và Lênin" [19;280]. Ngời chỉ ra rằng: "Muốn cứu nớc và giải phóng dân
tộc không có con đờng nào khác là con đờng cách mạng vô sản" [23;272].
Nh vậy, Nguyễn ái Quốc đã đặt cách mạng Việt Nam vào quỹ đạo cách
mạng vô sản thế giới. Ngời viết: "Đứng trớc chủ nghĩa t bản và chủ nghĩa đế quốc,
quyền lợi của chúng ta là thống nhất" [29;128]. Cho nên, cần phải có sự liên minh
giữa các lực lợng cách mạng vô sản và cách mạng giải phóng dân tộc chống chủ
nghĩa thực dân. Điều đó quyết định đến việc thiết lập và phát triển Nhà nớc kiểu
mới ở Việt Nam. Cái nhìn có tầm vóc thời đại, cái nhìn vợt lên trên tất cả các nhà
yêu nớc Việt Nam đơng thời, chính là ở chỗ này.
Con đờng cứu nớc ấy của Nguyễn ái Quốc đã chấm dứt thời kỳ khủng
hoảng đờng lối cách mạng Việt Nam. Cách mạng Việt Nam từ đó tiến bớc theo
dòng thác tiến bộ của lịch sử.
"Luận cơng về các vấn đề dân tộc và thuộc địa" của Lênin đó soi sáng và
tạo ra bớc ngoặt phát triển trong t tởng Hồ Chí Minh, từ chủ nghĩa yêu nớc cha
định hớng sang yêu nớc theo lập trờng của chủ nghĩa Mác- Lênin.
Quá trình bôn ba tìm đờng cứu nớc, Nguyễn ái Quốc đã nhận thấy đợc hai

vấn đề quan trọng:
Một là, sự bất lực và lỗi thời của Nhà nớc phong kiến Việt Nam và sự xấu
xa, thối nát của nhà nớc t sản thể hiện sự bóc lột nhân dân lao động. Thực tế ấy đã
không cho phép ngời lựa chọn mô hình nhà nớc phong kiến và nhà nớc t sản.
Hai là, sau cách mạng tháng Mời Nga, sự xuất hiện Nhà nớc kiểu mới ở
Nga là một thực tiễn sinh động, một biến cố to lớn "có sức lôi cuối kì diệu", một
mô hình Nhà nớc mà Ngời mong muốn sẽ thiết lập ở Việt Nam.
Ngày 3/2/1930, Ngời đã lãnh đạo và đóng vai trò quyết định trong việc
thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Trong văn kiện đầu tiên của Đảng - bản
"Chính cơng vắn tắt" đã nêu lên những nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam là
"Đánh đuổi đế quốc Pháp, làm cho Việt Nam hoàn toàn độc lập, đánh đổ giai cấp
địa chủ phong kiến, đem lại ruộng đất cho nông dân, thành lập chính phủ công
nông binh..." [32;10].
Luận cơng chính trị tháng 10 - 1930 của Đảng ta đã khẳng định rõ: "Phải
xây dựng nên chính quyền Xô Viết công nông, chỉ có chính quyền Xô Viết công
nông mới là cái khí cụ mạnh mẽ đánh đổ đế quốc chủ nghĩa và phong kiến địa
chủ, làm cho dân cày có đất mà cày, làm cho vô sản có pháp luật bảo hộ cho
mình". [32;10].
Có thể nói: chính quyền công nông - một mô hình Nhà nớc vô sản mà
Nguyễn ái Quốc đã chọn là mô hình đáp ứng yêu cầu của xã hội Việt Nam, của
cách mạng Việt Nam, đó là mô hình Nhà nớc kiểu mới. Sự khẳng định trong luận
cơng chính trị năm 1930 vừa là sự ghi nhận, vừa là một định hớng cơ bản cho
cuộc đấu tranh giành chính quyền ở Việt Nam từ năm 1930 đến năm 1945.
Con đờng cách mạng quyết định kiểu nhà nớc nói chung và hình thức chính
thể nhà nớc nói riêng. Cách mạng Việt Nam không thể theo con đờng cách mạng
t sản. Điều đó cũng có nghĩa là hình thức nhà nớc sau khi giành chính quyền
không thể là hình thức chính thể nhà nớc theo kiểu nhà nớc t sản. Cách mạng Việt
Nam đi theo con đờng cách mạng vô sản cũng có nghĩa là hình thức chính thể nhà
nớc đợc thiết lập sau khi giành chính quyền là hình thức chính thể nhà nớc kiểu
mới thể hiện bản chất giai cấp vô sản của nhà nớc. Hình thức chính thể nhà nớc đó

là gì?, trong "Đờng Kách Mệnh", Nguyễn ái Quốc cha đề cập cụ thể mà chỉ đa ra
nguyên tắc chung là "làm sao cách mạng rồi thì quyền giao cho dân chúng số
nhiều". Về phơng diện hình thức chính thể nhà nớc, có thể giải mã luận điểm này
là dân chúng số nhiều phải đợc quyền tham gia vào việc thiết lập mô hình nhà nớc
tơng lai - mô hình của chính thể cộng hoà.
Với tính chất của cuộc cách mạng dân tộc, nh thế hình thức chính quyền
cũng phải thể hiện tính nhân dân. Nghị quyết Trung ơng VIII (5 - 1941) đã nêu rõ
chủ trơng: "sau lúc đánh đuổi Pháp - Nhật sẽ thành lập một Nhà nớc Việt Nam
dân chủ mới theo tinh thần tân dân chủ, chính quyền của nớc dân chủ mới ấy
không phải thuộc quyền riêng của giai cấp nào mà là của chung của toàn thể dân
tộc, chỉ trừ có bọn tay sai của đế quốc Pháp - Nhật và những bọn phản quốc, bọn
thù" [42;195].
Tháng 5/1944, trong th gửi đồng bào cả nớc, Hồ Chí Minh nhấn mạnh:
"Chúng ta trớc phải có một cơ cấu đại biểu cho sự chân thành đoàn kết và hành
động nhất biến cùng toàn thể quốc dân ta. Mà cơ cấu ấy phải do một cuộc toàn
dân đại biểu đại hội gồm tất cả các đảng phái cách mạng và đoàn thể ái quốc
trong nớc bầu ra. Một cơ cấu nh thế mới đủ lực lợng và uy tín, trong thì lãnh đạo
công việc cứu quốc, kiến quốc, ngoài thì giao thiệp với các hữu bang" [20;505].
Chơng trình Việt Minh đã xác định đờng lối cách mạng Việt Nam: "Việt
Nam độc lập đồng minh (gọi tắt là Việt Minh) chủ trơng liên hợp hết thẩy các
tầng lớp nhân dân, các đoàn thể cách mạng, các dân tộc bị áp bức đoàn kết chiến
đấu đánh đuổi chủ nghĩa đế quốc phát xít Nhật, sẽ lập nên Chính phủ nhân dân
của nớc Việt Nam dân chủ cộng hoà [20;583].
Sự chuyển biến từ hình thức Chính phủ công - nông - binh sang hình thức
Chính phủ nhân dân của nớc Việt Nam dân chủ cộng hoà trong đờng lối của
Đảng, trong t tởng Hồ Chí Minh là một bớc chuyển biến mang tính cách mạng,
xuất phát từ đặc thù của cách mạng Việt Nam. Giá trị cách mạng của sự chuyển
biến đó không phải mang tính sách lợc nhất thời, mà mang tính chiến lợc lâu dài
của cả quá trình mô hình tổ chức Nhà nớc Việt Nam. [25;28]. Sự chuyển biến
trong t tởng Hồ Chí Minh về hình thức chính thể nhà nớc cho thấy rằng, phơng

pháp t duy của Ngời luôn xuất phát từ thực tiễn khách quan, từ những điều kiện
đặc của xã hội Việt Nam mà không rập khuôn máy móc áp đặt từ những mô hình
có sẵn.
Nh vậy đến đây, t tởng Hồ Chí Minh về hình thức chính thể nhà nớc trong
con đờng cách mạng Việt Nam đã phát triển từ hình thức chính phủ công - nông -
binh đến hình thức chính phủ nhân dân của nớc Việt Nam dân chủ cộng hoà -
hình thức chính thể cộng hoà dân chủ nhân dân.
2.1.2. Cơ sở lý luận, thực tiễn và đặc điểm của chính thể cộng
hoà dân chủ nhân dân Hiến pháp 1946
Lãnh đạo nhân dân tiến hành thắng lợi cuộc cách mạng tháng Tám vĩ đại,
ngày 2/9/1945, tại quảng trờng Ba Đình lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt
Chính phủ lâm thời đọc bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nớc Việt Nam dân
chủ cộng hoà. Tuyên ngôn độc lập là văn kiện Chính trị - pháp lý thể hiện một
cách sâu sắc về một Nhà nớc độc lập, tự chủ, thống nhất, cộng hoà dân chủ nhân
dân.
Tuyên ngôn độc lập là một văn kiện lập quốc kiệt xuất của Chủ tịch Hồ Chí
Minh tuyên bố trớc thế giới rằng nớc Việt Nam đã trở thành một quốc gia độc lập,
tự chủ, thống nhất. Ngời trịnh trọng tuyên bố trớc thế giới: "Nớc Việt Nam có
quyền hởng tự do và độc lập và sự thật đã trở thành một nớc tự do và độc lập. Toàn
thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lợng, tính mạng và của cải
để giữ vững tự do độc lập ấy". [21;4]. Tuyên ngôn độc lập thể hiện rõ t tởng Hồ
Chí Minh về hình thức chính thể nhà nớc cộng hoà dân chủ nhân dân. Ngời viết:
"Dân ta đã đánh đổ chế độ quân chủ mấy mơi thế kỷ mà lập nên chế độ dân chủ
cộng hoà" [21;3].
Một nhà nớc độc lập, tự chủ, cộng hoà dân chủ nhân dân phải có một cơ sở
pháp lý để tồn tại. Một ngày sau khi đọc Tuyên ngôn độc lập, trong phiên họp đầu
tiên của Chính phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đa ra sáu nhiệm vụ cấp bách của
Nhà nớc Việt Nam dân chủ cộng hoà. Trong đó, nhiệm vụ thứ ba là: "Trớc chúng
ta đã bị chế độ quân chủ chuyên chế cai trị, rồi đến chế độ thực dân không kém
phần chuyên chế, nên nớc ta không có hiến pháp, nhân dân ta không đợc hởng

quyền tự do dân chủ. Chúng ta phải có một hiến pháp dân chủ" [21;8]. Nh vậy,
trong t tởng này, chính thể quân chủ chuyên chế hay chính thể của nhà nớc thực
dân không thể tồn tại hiến pháp - không có một hệ thống các quy tắc pháp lý tối
cao ràng buộc việc tổ chức quyền lực nhà nớc. Chính thể cộng hoà dân chủ nhân
dân, xuất phát từ bản chất của nó, phải đợc chế định hoá trong một văn bản ở một
hệ cấp pháp lý tối cao là hiến pháp, vì sự phát triển của hình thức chính thể cộng
hoà dân chủ nhân dân không thể tách rời hiến pháp, hiến pháp là dân chủ. Chính
thể cộng hoà dân chủ nhân dân phải đợc quy định trong hiến pháp là một bớc phát
triển mới về hình thức chính thể nhà nớc ở Việt Nam.
Trên tinh thần đó, ngày 20/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số
34 thành lập Ban dự thảo Hiến pháp gồm 7 ngời trong đó Bác làm trởng ban. Bản
dự thảo Hiến pháp đã đợc soạn thảo xong tháng 11/1945. Ngày 2/3/1946 Quốc hội
họp kỳ họp thứ nhất. Trong phiên họp này đã cử ra Tiểu ban dự thảo Hiến pháp do
Hồ Chí Minh đứng đầu. Tiểu ban Hiến pháp đã tiếp tục nghiên cứu dự thảo Hiến
pháp. Uỷ ban kiến quốc cũng tự nghiên cứu và đa ra một bản dự thảo.
Căn cứ vào bản dự thảo của Chính phủ đa ra, đối chiếu với bản dự thảo của
Uỷ ban kiến quốc, tập hợp những kiến nghị phong phú của toàn dân và tham khảo
kinh nghiệm về hiến pháp của các nớc, Tiểu ban dự thảo đã soạn thảo một dự án
Hiến pháp trình Quốc hội.
Tại kỳ họp thứ 2, Quốc hội Khoá I, sau nhiều buổi thảo luận tâm huyết, đến
ngày 9/11/1946 Quốc hội đã biểu quyết thông qua Hiến pháp của nớc Việt Nam
dân chủ cộng hoà với 240 đại biểu tán thành, 2 đại biểu không tán thành.
Hiến pháp đầu tiên của nớc ta là bản Hiến pháp tiến bộ đầu tiên ở Đông
Nam á, là một Hiến pháp cách mạng và dân chủ, tôn trọng và bảo đảm mọi quyền
lợi chính đáng của nhân dân, đáp ứng yêu cầu thực tế khách quan lúc bấy giờ.
Hiến pháp 1946 là cơ sở pháp lý cho chính quyền cách mạng, là cơ sở cho
việc xây dựng những luật lệ mới của nớc Việt Nam dân chủ cộng hoà. Mặt khác,
là chỗ dựa mạnh mẽ về chính trị của Nhà nớc non trẻ trong việc động viên nhân
dân đấu tranh cách mạng, là cơng lĩnh tập hợp mọi lực lợng yêu nớc, dân chủ
trong cả nớc trớc khi bớc vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.

Trên đất nớc Việt Nam hàng nghìn năm chỉ tồn tại có pháp luật phong kiến,
và gần một trăm năm chỉ có pháp luật thực dân. Nhng chỉ 14 tháng sau khi giành
đợc chính quyền, nhân dân ta đã xây dựng đợc bản Hiến pháp của mình, thể hiện
ý chí chung của toàn dân. Đó là thành tựu to lớn của nhân dân ta, Đảng ta, Nhà n-
ớc ta.
2.1.2.1. Cơ sở lý luận và thực tiễn của chính thể Hiến pháp 1946.
Thứ nhất là, chủ nghĩa yêu nớc, truyền thống dựng nớc và giữ nớc của dân
tộc, kinh nghiệm tổ chức nhà nớc trong lịch sử Việt Nam. "Dân ta có một lòng
nồng nàn yêu nớc. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xa đến nay, mỗi khi
tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô
cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lớt qua mọi sự hiểm nguy, khó khăn, nó nhấn chìm tất
cả bè lũ bán nớc và cớp nớc" [24;171]. Chủ nghĩa yêu nớc, truyền thống xây dựng
nớc và giữ nớc đã thấm đợm vào máu thịt, khắc sâu vào trong tâm trí của nhân
dân ta. Đó là nhân tố cơ bản thúc đẩy nhân dân ta vùng lên đấu tranh, đa dân tộc
thoát khỏi ách áp bức nô lệ thực dân, giành độc lập cho dân tộc, xây dựng một mô
hình tổ chức nhà nớc phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của Việt Nam.
Thứ hai là, các lý thuyết về tổ chức nhà nớc và thực tiễn tổ chức nhà nớc ở
các quốc gia tiên tiến thời bấy giờ. Học thuyết của các nhà t tởng cách mạng t sản
về tổ chức quyền lực nhà nớc, chính thể cộng hoà tổng thống ở Mỹ, chính thể
cộng hoà đại nghị ở Pháp v.v... đã ảnh hởng đến quá trình tìm kiếm một mô hình
nhà nớc phù hợp với cách mạng Việt Nam.
Thứ ba là, lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về hình thức chính thể nhà
nớc nói riêng, về nhà nớc và pháp luật nói chung là cơ sở để đánh giá, phê phán
các học thuyết về tổ chức nhà nớc cũng nh thực tiễn tổ chức nhà nớc của các nớc
t bản. Mô hình Nhà nớc vô sản mà những nhà kinh điển của chúng ta đa ra đã ảnh
hởng một cách quyết định đến quá trình Hồ Chí Minh và các đồng chí của Ngời
xác lập mô hình Nhà nớc và cách mạng Việt Nam. Mô hình Nhà nớc Xô Viết
Lênin tổng kết là một mô hình Nhà nớc mà Hồ Chí Minh mong muốn thiết lập ở
Việt Nam. Chính phủ công - nông - binh mà Ngời đặt vấn đề phải xây dựng ở Việt
Nam trong Chính cơng vắn tắt là biểu hiện của mô hình Nhà nớc Xô Viết. Tuy

nhiên, chúng ta đã không bê nguyên xi áp dụng một cách máy móc mô hình Nhà
nớc Xô Viết mà đã có sự vận dụng sáng tạo cho phù hợp với thực tế xã hội Việt
Nam.
Thứ t là, thực tiễn hoạt động cách mạng của Hồ Chí Minh. Từ thực tiễn
hoạt động cách mạng sôi nổi, phong phú, Hồ Chí Minh đã tìm ra những quy luật,
đúc kết thành lý luận. Trong những năm bôn ba ở các nớc t bản phát triển, Ngời
đã nghiên cứu cách thức tổ chức nhà nớc ở đó, phê phán những mặt tiêu cực, tiếp
thu những hạt nhân hợp lý trong quá trình xây dựng mô hình Nhà nớc cách mạng
Việt Nam. Cũng chính xuất phát từ thực tiễn hoạt động cách mạng mà Ngời đã có
những bớc phát triển lớn trong t tởng về hình thức chính thể nhà nớc trong con đ-
ờng cách mạng Việt Nam. Cụ thể là, sự chuyển biến trong t tởng của ngời từ một
Nhà nớc công - nông- binh sang Nhà nớc cộng hoà dân chủ nhân dân.
Qua nghiên cứu vị trí hình thức chính thể nhà nớc, quá trình hình thành và
phát triển, cơ sở lý luận và thực tiễn về hình thức chính thể Nhà nớc ở Việt Nam,
có thể đi đến kết luận sau:
Hình thức chính thể Nhà nớc ở Việt Nam là hệ thống những quan điểm,
luận điểm về chính thể cộng hoà dân chủ nhân dân trong sách lợc, chiến lợc cách
mạng Việt Nam hiện tại và tơng lai, dựa trên cơ sở chủ nghĩa yêu nớc, truyền
thống dựng nớc và giữ nớc của dân tộc, kinh nghiệm tổ chức nhà nớc trong lịch sử
Việt Nam; các học thuyết về tổ chức nhà nớc và thực tiễn tổ chức nhà nớc ở các
quốc gia hiện đại; lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về hình thức chính thể Nhà
nớc vô sản; thực tiễn hoạt động cách mạng của Hồ Chí Minh.
2.1.2.2. Đặc điểm của hình thức chính thể cộng hoà dân chủ nhân dân
Hiến pháp 1946.
Chính thể cộng hoà dân chủ nhân dân là sự sáng tạo vô song của Chủ tịch
Hồ Chí Minh và cách mạng Việt Nam. Cộng hoà dân chủ nhân dân thuộc loại
hình chính thể cộng hoà dân chủ, nhng không phải là cộng hoà nhân dân kiểu t
sản. Trớc Hiến pháp Việt Nam 1946, trong thế giới t bản đã tồn tại hai loại chính
thể cộng hoà dân chủ: cộng hoà tổng thống và cộng hoà đại nghị mà chúng đã đợc
nghiên cứu ở phần trên.

Chính thể cộng hoà nhân dân Hiến pháp 1946 là loại hình chính thể của
Nhà nớc vô sản, có nhiều dấu hiệu đặc thù khác về bản chất so với các hình thức
chính thể cộng hoà dân chủ kiểu t sản.
Trớc hết, chính thể cộng hoà dân chủ nhân dân Hiến pháp 1946 mang đậm
tính dân tộc, dân chủ, tính nhân dân, tính giai cấp trong sự hoà quyện thống nhất.
Dới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản và Chủ tịch Hồ Chí Minh, ngọn cờ độc
lập dân tộc đã đợc phất cao trong cách mạng tháng Tám. Toàn dân Việt Nam
không phân biệt đảng phái, tôn giáo, giầu nghèo, sang hèn đều tập hợp dới lá cờ
Việt Minh, nhất tề đứng lên làm cách mạng giành chính quyền về tay nhân dân.
Lời nói đầu của Hiến pháp 1946 đã ghi nhận kết qủa đấu tranh lâu dài,
gian khổ, ghi nhận thắng lợi của đờng lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt
Nam. Đồng thời, nêu cao ý chí của toàn dân tộc Việt Nam kiên quyết giữ gìn nền
độc lập và thống nhất tổ quốc, bảo vệ tự do và các quyền lợi của nhân dân. "Nớc
Việt Nam có quyền hởng tự do và độc lập. Toàn thể nhân dân Việt Nam quyết
đem hết tinh thần và lực lợng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do và
độc lập ấy". Hiến pháp 1946 đã đề ra những nhiệm vụ cơ bản của Nhà nớc và
nhân dân ta trong giai đoạn cách mạng mới: Nhiệm vụ của dân tộc ta trong giai
đoạn này là bảo toàn lãnh thổ, giành độc lập hoàn toàn và kiến thiết quốc gia trên
nền tảng dân chủ [14;7].
Đứng trớc những khó khăn, thử thách lớn lao của cách mạng tháng Tám,
Hiến pháp 1946 đã thể chế hoá đờng lối cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân của
Đảng. ở một nớc thuộc địa nửa phong kiến nh nớc ta, hai nhiệm vụ cách mạng
chống đế quốc và phong kiến có quan hệ khăng khít với nhau, không thể tách rời
nhau, mất độc lập, tự do là mất tất cả. Do đó, nhiệm vụ chống đế quốc, giải phóng
dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu, nhiệm vụ chống phong kiến phải tiến hành từng b-
ớc và phục tùng nhiệm vụ chống đế quốc. Trong điều kiện khó khăn, phức tạp của
nớc ta, nhiệm vụ cơ bản hàng đầu lúc đó là phải tập trung mọi lực lợng vào việc
chống đế quốc xâm lợc, giải phóng dân tộc, bảo vệ chính quyền cách mạng.
Những nguyên tắc xây dựng Hiến pháp và nhiệm vụ cách mạng nêu ra ở
lời nói đầu của Hiến pháp 1946 đã đáp ứng đợc yêu cầu của cách mạng và ý chí

của toàn dân ta lúc đó, đồng thời thể hiện tính chất dân chủ và tiến bộ của Hiến
pháp 1946. Các nguyên tắc đó thể hiện chiến lợc đoàn kết của Đảng, tập hợp và
phát huy sức mạnh của các lực lợng cách mạng trong cuộc đấu tranh vì độc lập, tự
do của dân tộc.
"Đoàn kết toàn dân, không phân biệt nòi giống, gái trai, giai cấp, tôn giáo,
bảo đảm quyền tự do dân chủ..." [14;7]. Dân tộc Việt Nam vốn có một truyền
thống yêu nớc, tinh thần đoàn kết cộng đồng. Tinh thần ấy càng đợc nhân lên
trong cuộc đấu tranh dựng nớc và giữ nớc.
Đại đoàn kết đã trở thành một nội dung quan trọng trong đờng lối chiến lợc
của Đảng, đã thấm nhuần vào suy nghĩ, hành động, tình cảm của tất cả những ng-
ời Việt Nam yêu nớc. Nó đã trở thành ngọn cờ quy tụ mọi lực lợng cách mạng của
Đảng Cộng sản Việt Nam, hớng mọi ngời suy nghĩ, hành động chung, tạo thành
sức mạnh, thành động lực tiến hoá của dân tộc.
Tính chất đại đoàn kết dân tộc của hình thức chính thể cộng hoà dân chủ
nhân dân bắt nguồn từ truyền thống lịch sử dân tộc và thực tiễn cách mạng Việt
Nam. Đoàn kết dân tộc trong quá trình dựng nớc và giữ nớc là một truyền thống
lâu đời của dân tộc ta. Cách mạng tháng Tám là cuộc cách mạng giải phóng dân
tộc, đợc tiến hành trên cơ sở khối đại đoàn kết dân tộc. Nhà nớc Việt Nam dân
chủ cộng hoà ra đời sau cách mạng tháng Tám là sản phẩm của khối đại đoàn kết
dân tộc. Xuất phát từ truyền thống và thực tiễn cách mạng, yêu cầu việc tổ chức
quyền lực nhà nớc phải phát huy đợc sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc.
Dân tộc không phải là một khái niệm trừu tợng, chung chung, phi lịch sử,
phi giai cấp. "Để làm tròn trách nhiệm lãnh đạo cách mạng, Đảng ta phải dựa vào
giai cấp công nhân, lấy liên minh công nông làm nền tảng vững chắc để đoàn kết
các tầng lớp khác trong nhân dân" [25;605]. Sau này, Hồ Chí Minh nêu thêm, lấy
liên minh công - nông - lao động trí óc làm nền tảng cho khối đại đoàn kết dân tộc
[43;165]. Nhân dân là nền tảng của khối đại đoàn kết dân tộc, là chủ thể của
quyền lực nhà nớc, quyền lực nhà nớc bắt nguồn từ nhân dân, nhà nớc chỉ là tổ
chức do dân lập ra để thực hiện quyền lực nhân dân. Do đó, nhân dân phải tham
gia vào việc tổ chức quyền lực nhà nớc.

Tính nhân dân của hình thức chính thể cộng hoà dân chủ nhân dân không
phủ nhận tính giai cấp. Một chính phủ của toàn dân không phải là một chính phủ
phi giai cấp. Bản thân khái niệm nhân dân đã mang tính giai cấp. Theo nghĩa
khoa học chặt chẽ, nhân dân là một cộng đồng ngời thay đổi trong lịch sử, bao
gồm một bộ phận, những tầng lớp, những giai cấp của c dân mà theo địa vị khách
quan của mình, có khả năng tham gia giải quyết những nhiệm vụ phát triển tiến
bộ của một nớc nhất định [16;401]. V.I. Lênin đã chỉ ra rằng, khi dùng danh từ
"nhân dân", Mác không thông qua danh từ ấy mà xoá mờ mất sự khác biệt về giai
cấp. Mác gộp danh từ ấy những thành phần nhất định, có khả năng làm cách mạng
đến cùng. Đối với Hồ Chí Minh, một chính phủ nhân dân không có nghĩa là một
chính phủ phi giai cấp không thực hiện chuyên chính cách mạng. Chủ tịch Hồ Chí
Minh không đồng nhất nhân dân với c dân của một quốc gia. Ngời viết. "Nhân
dân là bốn giai cấp: công, nông, tiểu t sản và t sản dân tộc. Dới sự lãnh đạo của
giai cấp công nhân và của Đảng, các giai cấp này đoàn kết lại bầu ra chính phủ
của mình. Đối với nội bộ nhân dân thì thực hành dân chủ. Đối với đế quốc, phong
kiến và lũ phản động thì thực hành chuyên chính chống lại chúng, đàn áp chúng...
Trong nớc Việt Nam dân chủ cộng hoà của chúng ta, tất cả mọi quyền lực đều
thuộc về nhân dân, tức là của giai cấp, công, nông, tiểu t sản, và t sản dân tộc. Bốn
giai cấp ấy do giai cấp công nhân lãnh đạo, lấy công nông liên minh làm nền tảng,
đoàn kết các giai cấp dân chủ và các dân tộc trong nớc, để thực hành dân chủ
chuyên chính [22;217].
Các nhà nớc t sản cũng tuyên bố quyền lực thuộc về nhân dân, thừa nhận
nhân dân tham gia tổ chức quyền lực nhà nớc. Nhng khái niệm nhân dân trong
chế độ dân chủ t sản chủ yếu bao gồm giai cấp có của, loại bỏ đa số quần chúng
lao động ra khỏi đời sống chính trị. Đó là sự khác nhau cơ bản giữa hình thức
chính thể dân chủ cộng hoà kiểu t sản và hình thức chính thể cộng hoà dân chủ
của Nhà nớc vô sản.
Chính thể cộng hoà dân chủ nhân dân với tính nhân dân nh trên đã bao hàm
tính định hớng xã hội chủ nghĩa. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là
một đặc điểm của chính thể cộng hoà dân chủ nhân dân. Sự lựa chọn tối u của loài

ngời về một con đờng đi bảo đảm thực hiện một lý tởng nhân văn, bảo đảm cho
mọi ngời phát triển đúng nghĩa của từ chỉ có thể là con đờng xã hội chủ nghĩa
[41;181]. Hồ Chí Minh quan niệm chủ nghĩa xã hội là sự phát triển tất yếu của xã
hội loài ngời: "Con đờng tiến tới chủ nghĩa xã hội của các dân tộc là con đờng
chung của thời đại, của lịch sử, không thể ai ngăn cản nổi" [23;449]. Cộng hoà
dân chủ nhân dân là hình thức chính trị của chuyên chính vô sản, dân chủ với
quảng đại quần chúng nhân dân, trấn áp kẻ thù của cách mạng, bảo đảm sự phát
triển của xã hội Việt Nam theo khuynh hớng tối u - xã hội xã hội chủ nghĩa. Chủ
tịch Hồ Chí Minh nói: "Mục tiêu của cách mạng là xây dựng một nớc Việt Nam
độc lập, thống nhất, tự do, giàu mạnh, làm cho nhân dân đợc hạnh phúc và xây
dựng một xã hội sung sớng, vẻ vang" [22;220]. Do đó, tổ chức Nhà nớc cách
mạng Việt Nam theo hình thức chính thể cộng hoà dân chủ nhân dân là một nhân
tố chính trị bảo đảm sự phát triển của xã hội theo con đờng xã hội chủ nghĩa.
Tính định hớng xã hội chủ nghĩa của chính thể cộng hoà dân chủ nhân dân
không thể thoát ly khỏi sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản đối với việc tổ chức quyền
lực nhà nớc. Để bảo đảm cho sự thành công của cách mạng Việt Nam, Hồ Chí
Minh xác định: "Phải có đờng lối cách mạng đúng đắn, có Đảng của giai cấp vô
sản lãnh đạo đúng. Đờng lối ấy chỉ có thể là đờng lối của chủ nghĩa Mác - Lênin
đợc vận dụng sáng tạo vào hoàn cảnh cụ thể của dân tộc. ở Việt Nam, đờng lối ấy
có thể là đờng lối của giai cấp vô sản, và Đảng đó là Đảng Lao động Việt Nam"
[26;493]. Sự lãnh đạo của Đảng bao gồm sự lãnh đạo Nhà nớc nói chung và tổ
chức quyền lực nhà nớc nói riêng. Xây dựng chính thể Nhà nớc cộng hoà dân chủ
nhân dân đặt dới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản nghĩa là Đảng Cộng sản Việt
Nam đa ra những quan điểm, đờng lối mang tính định hớng cho việc tổ chức
quyền lực nhà nớc để bảo đảm mục tiêu phát triển xã hội theo con đờng xã hội
chủ nghĩa.
Chủ tịch Hồ chí Minh hiểu rõ học thuyết phân quyền và thực tiễn áp dụng
nó trong tổ chức quyền lực nhà nớc t sản, nhng trong quá trình xác lập hình thức
chính thể cộng hoà dân chủ nhân dân ở Việt Nam, Ngời lại chủ trơng thống nhất
quyền lực và có sự phân công rõ ràng giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền

lực nhà nớc. T tởng thống nhất quyền lực là một sự phát triển hợp lôgíc từ t tởng
nguồn gốc quyền lực nhà nớc từ nhân dân.
Hiến pháp 1946 đã thể chế hoá quan điểm này: "Tất cả quyền hành trong n-
ớc là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu
nghèo, giai cấp, tôn giáo" [14;8]. Nếu tất cả quyền lực là của nhân dân, bắt nguồn
từ nhân dân thì quyền lực phải thống nhất vào nhân dân vì nhân dân trong Nhà n-
ớc cách mạng Việt Nam bao gồm quảng đại quần chúng, và lợi ích của nhân dân
về cơ bản thống nhất. Do đó, Nhà nớc chỉ là một tổ chức do dân lập ra để thực
hiện quyền lực nhân dân.
Bầu cử là phơng thức nhân dân uỷ thác quyền lực của mình cho Nhà nớc.
Khi quyền lực nhân dân đã đợc uỷ thác cho Nhà nớc, trở thành quyền lực nhà nớc
thì quyền lực nhà nớc cũng thống nhất và phải có sự phân công minh bạch giữa
các cơ quan trong việc thực hiện quyền lực nhà nớc. Trong đó, Quốc hội là cơ
quan quyền lực nhà nớc tối cao thể hiện sự thống nhất quyền lực nhà nớc. Xét về
bản chất, sự thống nhất trong lợi ích của nhân dân là tiền đề của sự thống nhất
quyền lực nhân dân, và điều này chỉ có trong Nhà nớc xã hội chủ nghĩa.
Tóm lại, sự kết hợp hài hoà giữa tính dân tộc với tính nhân dân và tính giai
cấp, tính định hớng xã hội chủ nghĩa, sự lãnh đạo của Đảng đối với tổ chức quyền
lực nhà nớc, tính thống nhất quyền lực nhà nớc là những dấu hiệu đặc thù của
chính thể cộng hoà dân chủ nhân dân Hiến pháp 1946. Những dấu hiện này là cơ
sở để phân biệt chính thể cộng hoà dân chủ nhân dân ở Việt Nam với các loại hình
chính thể cộng hoà dân chủ của nhà nớc t sản.
Xét một cách tổng thể, chính thể cộng hoà dân chủ nhân dân Hiến pháp
1946 là một chính thể đặc thù, sản phẩm của sự sáng tạo độc đáo của Hồ Chính
Minh và cách mạng Việt Nam phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của xã hội Việt
Nam. Tính chất đặc thù của chính thể Hiến pháp 1946 không ngừng đợc phát huy
trong quá trình hoàn thiện mô hình tổ chức quyền lực nhà nớc Việt Nam.
Để nghiên cứu so sánh sự tơng đồng và khác biệt giữa chính thể cộng hoà
dân chủ nhân dân Hiến pháp 1946 với chính thể của một số nớc khác ta không chỉ
dừng lại ở việc phân tích, nghiên cứu cơ sở lí luận, thực tiễn, những tính chất, đặc

điểm mang tính đặc thù của các mô hình chính thể. Do vậy, để nhận thức sâu sắc
hơn về chính thể Hiến pháp 1946, cần phải nghiên cứu chúng cả trên phơng diện
tổ chức bộ máy nhà nớc giữa các mô hình chính thể khác nhau.
2.2. Sự giống nhau và khác nhau của chính thể Việt Nam
Hiến pháp 1946 với chính thể cộng hoà (quân chủ) đại nghị và
chính thể cộng hoà tổng thống.
Khi so sánh sự giống và khác nhau giữa chính thể Việt Nam Hiến pháp
1946 với chính thể của một số nớc, ta chỉ lựa chọn các mô hình chính thể có tính
chất điển hình đại diện cho các mô hình chính thể khác nhau. Mà cụ thể là đối với
mô hình chính thể cộng hoà (quân chủ) đại nghị thì chính thể của Nhà nớc Anh
quốc là một mô hình chính thể điển hình. Còn chính thể cộng hoà tổng thống của
Hợp chủng quốc Mỹ châu là mô hình tổ chức quyền lực nhà nớc đại diện cho
chính thể cộng hoà tổng thống. Việc nghiên cứu so sánh sẽ đợc lần lợt thực hiện
với các thiết chế, chế định quyền lực nhà nớc cụ thể: Nguyên thủ quốc gia; Quốc
hội - lập pháp; Chính phủ - hành pháp; Toà án - t pháp.
2.2.1. Về Nguyên thủ quốc gia
Nguyên thủ quốc gia là một chế định thuần tuý của nhà nớc t sản. Nhiệm
vụ của cách mạng t sản là lật đổ nền cai trị phong kiến, thiết lập nền chuyên chính
t sản. Tuy nhiên, giai cấp t sản khi tiến hành cách mạng tuy mạnh nhng cha thể đè
bẹp hoàn toàn thế lực phong kiến tuy đã lỗi thời nhng vẫn còn mạnh. Hơn nữa, sự
thống trị của ngai vàng phong kiến trong suốt đêm trờng Trung cổ đã ăn sâu vào
tiềm thức nhân dân. Nhận thức đợc không thể giành đợc toàn bộ quyền lực nhà n-
ớc, giai cấp t sản đã có xu hớng chia sẽ quyền thống trị giữa nhà vua và giai cấp t
sản. Những nhà t tởng của cách mạng t sản khi đa ra lý thuyết phân quyền không
phải muốn lật đổ hoàn toàn sự cai trị của nhà vua mà là muốn hạn chế quyền lực
nhà vua. Cho nên, khi cách mạng t sản thành công, chế độ đại nghị đã đợc xác
lập, thì về nguyên tắc, nghị viên đứng đầu nhà nớc, nhng giai cấp t sản đã bảo lu
thiết chế nhà vua hoặc lập ra những thiết chế tơng tự để thực hiện mục đích chính
trị của mình, điều đó dẫn đến việc hình thành chế định nguyên thủ quốc gia trong
hiến pháp t sản. Nguyên thủ quốc gia ở các nớc t bản biểu hiện về mặt hình thức

rất đa dạng: vua, hoàng đế, nữ hoàng trong nhà nớc quân chủ; tổng thống trong
nhà nớc cộng hoà.
Nguyên thủ quốc gia trong chính thể quân chủ đại nghị đợc gọi là vua,
hoàng đế... hình thành bằng con đờng truyền ngôi, thế tập, không thực quyền mà
chỉ giữ vai trò tơng trng cho nhà nớc. Điều này đợc khái quát bởi một câu ngạn
ngữ: "nhà vua trị vì nhng không cai trị". Tổng thống trong chính thể cộng hoà đại
nghị là nguyên thủ quốc gia, do nghị viện bầu ra hoặc đợc thành lập trên cơ sở của
nghị viện. Vị trí của tổng thống trong chính thể cộng hoà đại nghị không khác hơn
vị trí của hoàng đế trong chính thể quân chủ đại nghị. Tổng thống không có thực
quyền, chỉ giữ vai trò tợng trng, chính thức hoá về mặt nhà nớc các hoạt động của
quốc hội và chính phủ.
Nhìn chung, dù tồn tại dới nhiều hình thức khác nhau, nguyên thủ quốc gia,
trong chính thể cộng hoà (quân chủ) đại nghị ở các nớc t bản đều đợc hiến pháp
quy định là ngời đứng đầu nhà nớc, thay mặt nhà nớc về đối nội và đối ngoại, đại
diện, tợng trng cho sự bền vững, thống nhất của nhà nớc. Sự hiện diện của nguyên
thủ quốc gia trong nhà nớc t sản là biểu hiện tàn d của chế độ phong kiến kết hợp
với nhu cầu về lợi ích chính trị của giai cấp t sản trong xã hội hiện đại.
Đến nhà nớc xã hội chủ nghĩa, quyền lực nhà nớc thống nhất vào cơ quan
quyền lực nhà nớc cao nhất của nhân dân. Cho nên, chính cơ quan này (Xô Viết
tối cao, Quốc hội) đứng đầu nhà nớc, đại diện cho nhà nớc, tức là nguyên thủ
quốc gia. Do đó, về nguyên tắc, không cần một chế định nguyên thủ quốc gia
riêng biệt. Tuy nhiên, do truyền thống lịch sử lâu đời, do thông lệ quốc tế trong
việc thực hiện một số hoạt động nhà nớc mang tính long trọng, hình thức và một
phần vì xu hớng phối hợp thống nhất quyền lực nhà nớc, các nhà nớc xã hội chủ
nghĩa đã đặt ra thiết chế nguyên thủ quốc gia. Nguyên thủ quốc gia trong nhà nớc
xã hội chủ nghĩa cũng rất đa dạng về hình thức: Đoàn Chủ tịch Xô Viết tối cao
(Liên xô); Hội đồng Nhà nớc (Balan, Bungari, Cuba, Rumani); Hội đồng Chủ tịch
nớc (Hungari); Đoàn chủ tịch Quốc hội (Anbani); Đoàn Chủ tịch Đại Hô - Lan
(Mông cổ) [36;310].
Một số nớc xã hội chủ nghĩa khác, do truyền thống lịch sử của mình, còn lu

giữ thiết chế Chủ tịch nớc thì Chủ tịch nớc tuy đợc coi là nguyên thủ quốc gia
(đứng đầu nhà nớc), song phái sinh từ cơ quan quyền lực nhà nớc cao nhất và
cùng với cơ quan này thực hiện chức năng nguyên thủ [5 ; 297].
Nguyên thủ quốc gia là ngời đứng đầu nhà nớc, có quyền thay mặt nhà nớc
về mặt đối nội và đối ngoại. Vị trí, vai trò của nguyên thủ quốc gia thuộc vào hình
thức chính thể nhà nớc. Chính thể quân chủ đại nghị điển hình là Vơng quốc Anh,
xét về mặt hình thức, là môt mô hình tổ chức nhà nớc không dân chủ, mang dấu
ấn của nhà nớc phong kiến. Tuy nhiên, cũng nh nhiều nớc t sản, cách mạng dân
chủ t sản Anh đã không đủ sức mạnh để đánh đổ hoàn toàn giai cấp phong kiến,
do đó giai cấp tài sản buộc phải chia sẽ quyền lực cho giai cấp phong kiến mà ng-
ời đại diện là Hoàng đế. Mặt khác, ngời dân Anh vốn có truyền thống "hoài cổ,
thực dụng", hơn nữa, hình ảnh ngự trị của ngai vàng tồn tại trong nhiều thế kỷ đã
in đậm trong tiềm thức của nhân dân. Bởi vậy, bên cạnh một Nghị viện dân chủ
vẫn tồn tại một vị Hoàng đế tợng trng cho sự bền vững và thống nhất dân tộc.
Chính vì thế, chính thể quân chủ đại nghị ở Anh ra đời và tồn tại cho đến tận ngày
nay. Cũng cần nói thêm rằng, tuy hình thức chính thể là quân chủ đại nghị, nhng
bản chất của nó là một nớc dân chủ t sản rất giống với mô hình chính thể cộng
hoà đại nghị. ở Nhà nớc quân chủ đại nghị Anh quốc, Nguyên thủ quốc gia là
Vua (Hoàng đế), Hoàng đế đợc giữ chức vụ này theo nguyên tắc truyền ngôi. Vị
Hoàng đế Anh đại diện cho giai cấp phong kiến tham gia vào chính quyền chỉ với
vai trò tợng trng cho sự tồn tại vĩnh cửu của dân tộc, là biểu tợng cho sự thống
nhất và hoà hợp quốc gia. Hơn nữa, với sự tham gia của các đảng phái chính trị đã
làm cho các quy định của pháp luật và phong tục, tập quán về tổ chức bộ máy nhà
nớc trở nên hình thức. Về danh nghĩa, Hoàng đế là ngời đứng đầu nhà nớc có
quyền hạn rất lớn, nhng trên thực tế, Hoàng đế lại không có thực quyền. Hoàng đế
bị hạn chế quyền lực trên cả ba phơng diện: lập pháp, hành pháp, t pháp.
ở chính thể cộng hoà tổng thống mà đại diện là Mỹ, Tổng thống Mỹ vừa là
ngời đứng đầu Nhà nớc thay mặt cho Nhà nớc về đối nội, đối ngoại, vừa là ngời
đứng đầu Chính phủ, ngời nắm toàn bộ quyền hành pháp trong tay mình. Cũng t-
ơng tự nh vị trí, vai trò của Tổng thống Mỹ, Chủ tịch nớc Việt Nam dân chủ cộng

hoà theo Hiến pháp 1946 vừa là Nguyên thủ quốc gia thay mặt cho Nhà nớc, vừa
là ngời đứng đầu cơ quan hành pháp.
Trong Hiến pháp 1946, Nguyên thủ quốc gia tồn tại dới hình thức Chủ tịch
nớc, là một chế định tất yếu của chính thể cộng hoà dân chủ nhân dân. Chế độ
Chủ tịch nớc là sản phẩm của sự phát triển của cách mạng Việt Nam, gắn liền với
vai trò của Hồ Chí Minh, ngời sáng lập nớc Việt Nam dân chủ cộng hoà là
Nguyên thủ quốc gia đầu tiên của Nhà nớc cách mạng Việt Nam. Hiến pháp 1946
cha đa ra một định nghĩa về Chủ tịch nớc nh các Hiến pháp Việt Nam sau này.
Tuy nhiên, thông qua quy định về cách thức thành lập, thẩm quyền của Chủ tịch
nớc, có thể xác định bản chất của Chủ tịch nớc vừa là nguyên thủ quốc gia, đại
diện cho Nhà nớc, vừa là ngời đứng đầu Chính phủ. Về thực chất, Hiến pháp cha
phân biệt dới chức năng ngời đứng đầu Nhà nớc (Nguyên thủ quốc gia) và ngời
đứng đầu Chính phủ (Thủ tớng Chính phủ). Chủ tịch nớc vừa là ngời đứng đầu
Nhà nớc, vừa là ngời đứng đầu Chính phủ là một nét đặc thù của chính thể cộng
hoà dân chủ nhân dân theo Hiến pháp 1946. Điều này xuất phát từ những điều
kiện của cách mạng Việt Nam, với nhiệm vụ của cách mạng kháng chiến giành
độc lập, Quốc hội nhận thấy phải "thực hiện chính quyền mạnh mẽ sáng suốt của
nhân dân" [14;8].
Về cơ cấu tổ chức, điểm khác giữa các chính thể trên là, nếu nh trong chính
thể đại nghị Anh quốc, Hoàng đế - Nguyên thủ quốc gia là nhân vật tợng trng,
biểu tợng cho quốc gia không nằm trong thành phần Chính phủ, thì Tổng thống
Mỹ và Chủ tịch nớc Việt Nam Hiến pháp 1946 vừa là Nguyên thủ quốc gia vừa là
ngời đứng đầu Chính phủ, thuộc thành phần cơ cấu của Chính phủ.
Về cách thức thành lập Nguyên thủ quốc gia, ngời giữ chức vụ Hoàng đế n-
ớc Anh là do truyền ngôi, kế vị, bởi vì Nguyên thủ quốc gia ở đây thuộc Chính thể
quân chủ đại nghị. Ngợc lại, trong chính thể cộng hoà, mà cụ thể cộng hoà tổng
thống ở Mỹ và cộng hoà dân chủ nhân dân ở Việt Nam thì ngời đứng đầu Nhà nớc
không phải do kế vị mà do nhân dân trực tiếp hoặc gián tiếp bầu lên. Tổng thống
Mỹ do các đại cử tri bầu lên sau khi có một cuộc phổ thông đầu phiếu để lựa chọn
các đại cử tri. Chủ tịch nớc theo Hiến pháp 1946 chọn trong Nghị viện nhân dân

và phải đợc hai phần ba tổng số nghị viên bỏ phiếu thuận.
Theo quy định Hiến pháp 1946, Nghị viện nhân dân là cơ quan có quyền
cao nhất của nớc Việt Nam dân chủ cộng hoà, chức danh ngời đứng đầu Nhà nớc
đợc Nghị viện bầu ra. Điều đó thể hiện nguyên tắc quyền lực nhà nớc là thống
nhất, không áp dụng học thuyết tam quyền phân lập vào tổ chức quyền lực nhà n-
ớc. Ngợc lại, trong chính thể đại nghị ở Anh và chính thể cộng hoà tổng thống ở
Mỹ lại có sự áp dụng học thuyết tam quyền phân lập vào tổ chức và thực hiện
quyền lực nhà nớc. Nếu nh ở Mỹ, nguyên tắc phân lập ba quyền đợc vận dụng một
cách triệt để tạo ra một quan hệ "cứng rắn" giữa các cành quyền lực lập pháp,
hành pháp, t pháp, thì ở Anh lại có sự mềm dẻo hơn trong việc áp dụng nguyên tắc
đó vào việc tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nớc. Do áp dụng các nguyên tắc
khác nhau trong việc tổ chức và thực hiện quyền lực ở các hình thức chính thể
khác nhau nên quyền hạn, trách nhiệm cũng nh mối quan hệ giữa Nguyên thủ
quốc gia với các cơ quan nhà nớc ở các mô hình tổ chức nhà nớc nên trên cũng có
những điểm khác biệt nhau.
Về quan hệ giữa Nguyên thủ quốc gia với các cơ quan nhà nớc khác. Chính
thể cộng hoà dân chủ nhân dân theo Hiến pháp 1946 thiết lập chế định Chủ tịch n-
ớc theo hớng tăng cờng quyền lực cho Chủ tịch nớc nhằm đảm bảo cho việc điều
hoà và phối hợp hoạt động giữa các cơ quan nhà nớc trong điều kiện các cơ quan
này có vị trí tơng đối độc lập với nhau. Mối quan hệ giữa Hoàng đế Anh với cơ
quan nhà nớc khác lại đứng trên vai trò của một nhân vật trung gian về chính trị.
Chức danh Hoàng đế Anh là một chức danh phi chính trị. Thực tế cho thấy, Hoàng
đế Anh rất hiếm khi có hành vi liên quan đến một vấn đề mang tính chính trị trừ
khi có biến cố xảy ra đối với đất nớc. Hoàng đế Anh điều hoà và phối hợp, giải
quyết những mâu thuẫn giữa các cơ quan trong bộ máy nhà nớc, chủ yếu là mối
quan hệ giữa lập pháp và hành pháp. Do áp dụng nguyên tắc phân chia quyền lực
một cách "cứng rắn" cùng với những đặc trng trong việc tổ chức và hoạt động của
Nguyên thủ quốc gia, mà Tổng thống Mỹ một mặt đóng vai trò là nhân vật trung
tâm của quyền lực chính trị có chức năng điều hoà, phối hợp hoạt động giữa các
cơ quan nhà nớc nh ngời đứng đầu nhà nớc ở các chính thể khác, mặt khác trong

hoạt động của mình, Tổng thống Mỹ thể hiện mối quan hệ lại cứng rắn với các cơ
quan nhà nớc khác.
Về quyền hạn, quyền hạn của Hoàng đế Anh nh đã nói ở trên, về mặt hình
thức là rất lớn, nhng trên thực tế các quyền hạn mà Hoàng đế Anh có đợc chỉ
mang tính chất tợng trng, biểu tợng cho sự thống nhất và hoà hợp dân tộc. Hoàng
đế Anh trên cơng vị của ngời đứng đầu Nhà nớc có những quyền hạn: phê chuẩn
các đạo luật, có quyền ban bố hoặc phủ quyết các dự án luật đã đợc Nghị viện
thông qua; bổ nhiệm các công chức trong bộ máy dân sự và quân sự; ban các tớc
sỹ và huy chơng nhà nớc; triệu tập và giải tán Nghị viện; ký hiệp ớc, hiệp định với
nớc ngoài. Đây là những quyền hạn mang nặng tính hình thức của Hoàng đế,
Hoàng đế thực chất chỉ thực hiện những việc đã rồi để chính thức hoá về mặt
nhà nớc. Vấn đề này sẽ đợc nghiên cứu kỹ hơn trong phần về Chính phủ.
Ngợc lại với Hoàng đế Anh, Tổng thống Mỹ, và Chủ tịch nớc theo Hiến
pháp 1946 có quyền hạn hết sức to lớn bởi vì họ vừa là ngời đứng đầu Nhà nớc,
vừa đứng đầu Chính phủ. Về quyền hạn, Tổng thống Mĩ, và Chủ tịch nớc theo
Hiến pháp 1946 có nhiều điểm tơng đồng. Với t cách là Nguyên thủ quốc gia -
ngời đứng đầu nhà nớc thay mặt cho nhà nớc về đối nội và đối ngoại thì quyền
hạn của Hoàng đế Anh cũng nh quyền hạn của Tổng thống Mỹ và Chủ tịch nớc về
cơ bản là giống nhau, nh: quyền thay mặt cho nhà nớc về đối nội, đối ngoại;
quyền bổ nhiệm công chức dân sự và quân sự; quyền tổng chỉ huy các lực lợng vũ
trang; quyền phê chuẩn các đạo luật, đặc biệt có quyền ban bố hay phủ quyết các
dự án luật đã đợc nghị viện thông qua; quyền thởng huân, huy chơng, bằng cấp và
các danh hiệu vinh dự nhà nớc; quyền tiếp nhận và cử các đại diện ngoại giao;...
Với t cách là ngời đứng đầu Chính phủ, quyền hạn của Tổng thống Mỹ và Chủ
tịch nớc theo Hiến pháp 1946 là rất lớn và giữa họ có nhiều điểm tơng đồng với
nhau. Vấn đề này sẽ đợc nghiên cứu kỹ lỡng ở phần "về Chính phủ".
Về trách nhiệm của ngời đứng đầu nhà nớc, quyền hạn của Hoàng đế Anh
nh đã nói ở trên, chỉ mang tính hình thức đúng với câu mà ngời ta thờng nói:
Hoàng đế Anh không phải làm gì cả, do đó không bao giờ sai, và vô trách nhiệm.
Đất nớc phồn thịnh, xã hội yên bình là nhờ sự ban ơn của Hoàng đế, còn điều ng-

ợc lại thì do Nội các, và Nội các phải chụi trách nhiệm.
Cũng có quyền hạn rất lớn nh quyền hạn của Tổng thống Mỹ, nhng điều
đặc biệt là Chủ tịch nớc theo Hiến pháp 1946 lại không phải chịu bất cứ một trách
nhiệm nào trừ tội phản bội tổ quốc. Ngợc lại, trách nhiệm của Tổng thống Mỹ
trong việc thực hiện chức năng và nhiệm vụ của mình là rất lớn. Tổng thống Mỹ
có thể bị Quốc hội điều trần với bất cứ các hành vi vi phạm pháp luật, các hành vi
chính trị nào của Tổng thống mà Quốc hội cho là không hợp hiến. Đây cũng chính
là sự hạn chế quyền lực của Tổng thống, và đi xa hơn nữa đó chính là sự cân bằng
đối trọng trong việc tổ chức và thực hiện quyền lực của Nhà nớc Mỹ.
Tuy thực tế quyền hạn của Chủ tịch nớc là rất lớn cả về lập pháp lẫn hành
pháp và t pháp, song Hiến pháp 1946 có những quy định hạn chế quyền hạn của
Chủ tịch nớc đảm bảo "Nghị viện nhân dân là cơ quan có quyền cao nhất của nớc
Việt Nam dân chủ cộng hoà" [14;12]. Nghị viện có các quyền để hạn chế quyền
hạn của Chủ tịch nớc, nh: Nghị viện bầu Chủ tịch nớc trong Nghị viện; chuẩn y
các hiệp ớc do Chính phủ ký với nớc ngoài; những luật mà Chủ tịch nớc yêu cầu
Nghị viện thảo luận lại nếu vẫn đợc Nghị viện ng chuẩn, thì bắt buộc Chủ tịch nớc
phải ban bố; khi Nghị viện không họp đợc, Ban thờng vụ cùng với Chính phủ
tuyên chiến hay đình chiến; Nghị viện không bị Chủ tịch nớc tuyên bố giải tán,
trừ trờng hợp tự giải tán; áp dụng chế độ phó thự.
Tóm lại, chế định Chủ tịch nớc - Nguyên thủ quốc gia Hiến pháp 1946 đợc
thiết kế khá độc đáo. Một mặt, nó vừa đảm bảo đợc quyền lực nhà nớc thống nhất
tập trung vào cơ quan đại diện quyền lực của nhân dân. Mặt khác, nó tạo ra đợc
một quyền hành pháp mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân với một Chính phủ thể
hiện tinh thần đoàn kết rộng rãi phù hợp với điều kiện phát triển của cách mạng
Việt Nam, mang những đặc thù của loại hình chính thể cộng hoà dân chủ nhân
dân.
2.2.2. Về Quốc hội (Nghị viện)
C.Mác viết: "Quyền lập pháp là quyền lực phải tổ chức cái phổ biến"
[7;389]. Cơ quan lập pháp là cơ quan quy định cái phổ biến, nâng ý chí phổ biến
của nhân dân lên thành pháp luật: "Tại nghị viện, quốc dân nâng ý chí phổ biến

của mình lên thành pháp luật, nghĩa là làm cho pháp luật của giai cấp thống trị
biến thành ý chí phổ biến của quốc dân"[5;511-512]. Cơ quan lập pháp là một
thiết chế cấu thành hình thức chính thể nhà nớc, có những tên gọi khác nhau ở các
quốc gia nh Nghị viện, Quốc hội, Xô viết tối cao, Hội đồng các dân tộc, Hội nghị
hiệp thơng nhân dân.v.v...
Sự xuất hiện của nghị viện (cơ quan lập pháp nói chung) là một hệ quả tất
yếu từ quan niệm quyền lực thuộc về nhân dân. Trong xã hội cổ đại, đã xuất hiện
quan niệm về nguồn gốc quyền lực từ nhân dân, nhng nhân dân không thể trực
tiếp thực hiện đợc quyền lợi của mình mà họ phải bầu ra những ngời thay mặt
mình giải quyết những công việc chung của cộng đồng. Tuy nhiên, vào lúc đó,
những ngời đi bầu cử không phải là toàn dân mà chỉ là bao gồm những ngời có
của hoặc những binh sĩ. Trong cơ cấu nhà nớc thời cổ đại đã xuất hiện những Viện
nguyên lão bao gồm những chủ nô quý tộc, Đại hội nhân dân bao gồm những ngời
cầm vũ khí. Đó có thể là những cơ quan mang tính mầm mống của nghị viện sau
này.
Nghị viện chính thức ra đời từ sau cách mạng t sản. Trong cuộc đấu tranh
giành quyền lực với giai cấp phong kiến, giai cấp t sản đã đạt đợc sự hạn chế
quyền lực của vơng triều phong kiến bằng cách thành lập bên cạnh nhà vua một
cơ quan gọi là nghị viện hoặc thiết lập chế độ cộng hoà dân chủ thừa nhận quyền
của những ngời có của. Những cách thức này đã đợc xác lập về mặt hình thức bởi
hiến pháp. Nghị viện sinh ra cùng với sự xuất hiện của hiến pháp.
Nghị viện khai sinh ở Anh, Nghị viện Anh thoát thai từ những Hội đồng mà
Hoàng đế Anh triệu tập bên cạnh mình để tham khảo ý kiến. Hội đồng này xuất
hiện vào thế kỷ XII, bao gồm đaị diện của các lãnh địa, là cơ quan t vấn cho nhà
Vua, chỉ có quyền phát biểu suông, quyền quyết định thuộc về nhà Vua. Nhng đến
thời kỳ XIII, XIV, do nhu cầu chi tiêu của Hoàng gia ngày càng tăng, việc Vua
triệu tập cuộc Họp hội đồng từ bất thờng trở thành thờng lệ để yêu cầu tăng mức
thu thuế, Hội đồng đã giành đợc quyết định trong lĩnh vực tài chính - quyền ng
thuận thuế. Năm 1212, Đại hiến chơng đã công nhận quyền ng thuận thuế của Hội
đồng: thuế trớc khi đợc thâu cho nhà Vua, phải đợc các ch hầu thuận trớc

[12;368]. Những quyền tài chính là nguồn gốc của mọi quyền lực của Nghị viện
sau này. Từ quyền ng thuận thuế, trong phiên họp, Hội đồng đã khéo léo yêu cầu
nhà Vua xét để cho họ cai trị những lãnh địa của mình theo những quy tắc nhất
định. Dần dần, các Hội đồng có thêm quyền biểu quyết luật. Chính những phiên
họp của Hội đồng đã hình thành Nghị viện Anh sau này.
Thời kỳ đầu của chủ nghĩa t bản là thời kỳ hoàng kim của nghị viện. Do
nhu cầu hạn chế quyền lực nhà vua, phát triển dân chủ t sản, quyền lực của nghị
viện đợc tăng cờng. C. Mác gọi đó là việc giai cấp t sản "hoàn bị quyền lực nghị
viện" [8;512]. Vào thời kỳ thịnh vợng của mình, "nghị viện có quyền làm đợc tất
cả, chỉ trừ việc biến đàn ông thành đàn bà". Sau khi mục đích của việc thâu tóm
toàn bộ quyền lực của nghị viện đã đạt đợc, giai cấp t sản lại "hoàn bị quyền hành
pháp" [8;512]. Nghị viện dần dần bị bộ máy hành pháp thao túng, chế độ đại nghị
rơi vào tình trạng khủng hoảng. Nghị viện, do đó, theo cách nói riêng của Lênin
chỉ là "những cái máy nói, trong nghị viện, ngời ta chỉ nói suông..." [10;57].
Cách mạng vô sản phải thủ tiêu chế độ đại nghị. Đó là kết luận của những
nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác. Nhng thủ tiêu chế độ đại nghị không có nghĩa
là trong Nhà nớc vô sản không cơ quan đại diện. V.I. Lênin viết: "Những cơ quan
đại diện vẫn còn, nhng chế độ đại nghị, với tính cách là một hệ thống đặc biệt,
một sự phân chia giữa công tác lập pháp với công tác hành pháp, đợc coi nh địa vị
đặc quyền cho các nghị sĩ, thì không còn nữa. Chúng ta không thể quan niệm một
nền dân chủ, dẫu là một nền dân chủ vô sản, mà lại không có cơ quan đại diện"
[10 ; 59].
Trong chính thể cộng hoà dân chủ nhân dân, từ t tởng về nguồn gốc quyền
lực từ nhân dân tất yếu phát triển đến t tởng về vịêc thành lập quốc hội. Quá trình
phát triển tất yếu đó, ở mức độ chung nhất, diễn ra theo một lôgíc phổ biến của sự
hình thành t tởng về việc thiết lập quốc hội trên thế giới: quyền lựa thuộc về nhân
dân; nhà nớc do nhân dân lập ra để đại diện nhân dân thực thi quyền lực của nhân
dân; phơng thức để nhân dân uỷ thác quyền lực của mình cho nhà nớc là bầu cử;
thông qua bầu cử, nhân dân thành lập nên quốc hội. Tuy nhiên, trong mạch lôgíc
chung đó, t tởng và tinh thần về việc thành lập Quốc hội theo Hiến pháp 1946 có

những yếu tố rất riêng phản ánh cách mạng Việt Nam.
Nhận thấy thời cơ của cách mạng sắp đến, tháng 10/1944 Hồ Chí Minh đã
gửi th cho quốc dân đồng bào, thông báo chủ trơng triệu tập Đại hội đại biểu quốc
dân để thành lập một cơ cấu đại biểu cho sự chân thành đoàn kết và hành động
nhất trí của toàn thể quốc dân ta để tạo sức mạnh dân tộc bên trong và tranh thủ
ngoại viện của quốc tế nhằm chớp thời cơ thuận lợi thực hiện cho đợc mục tiêu
độc lập, tự do [16;15]. Tháng 5/1945, trớc tình hình cao trào kháng Nhật cứu nớc
đang dâng lên trong cả nớc, toàn dân đang mong đợi một chính phủ cách mạng
lâm thời của nớc Việt Nam độc lập, Hồ Chí Minh đã ra chỉ thị gấp rút họp Đại hội
đại biểu quốc dân. Tại Tân trào, Quốc dân đại hội khai mạc ngày 16/8/1945, đã
thành lập Uỷ ban giải phóng Việt Nam do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch. Sau cách
mạng tháng Tám, Hồ Chí Minh đã đề nghị cải tổ Uỷ ban dân tộc giải phóng thành
Chính phủ lâm thời của nớc Việt Nam dân chủ cộng hoà. Ngày 27/1945 Chính
phủ lâm thời ra lời Tuyên cáo, trong đó có nói: "Chính phủ lâm thời... thật là một
Chính phủ quốc gia thống nhất, giữ trọng trách là chỉ đạo cho toàn thể, đợi ngày
triệu tập đợc Quốc hội để cử ra một Chính phủ cộng hoà chính thức" [16;25]. Một
ngày sau khi đọc Tuyên ngôn độc lập, ngày 3/9/1945 trong phiên họp đầu tiên của
Chính phủ lâm thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: "Tôi đề nghị tổ chức càng sớm
càng hay cuộc tổng tuyển cử với chế độ phổ thông đầu phiếu" [21;8]. Ngày
8/9/1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Sắc lệnh số 14/SL về cuộc tổng tuyển cử bầu
Quốc hội. Sắc lệnh ghi rõ: "Xét thấy rằng trong tình thế hiện giờ sự triệu tập Quốc
dân đại hội không những có thể thực hiện đợc mà lại rất cần thiết cho toàn dân
tham gia vào công cuộc củng cố nền độc lập và chống nạn ngoại xâm..." [16;31].
Qua đó có thể thấy rằng, sự thành lập Quốc hội trong chính thể cộng hoà
dân chủ nhân dân theo Hiến pháp 1946 ở Việt Nam, không phải để hạn chế hay
chia sẻ quyền lực với bất cứ thế lực nào mà nhằm mục đích thống nhất ý chí dân
tộc, phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân để dành, khẳng định, giữ
vững nền độc lập dân tộc. Đại hội Quốc dân ở Tân Trào có thể coi là tiền thân của
Quốc hội Việt Nam sau này. Chủ trơng của Hồ Chí Minh về việc gấp rút triệu tập
Đại hội quốc dân là để thống nhất hành động trong cả nớc, phát huy sức mạnh của

ý chí thống nhất toàn dân để giành độc lập dân tộc. Sau Tuyên ngôn độc lập, Nhà
nớc Việt Nam dân chủ cộng hoà ra đời là một Nhà nớc độc lập, tự do, nhng cha
một quốc gia nào trên thế giới công nhận. Hơn nữa, các thế lực đế quốc và tay sai
đang ráo riết chống lại Đảng Cộng sản và Việt Minh hòng lật đổ chính quyền
cách mạng và thành lập một chính quyền tay sai cho đế quốc. Trớc tình hình đó,
Hồ Chí Minh đã gấp rút xúc tiến việc bầu Quốc hội khẳng định tính hợp pháp của
Nhà nớc cách mạng Việt Nam, tạo cơ sở pháp lý cho nền độc lập dân tộc. Bên
cạnh đó, chủ trơng thành lập Quốc hội của Hồ Chí Minh còn nhằm mục đích phát
huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân để bảo vệ nền độc lập vừa dành đợc
trớc thế "ngàn cân treo sợi tóc" của chính quyền cách mạng mới ra đời.
Khác với Quốc hội Việt Nam theo Hiến pháp 1946 đợc tổ chức theo mô
hình nhà nớc áp dụng nguyên tắc tập trung quyền lực, mô hình Nghị viện ở Anh
và Quốc ở Hoa Kỳ lại tồn tại trong chính thể nhà nớc áp dụng học thuyết tam
quyền phân lập trong việc tổ chức bộ máy nhà nớc. Theo thuyết tam quyền phân
lập, trong cơ cấu tổ chức bộ máy nhà nớc, Nghị viện đóng vai trò là cơ quan đại
diện. Nghị viện đợc xem là cơ quan đại diện cho ý chí và nguyện vọng của toàn
thể nhân dân. Tuy nhiên, việc thành lập Nghị viện ở các Nhà nớc này còn có mục
đích khác, đó là nhằm để hạn chế và chia sẻ quyền lực giữa các thế lực chính trị
với nhau. Ban đầu, việc thành lập nghị viện là để hạn chế quyền lực vô hạn định
của nhà vua bằng cách thiết lập một cơ quan đại diện cho nhân dân tồn tại bên
cạnh nhà vua. Sau đó, Nghị viện trở thành một thiết chế quyền lực có mục đích
phân chia quyền lực giữa các cơ quan trong bộ máy nhà nớc (lập pháp, hành pháp,
t pháp).
T tởng phân chia quyền lực là một t tởng xuyên suốt trong suốt quá trình
tồn tại và phát triển của Nhà nớc Hoa Kỳ. Về vấn đề này, Haminton - một trong
những nhà lập hiến xuất sắc của Hoa Kỳ viết: "Những nguyên tắc đã giúp chúng
ta nhận thấy cần phải phân định các ngành quyền, lại cũng giúp cho chúng ta
nhận thấy phải làm thế nào để các ngành quyền hoàn toàn độc lập với nhau. Phân
biệt ngành hành pháp và t pháp khỏi lập pháp để làm gì, nếu trong khi đã đợc
phân định rồi mà ngành hành pháp vẫn còn phụ thuộc vào ngành lập pháp ?. Nếu

đã đợc phân định rồi mà hãy còn có sự phụ thuộc thì sự phân định đó chỉ là tợng
trng, mà không thể nào thực hiện đợc mục tiêu của sự phân định đó. Ngành hành
pháp và t pháp cần phải tuân theo các đạo luật, nhng nh vậy không có nghĩa là
phải chiều theo ý muốn của cơ quan lập pháp. Nếu nh ngành này vẫn còn phụ
thuộc vào ngành nọ, thì tức là đã đi ngợc lại nguyên tắc căn bản của một chính
phủ tốt, tức là đã có Hiến pháp nhng tất cả các ngành quyền vẫn tập trung trong
tay một cơ quan" [18;231-232].
Theo quy định của Hiến pháp 1946, Hiến pháp Hoa Kỳ 1787 cũng nh các
quy định pháp luật và tập quán nớc Anh, về tổ chức bộ máy nhà nớc đều quy định
Nghị viện là cơ quan đại diện cho nhân dân do nhân dân trực tiếp bầu ra. Nhân
dân là ngời mang chủ quyền, chủ quyền tối cao và duy nhất, uỷ quyền cho Nghị
viện thay mặt mình thực hiện quyền lập pháp. Trong tác phẩm "Tinh thần pháp
luật", Montesquieu viết: "Trong một nớc tự do, mọi ngời đều đợc xem nh có tâm
hồn tự do, thì họ phải đợc tự quản; nh vậy tập đoàn dân chúng phải có quyền lập
pháp. Nhng trong một nớc lớn thì không thể mỗi công dân đều làm việc lập pháp.
Trong một nớc nhỏ, việc này cũng rất khó khăn; cho nên dân chúng thực hiện
quyền lập pháp bằng cách giao cho các đại biểu của mình làm mọi việc mà cá
nhân công dân không thể tự mình làm lấy đợc [6;103-104]. ở các nớc t bản, ngời
ta quan niệm rằng thành viên của nghị viện không đại diện cho cử tri bầu ra họ mà
là đại diện cho toàn thể nhân dân. Trong hoạt động, các đại biểu chỉ tuân thủ hiến
pháp và pháp luật mà không phải chịu sự giám sát của cử tri, họ không phụ thuộc
vào cử tri và không bị cử tri bãi miễn. Đây cũng chính là t tởng, quan điểm về đại
diện nhân dân của nghị viện trong các Nhà nớc Anh, Mĩ.
Đối lập với quan điểm trên là quan điểm của nhà nớc xã hội chủ nghĩa về
đại diện nhân dân. Theo quan điểm này, đại biểu đợc cử tri bầu ra trớc hết là đại
diện cho cử tri bầu ra mình phù hợp với lợi ích dân tộc. Khi đại biểu không còn là
sự tín nhiệm của cử tri thì cử tri có quyền bãi nhiệm đại biểu. V.I Lênin cho rằng
chỉ bằng hình thức đó chế độ dân chủ đại diện mới thực sự là dân chủ và cơ quan
đại diện mới thực sự đại diện cho ý chí của nhân dân. Điều 25, Hiến pháp 1946
quy định: "Nghị viện không chỉ phải thay mặt cho địa phơng mình mà còn thay

mặt cho toàn thể nhân dân" [14;12 ]. Và khi đề cập đến trách nhiệm của đại biểu,
Điều 41, Hiến pháp 1946 quy định: " Nghị viện phải xét vấn đề bãi miễn một nghị
viên khi nhận đợc đề nghị của một phần t tổng sổ cử tri tỉnh hay thành phố đã bầu
ra nghị viên đó. Nếu hai phần ba tổng số nghị viên ng thuận đề nghị bãi miễn thì
nghị viên đó phải từ chức [14;16].
Ta thấy sự khác biệt giữa đại diện nhân dân của Nghị viện trong các Nhà n-
ớc Anh, Mĩ đó là đại diện theo kiểu nhân dân "uỷ quyền tự do" cho cơ quan đại
diện với đại diện nhân dân của Nghị viện theo Hiến pháp Việt Nam 1946, đó là
đại diện mà nhân dân uỷ quyền mệnh lệnh cho cơ quan đại diện.
Sự hình thành và phát triển của quốc hội trên thế giới cho thấy chế độ bầu
cử quốc hội khi mới ra đời vốn không phải là chế độ phổ thông đầu phiếu mà là
chế độ đầu phiếu hạn chế. Những hình thức hạn chế quyền đầu phiếu rất đa dạng:
tài sản, trình độ học vấn, giới tính, độ tuổi, chủng tộc... Sự phát triển của dân chủ
đã đa chế độ bầu cử đến chế độ phổ thông đầu phiếu.
Quốc hội Việt Nam, do điều kiện lịch sử, ra đời muộn hơn so với quốc hội
ở các nớc trên thế giới. Nhng ngay khi ra đời, Quốc hội Việt Nam đã thực hiện
chế độ bầu cử theo nguyên tắc phổ thông đầu phiếu. Hồ Chí Minh đã sớm có quan
niệm về chế độ phổ thông đầu phiếu ngay trong cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên. Ng-
ời nói: Trong cuộc Tổng tuyển cử, hễ là những ngời muốn lo việc nớc đều có
quyền ra ứng cử; hễ là công dân Việt Nam thì đều có quyền đi bẩu cử. Không chia
gái trai, giàu nghèo, nòi giống, giai cấp, đảng phái, hễ là công dân Việt Nam đều
có hai quyền đó. Vì lẽ đó, cho nên Tổng tuyển cử là tự do, bình đẳng; tức là dân
chủ, đoàn kết" [21;133].
T tởng phổ thông đầu phiếu không đơn thuần chỉ là bắt nguồn từ t tởng
quyền lực thuộc về nhân dân mà còn xuất phát từ thực tiễn cách mạng Việt Nam.
Trong điều kiện cách mạng kháng chiến, kiến quốc ở nớc ta, bầu cử là một hình
thức chính trị huy động sức mạnh toàn dân đấu tranh chống lại kẻ thù xâm lợc,
khẳng định và giữ vững nền độc lập dân tộc. "Về mặt chính trị, thì nhân dân dùng
lá phiếu mà chống lại quân địch. Một lá phiếu cũng có sức mạnh nh một viên
đạn" [21;145]. Ngoài nguyên tắc phổ thông đầu phiếu, các nguyên tắc dân chủ

khác của chế độ bầu cử nh trực tiếp và bỏ phiếu kín cũng đợc áp dụng vào cuộc
bầu cử đầu tiên ở Việt Nam, và các nguyên tắc đó đã đợc nâng nên ở tầm hiến
định. Điều 17, Hiến pháp 1946 quy định: "chế độ bầu cử là phổ thông đầu phiếu.
Bỏ phiếu phải tự do, trực tiếp vá kín" [14;11]. Những t tởng tiến bộ của các
nguyên tắc dân chủ trong bầu cử Quốc hội phù hợp và đáp ứng đợc nhu cầu xây
dựng chính thể cộng hoà dân chủ nhân dân trên con đờng cách mạng Việt Nam.
Quốc hội Việt Nam theo Hiến pháp 1946 đợc thành lập trên cơ sở các
nguyên tắc bầu cử dân chủ và với một thành phần cử chi hết sức rộng rãi. "Tất cả
công dân Việt Nam từ 18 tuổi trở lên, không phân biệt gái trai, đều có quyền bầu
cử, trừ những ngời mất trí và những ngời mất công quyền.
Ngời ứng cử phải là ngời có quyền bầu cử, phải ít ra là 21 tuổi, và phải biết
đọc, biết viết chữ quốc ngữ.
Công dân tại ngũ cũng có quyền bầu cử và ứng cử" [14;11].
Cơ cấu đại biểu trong Quốc hội Việt Nam là một cơ cấu hết sức đa dạng,
đại diện cho mọi giai cấp, tầng lớp của xã hội biểu hiện sự đoàn kết rộng rãi trong
nhân dân. Trong diễn văn khai mạc kỳ họp thứ nhất Quốc hội Khoá I nớc Việt
Nam dân chủ cộng hoà, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: "Các đại biểu Quốc hội này
không phải đại diện cho một đảng phái nào mà là đại diện cho toàn thể quốc dân
Việt Nam. Đó là một sự đoàn kết tỏ ra rằng lực lợng của toàn dân Việt Nam đã
đoàn kết một khối" [21;190].
Một biểu hiện thực tiễn sinh động của t tởng Hồ Chí Minh về tính đại diện
của Quốc hội là sự kiện Quốc hội Khóa I, tại kỳ họp thứ 11, đã ra Nghị quyết kéo
dài nhiệm kỳ của các đại biểu Quốc hội đợc nhân dân miền Nam bầu ra ngày
6/1/1946 cho đến khi có nghị quyết mới. Do sự thống trị của chính quyền tay sai
Mỹ - Diệm ở miền Nam Việt Nam, nên cuộc Tổng tuyển cử Quốc hội Khoá II
nhân dân miền Nam không thể tham gia bầu cử.
Trong tổ chức và hoạt động của Quốc hội thì sự tham gia của các đảng
phái chính trị có tác động ảnh hởng to lớn, nhiều khi nó làm biến dạng các quy
định của pháp luật quy định về Quốc hội. ở các Nhà nớc Anh, Mỹ các đảng phái
chính trị tham gia vào chính quyền nhà nớc một cách mạnh mẽ, có ảnh hởng rất

lớn đến tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nớc nói chung và Quốc hội nói
riêng. Với sự tham gia của các đảng phái trong Quốc hội đã biến cơ quan đại diện
của nhân dân thành cơ quan đại diện cho các phe phái của các chính đảng khác
nhau. Trong cuộc bầu cử lập pháp, các đảng phái đại diện cho các khuynh hớng
chính trị khác nhau lập danh sách các ứng cử viên nghị sĩ, đồng thời đứng ra vận
động tranh cử. Nớc Anh và nớc Mỹ là những nớc có hệ thống lỡng đảng, những
đảng này thay nhau cầm quyền trong các cuộc bầu cử lập pháp. ở Anh, đảng
giành đợc thắng lợi trong cuộc bầu cử vào Hạ nghị viện sẽ đứng ra thành lập chính
phủ và trở thành đảng cầm quyền. Còn ở Mỹ, đảng nào giành đợc thắng lợi trong
cuộc bầu cử lập pháp (cả Hạ nghị viện và Thợng nghị viện), đảng đó sẽ có tác
động rất lớn đến quá trình tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nớc.
Cơ cấu đại biểu Quốc hội trong các nhà nớc Anh, Mỹ không có sự đa dạng
đại diện cho mọi giai cấp, mọi tầng lớp xã hội. Mặc dù, chế độ bầu cử theo quy
định của Hiến pháp, luật của các Nhà nớc này là chế độ dân chủ. Song, do những
hạn chế về mặt này hay mặt khác mà trong thành phần của Quốc hội chỉ bao gồm
đa số những ngời xuất thân từ tầng lớp thợng lu hoặc trên trung lu. Chẳng hạn, ở
Mỹ, Hiến pháp quy định rằng, mọi công dân Mỹ từ 30 tuổi trở lên đã c trú ở Mỹ
từ 8 năm trở lên đều có quyền ứng cử Thợng nghị sĩ tại khu vực mình c trú. Đối
với chức vụ Hạ nghị sĩ, tuổi là 25 trở lên và công dân Mỹ từ 7 năm trở lên. Nhng
rất hữu hạn có trờng hợp thành viên của Nghị viện xuất thân từ tầng lớp lao động.
Hay ở Anh, cơ cấu đại biểu trong các Viện cũng có hiện tợng tơng tự. "Trong số
đại biểu Viện Bình dân nhiệm kỳ 1992 - 1997 là thành viên của Đảng Bảo thủ có
45% là chính trị gia, 36% thơng gia, gần 19% luật gia và chỉ có một đại biểu là
công dân. Trong khi đó 42% đại biểu Công đảng là chính trị gia, 9% thơng gia,
33% công nhân, 16% đại biểu có các ngành nghề khác nhau. Tổng số đại biểu nữ
là 60 hay 9,2% [3;122]. Giải thích cho hiện tợng này, nhiều tác giả cho rằng, sở dĩ
không có một cơ cấu đại biểu đồng đều đại diện một cách rộng rãi trong xã hội
mà cơ cấu đại biểu chủ yếu tập trung vào những nhà chính trị, những ngời thuộc
tầng lớp trên của xã hội là bởi vì: thứ nhất, ngoài sự chi phối của tính giai cấp, các
thành viên nghị viện còn là những tinh hoa đại diện cho các khu vực lợi ích của

đời sống xã hội; thứ hai, những ngời ra ứng cử vào nghị viện phải là những ngời
có đủ khả năng để theo đuổi sự nghiệp chính trị; thứ ba, trong cuộc bầu cử vào
nghị viện, các ứng cử viên đòi hỏi phải có khả năng tài chính lớn.
Trong chính thể cộng hoà dân chủ nhân dân theo Hiến pháp 1946, tính đại
diện nhân dân của Quốc hội cũng cần đợc hiểu là Quốc hội đại diện cho quyền
lực của nhân dân, Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nớc tối cao. Điều 22, Hiến
pháp 1946 quy định: "Nghị viện nhân dân là cơ quan có quyền cao nhất của nớc
Việt Nam dân chủ cộng hoà" [14;12]. Quyền lực tối cao hay quyền cao nhất của
Quốc hội chính là quyền lực nhà nớc cao nhất. Tính đại diện toàn dân là tiền đề
của tính quyền lực nhà nớc cao nhất của Quốc hội. Quyền lực của Quốc hội là
quyền lực nhà nớc đại diện cho quyền lực nhân dân, do nhân dân trao cho. Trong
khi đó, quyền lực của nhân dân là chủ quyền mang tính tối cao. Cho nên, quyền
lực mà Quốc hội tiếp nhận trực tiếp từ toàn dân là quyền lực nhà nớc tối cao. Vì
vậy, Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nớc tối cao. Nghĩa là, không có một cơ
quan nào đứng ngang bằng hay đứng trên Quốc hội, thẩm quyền của các thiết chế
nhà nớc nh Chủ tịch nớc, Chính phủ, Toà án là do Quốc hội trao cho. Tính quyền
lực nhà nớc cao nhất của Quốc hội là phù hợp với sự thống nhất quyền lực. Quyền
lực trong nớc - quyền lực chính trị thống nhất ở nhân dân, quyền lực nhà nớc
thống nhất ở Quốc hội. Tất cả các quyền lực nhà nớc thống nhất vào Quốc hội chứ
không phải tập trung vào Quốc hội. Quốc hội thống nhất quyền lực nhà nớc nhng
không thực hiện tất cả quyền lực nhà nớc mà có sự phân công lao động trong việc
thực hiện quyền lực. Quốc hội trao cho Chính phủ phải thực hiện quyền hành
pháp, Toà án thực hiện quyền xét xử. Đây chính là điều đặc trng điển hình của
Hiến pháp 1946 về sự phân công, phân nhiệm trong hoạt động tổ chức và thực
hiện quyền lực giữa các cơ quan nhà nớc.
Trong các Nhà nớc Anh, Mỹ, Hiến pháp của các Nhà nớc này cũng tuyên
bố quyền lực thuộc về nhân dân, do nhân dân làm chủ, nhân dân bầu ra Quốc hội
làm cơ quan đại diện (uỷ quyền tự do) cho mình. Nhng mặt khác, do áp dụng học
thuyết tam quyền phân lập trong mô hình tổ chức nhà nớc, nên quyền lực nhà nớc
không đợc và không thể thống nhất vào một cơ quan (cơ quan đại diện - Quốc

hội) mà có sự phân chia giữa các cành quyền lực (lập pháp, hành pháp, t pháp).
Hơn nữa, do sự tham gia của các đảng phái trong chính quyền nhà nớc nên sự
thống nhất quyền lực nếu có đợc tuyên bố thì cũng sẽ không thể thực hiện đợc.
ở Nhà nớc Anh, nơi áp dụng học thuyết tam quyền phân lập một cách mềm
dẻo, là Nhà nớc của chính thể đại nghị - một mô hình mà về mặt lý thuyết đợc coi
là mô hình tổ chức nhà nớc tiến bộ hơn cả trong thế giới t sản. Quốc hội đợc Hiến
pháp, các tập quán tuyên bố là cơ quan đại diện tối cao dựa trên học thuyết về
quyền tối cao của Nghị viện tạo cơ sở cho việc tập trung quyền lực vào Nghị viện.
Chính phủ phải đợc thành lập dựa trên cơ sở Nghị viện và phải chịu trách nhiệm
trớc Nghị viện. Chính phủ chỉ hoạt động khi vẫn còn sự tín nhiệm của Hạ nghị
viện, trong trờng hợp không còn sự tín nhiệm nữa thì bị lật đổ, và kèm theo đó là
Quốc hội cũng có thể bị giải tán. Nhng với sự ảnh hởng của các hoạt động đảng
phái chính trị trong Nghị viện bị đảng chiếm đa số khống chế. Từ đây làm xuất
hiện "nghị gật" tạo nên sự khủng hoảng của chế độ đại nghị. "Vì vậy, mặc dù về
hình thức nớc Anh có chính thể đại nghị, nhng thực tế hoạt động của bộ máy nhà
nớc lại theo chế độ nội các chế" [3;121]. Hệ quả của vấn đề này là sinh ra các quy
phạm Hiến pháp bất thành văn: đảng cầm quyền đứng ra thành lập Chính phủ;
Chính phủ đợc quyền giải tán Quốc hội; Chính phủ và Thủ tớng Chính phủ có thể
đe doạ đặt vấn đề tín nhiệm trớc Quốc hội...
Không giống với Nhà nớc Anh, Nhà nớc Mỹ áp dụng học thuyết tam quyền
phân lập một cách cứng rắn trong tổ chức bộ máy nhà nớc. Trên lý thuyết, các
cành quyền lực (lập pháp, hành pháp, t pháp) đợc phân chia một cách tuyệt đối,
không ngành quyền lực nào phụ thuộc vào ngành quyền lực nào, lập pháp là lập
pháp, hành pháp là hành pháp, t pháp là t pháp. Không có sự hợp tác phối hợp
giữa các ngành quyền lực mà chúng hoạt động dựa trên cơ sở của cơ chế kiềm
chế và đối trọng. Do đó, vị trí của Quốc hội đợc quy định ngang bằng với các
thiết chế quyền lực nhà nớc khác. Nếu nh ở Nhà nớc Anh theo chính thể đại nghị,
ngời ta quan niệm rằng Quốc hội là tối cao, có quyền quyết định mọi vấn đề, các
hoạt động của Nhà nớc chỉ đợc giải quyết một cách dân chủ thông qua Nghị viện,
thì Nhà nớc theo chính thể cộng hoà tổng thống ở Mỹ lại có quan niệm ngợc lại:

"Quốc hội cũng không là cái gì cả, cũng có khi làm sai, và cũng có khi trở thành
độc tài, mà hậu quả của sự độc tài tại này cũng y nh của sự độc tài cá nhân".
[18;317]. Do tính độc lập lẫn nhau giữa các ngành quyền lực nên Chính phủ
không đợc thành lập dựa trên cơ sở Quốc hội, Chính phủ không chịu trách nhiệm
trớc Quốc hội và không bị Quốc hội lật đổ và kèm theo đó là Quốc hội không thể
bị giải tán.
Vể thẩm quyền của Quốc hội.
Hiến pháp của hầu hết các nớc đều quy định thẩm quyền của Quốc hội dựa
trên các chức năng, nhiệm vụ cơ bản của chúng. Đó là các chức năng: lập pháp;
giám sát; quyết định những vấn đề quan trọng nhất của đất nớc. Nhìn chung, hiến
pháp của các nớc đều ghi nhận ba chức năng cơ bản trên của quốc hội. Nhng phụ
thuộc vào điều kiện, hoàn cảnh của từng quốc gia, đặc biệt là phụ thuộc vào mô
hình tổ chức nhà nớc (chính thể) áp dụng trong việc thực hiện quyền lực mà thẩm
quyền của các thiết chế quyền lực nhà nớc nói chung, thẩm quyền của Quốc hội
nói riêng có sự khác biệt nhau. Sau đây sẽ lần lợt đề cập đến các quyền hạn cơ bản
nhất của Quốc hội theo Hiến pháp 1946, của Quốc hội Nhà nớc Anh và của Quốc
hội Nhà nớc Mỹ.
Trong lĩnh vực lập pháp, chức năng cơ bản không thể thiếu của Quốc hội là
chức năng lập pháp. Các chức năng khác của Quốc hội đều dựa trên cơ sở và phục
vụ cho chức năng lập pháp. Đây là lĩnh vực hoạt động bao quát nhất của Quốc
hội. Quá trình xây dựng và ban hành pháp luật bao gồm rất nhiều giai đoạn khác
nhau trong đó có ba giai đoạn cơ bản: sáng quyền lập pháp; thông qua luật; công
bố luật. Thực tiễn hoạt động lập pháp cho thấy đa số các dự án đều do Chính phủ -
hành pháp đệ trình. Quyền công bố luật thuộc về ngời đứng đầu nhà nớc. Thông
qua dự án luật thuộc về quyền của Quốc hội. Bởi thế, hiến pháp của đa số các nớc
trên thế giới đều quy định Quốc hội có quyền thông qua luật, chứ không quy định
là Quốc hội có quyền làm luật. Mà nếu có quy định là Quốc hội có quyền làm luật
thì trong quá trình lập pháp, Quốc hội thờng cũng chỉ thực hiện quyền thông qua
dự án luật.
Về sáng quyền lập pháp, Điều 23, Hiến pháp 1946 quy định: "Nghị viện

nhân dân đặt ra các pháp luật..." [14;12], mà không quy định cụ thể ai có quyền
trình dự án luật và các kiến nghị về luật. Chỉ có một cơ quan mà Hiến pháp quy
định một cách cụ thể trao cho sáng quyền lập pháp, đó là Chính phủ. Điều 52,
Hiến pháp 1946 khi đề cập đến quyền hạn của Chính phủ, quy định: " Đề nghị
những dự án luật ra trớc nghị viện; Đề nghị những dự án sắc luật ra trớc Ban Th-
ờng vụ, trong lúc Nghị viện không họp mà gặp trờng hợp đặc biệt [14;19]. Từ
những quy định trên và theo tinh thần của Hiến pháp ta thấy rằng Hiến pháp đã
nghi nhận quyền tham gia lập pháp của cơ quan hành pháp - Chính phủ, mà quyền
này thực tế là rất lớn, chi phối hoạt động lập pháp. Nhng quy định này là phù hợp
với chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mỗi cơ quan nhằm mục đích nâng cao
hiệu quả hoạt động lập pháp.
Không giống với Việt Nam nơi mà các chủ thể có quyền sáng kiến pháp
luật tơng đối rộng rãi bao gồm cả lập pháp và hành pháp, luật pháp Hoa Kỳ quy
định rõ chủ thể có quyền sáng kiến pháp luật, đó là chỉ các nghị sĩ Quốc hội (Hạ
nghị viện và Thợng nghị viện) và chỉ có các nghị sĩ đại diện cho ý chí của cử tri cả
nớc mới có quyền trình dự án luật, kiến nghị về luật ra trớc Quốc hội. Sáng quyền
lập pháp đợc coi là đặc quyền của nghị sĩ, đặc quyền của Quốc hội, nó đợc giới
luật học cho rằng nhằm bảo vệ quyền hạn lập pháp đích thực của Quốc hội.
Theo cơ chế tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nớc Mĩ, các cành quyền lực
độc lập tuyệt đối với nhau nên trong lĩnh vực làm luật (lập pháp), hành pháp và t
pháp không có quyền tham gia để bảo vệ sự độc lập của Quốc hội khi thông qua
luật không bị sức ép của hành pháp - cơ quan thực thi pháp luật. "Nhng trên thực
tế, đa số các đạo luật cũng nh các quyết định quan trọng của Quốc hội đợc thông
qua là do hành pháp đề xuất. Cụ thể là Tổng thống- ngời đứng đầu bộ máy hành
pháp không có quyền trình dự án luật ra trớc Quốc hội. Nhng để Quốc hội thông
qua một đạo luật nào đó thì Tổng thống có quyền lu ý Quốc hội về vấn đề cần đợc
điều chỉnh bằng luật ngay trong buổi đọc diễn văn khai mạc kỳ họp Quốc hội.
Ngoài ra, Tổng thống còn dùng nhiều biện pháp tác động đến quy trình lập pháp
của Quốc hội nh gửi thông điệp cho Quốc hội hoặc thông qua các cuộc trao đổi
thờng xuyên với đảng viên - nghị sĩ thuộc đảng của Tổng thống mà Tổng thống có

quyền yêu cầu họ phải trình dự án luật trớc Quốc hội [13;169].
Khác với chính thể cộng hoà tổng thống ở Mĩ, chủ thể có quyền sáng kiến
pháp luật theo chính thể đại nghị ở Anh rộng rãi hơn, đó không chỉ là đặc quyền
của các nghị sĩ, mà còn mở rộng đến các thành viên hành pháp. Vì hành pháp với
sự mệnh là ngời thực hiện chính sách đợc Quốc hội xác định, và có kiến thức sâu
sắc về hành chính, có nhiều kỹ thuật hơn Quốc hội trong việc giải quyết các vấn
đề phức tạp và để chuẩn bị các dự án với một bảo đảm pháp lý. Theo pháp luật và
tập quán Anh quốc, chủ thể đợc quyền sáng kiến lập pháp bao gồm: nghị sĩ Quốc
hội; Nguyên thủ quốc gia; thành viên Chính phủ. Do đặc điểm này của chính thể
đại nghị mà trên thực tế, phần lớn công việc của Quốc hội đều do hành pháp
chuẩn bị, đã biến hoạt động của Quốc hội thành "nghị gật"
Giai đoạn thảo luận và thông qua dự án luật, ở các Nhà nớc Anh, Mĩ, trong
quá trình thảo luận và thông qua dự án luật đợc thực hiện một cách kỹ càng và cẩn
trọng. ở hai Nhà nớc này, mô hình Quốc hội về hình thức đợc cơ cấu làm hai Viện
hoạt động thờng xuyên. Cho nên, một dự án luật khi đợc trình lên Quốc hội sẽ đợc
hai Viện thông qua nên sẽ kỹ càng hơn. Đồng thời, trong tổ chức của Quốc hội,
với sự tham gia hoạt động một cách tích cực của các uỷ ban, mà hầu hết các dự án
pháp trớc khi đợc trình lên Quốc hội đều phải thông qua các uỷ ban chuyên môn
xem xét một cách kỹ lỡng.
Giai đoạn công bố luật, công bố luật (hay dự án luật), theo quy định của
Hiến pháp 1946, Hiến pháp Hoa Kỳ và Anh quốc, là thuộc về ngời đứng đầu nhà
nớc (Nguyên thủ quốc gia). (phần này đã đợc phân tích ở mục về Nguyên thủ
quốc gia ở trên).
Một đặc điểm khác biệt giữa Quốc Hội Việt Nam theo Hiến pháp 1946 so
với Quốc hội của các nhà nớc Anh, Mỹ là vấn đề lập pháp uỷ quyền. Mặc dù,
Quốc hội đợc Hiến pháp quy định là cơ quan quyền lực nhà nớc cao nhất, cơ quan
duy nhất có quyền lập pháp, nhng vì lý do Quốc hội hoạt động không thờng
xuyên, cho nên Quốc hội uỷ quyền lập pháp cho cơ quan nhà nớc khác. Nhng
khác với các nớc t bản, Quốc hội thờng uỷ quyền lập pháp cho Chính phủ, thì ở
các nớc xã hội chủ nghĩa Quốc hội thờng uỷ quyền lập pháp cho cơ quan thờng

trực của mình. Điểm a Điều 36 Hiến pháp 1946 khi đề cập đến quyền hạn của Ban
Thờng vụ, đã quy định:"Biểu quyết những dự án pháp luật của Chính phủ. Những
dự án sắc luật đó trình Nghị viện vào phiên họp gần nhất để nghị viện ng chuẩn
hoặc phế bỏ" [14;15].
Quyền tham gia thành lập các cơ quan nhà nớc.
Quốc hội theo quy định của hiến pháp 1946 có quyền hạn rộng rãi tham gia
vào việc thành lập Chính phủ. Điều 45 Hiến pháp 1946 quy định: "Chủ tịch nớc
Việt Nam dân chủ cộng hoà chọn trong Nghị viện nhân dân và phải đợc hai phần
ba tổng số nghị viên bỏ phiếu thuận...". Tiếp đó Điều 47 quy định: "Chủ tịch nớc
Việt Nam chọn Thủ tớng trong Nghị viện và đa ra Nghị viện biểu quyết. Nếu đơc
Nghị viện tín nhiệm, Thủ tớng chọn các Bộ trởng trong Nghị viện và đa ra Nghị
viện biểu quyết toàn thể danh sách" [14;16-17]. Nh vậy, Hiến pháp chỉ quy định
Nghị viện có quyền tham gia thành lập Chính phủ mà không quy định quyền tham
gia thành lập các cơ quan t pháp. Giống với quy định Hiến pháp 1946, Nghị viện
Anh (Hạ nghị viện) chỉ có quyền tham gia thành lập Chính phủ. Theo quy định
của pháp luật và tập tục của nớc Anh, Chính phủ do ngời đứng đầu nhà nớc thiết
lập. Nhà vua đợc quyền tự mình chọn Thủ tớng trong Nghị viện, nhng do sự tham
gia hoạt động của các đảng phái vào nghị trờng, cho nên chức danh Thủ tớng đợc
nhà Vua chọn không ai khác hơn ngoài thủ lĩnh (ngời có uy tín nhất) của đảng
giành đợc đa số ghế trong cuộc bâu cử lập pháp. Theo đề nghị của Thủ tớng,
Hoàng đế Anh bổ nhiệm các Bộ trởng, và Bộ trởng nhất thiết phải là thành viên
của Nghị viện. Chính phủ do ngời đứng đầu nhà nớc thành lập nhng cần phải có
sự tín nhiệm của Nghị viện. Trong khi đó, Nghị viện của Nhà nớc cộng hoà tổng
thống ở Mỹ chỉ đợc tham gia một cách hạn chế vào việc thành lập các cơ quan
nhà nớc. Theo quy định của Hiến pháp, các thành viên của Chính phủ, thẩm phán
toà án tối cao liên bang do Thợng nghị viện phê chuẩn theo sự đề nghị của Tổng
thống.
Trong lĩnh vực ngân sách.
Đây là một quyền hạn quan trọng của Quốc hội. Nhng theo quy định của
pháp luật, Chính phủ là mới cơ quan đứng ra xây dựng kế hoạch ngân sách, còn

Quốc hội chỉ là cơ quan thông qua ngân sách. Điều quan trọng cần chú ý ở đây là,
trong các Nhà nớc Anh, Mỹ do áp dụng học thuyết tam quyền phân lập vào việc tổ
chức nhà nớc, nên việc thông qua ngân sách của Quốc hội là một quyền hạn rộng
lớn của lập pháp để đối trọng với các quyền hạn của hành pháp. ở Mỹ, nơi áp
dụng học thuyết phân quyền một cách cứng rắn, các bất đồng xảy ra trong mối

×