Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

NHỮNG QUAN ĐIỂM ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CÔNG TÁC QUẢN LÝ THUẾ KHU VỰC KINH TẾ NQD Ở HÀ TÂY NHỮNG NĂM TỚI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (193.11 KB, 24 trang )

NHỮNG QUAN ĐIỂM ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP
HOÀN THIỆN CÔNG TÁC QUẢN LÝ THUẾ KHU VỰC
KINH TẾ NQD Ở HÀ TÂY NHỮNG NĂM TỚI
3.1. MỘT SỐ QUAN ĐIỂM CƠ BẢN NHẰM HOÀN THIỆN QUẢN LÝ THUẾ
NGOÀI QUỐC DOANH Ở HÀ TÂY
3.1.1. Quản lý thu thuế là nhiệm vụ chung của cơ quan thuế, chính
quyền địa phương và cơ quan liên quan
Thuế giữ vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển kinh tế, đối với
hoạt động của nhà nước và có ảnh hưởng đến toàn bộ dân cư. Vì vậy, quản lý
thuế nói chung, quản lý thuế đối với khu vực KTNQD nói riêng, phải được coi
là nhiệm vụ chung của cơ quan thuế, chính quyền địa phương và cơ quan liên
quan. Cụ thể là:
- Phải xác định việc lãnh đạo, chỉ đạo công tác thuế là một trong
những nhiệm vụ trung tâm, thường xuyên của chính quyền địa phương.
Tăng cường sự chỉ đạo, lãnh đạo của chính quyền các cấp (đặc biệt
là cấp cơ sở) đối với công tác thuế là yếu tố quan trọng nhằm quản lý thu
thuế đạt hiệu quả đồng thời phát huy hiệu lực quản lý Nhà nước của chính
quyền cơ sở.
Chính quyền các cấp có chức năng quản lý Nhà nước ở địa phương
nhằm đảm bảo cho hiến pháp, pháp luật của Nhà nước được tôn trọng và
chấp hành nghiêm chỉnh cở cơ sở, đảm bảo quyền làm chủ của nhân dân
lao động, động viên mọi công dân làm tròn nghĩa vụ với Nhà nước. Chính
quyền cơ sở có nhiệm vụ tổ chức thực hiện nhiệm vụ ngân sách của địa
phương, phối hợp với các cơ quan chức năng để đảm bảo thu đúng, thu đủ,
kịp thời các loại thuế và các khoản thu phát sinh ở địa phương. Với tư cách
là chính quyền Nhà nước, UBND các cấp có quyền giám sát, kiểm tra các
hoạt động kinh tế - xã hội của mọi thành phần kinh tế để đảm bảo chính
sách pháp luật, giữ gìn pháp chếp XHCN và quyền lợi chung của Nhà nước
cũng như của mọi tầng lớp nhân dân.
Công tác quản lý thu thuế là công tác kinh tế, chính trị tổng hợp liên
quan đến mọi thành phần kinh tế trong xã hội, đến mọi tầng lớp nhân dân;


là cuộc đấu tranh gay gắt giữa lợi ích cá nhân cục bộ với lợi ích quốc gia,
giữa quyền lợi và nghĩa vụ của mọi công dân, mọi tổ chức hoạt động kinh
doanh. Vì vậy, không thể tách công tác quản lý thu thuế của ngành thuế ra
khỏi sự lãnh đạo của Đảng, của chính quyền các cấp, đặc biệt là cấp cơ sở.
Phải coi việc lãnh đạo, chỉ đạo công tác thuế là nhiệm vụ trọng tâm thường
xuyên của địa phương. Trong việc cấp phát kinh phí bằng nguồn vốn ngân
sách cho chính quyền các cấp cần gắn với nhiệm vụ hoàn thành kế hoạch
thu trên các địa bàn. Các cấp uỷ Đảng cần coi trọng công tác chỉ đạo chấp
hành chính sách thuế, hoàn thành nghĩa vụ thuế là một chỉ tiêu để đánh giá
đơn vị cơ sở và Đảng bộ vững mạnh. UBND xác cấp cần chỉ đạo các ban,
ngành liên quan, các tổ chức công đoàn, đoàn thanh niên, hội phụ nữ, mặt
trận cùng phối hợp chặt chẽ với cơ quan thuế đẻ làm tốt công tác quản lý
thu thuế, chống thất thu thuế cho ngân sách.
Các cơ quan chức năng trong địa phương cần xác định rõ mối quan
hệ với cơ quan thuế, vừa là phối hợp hỗ trợ nhưng vừa là trách nhiệm cùng
cơ quan thuế đẻ thực hiện tót các luật thuế.
Cơ quan thuế các cấp phải chủ động, thường xuyên báo cáo cấp uỷ
Đảng, UBND các cấp về kết quả thu được, thực trạng quản lý thu trên địa
bàn, những khó khăn vướng mắc, kiến nghị đề xuất các phương án thu, các
biện pháp nghiệp vụ cụ thể để UBND các cấp chỉ đạo các ngành có liên
quan phối hợp với cơ quan thuế tăng cường quản lý thu thuế đạt hiệu quả
ngày càng cao hơn. Từ thực tiễn công tác quản lý thu thuế khu vực
KTNQD trên địa bàn tỉnh Hà Tây trong những năm qua cho thấy rằng; sự
tăng cường chỉ đạo của chính quyền các cấp đối với công tác thuế là bài
học kinh nghiệm để phát huy được sức mạnh tổng hợp giúp cơ quan thuế
hoàn thành nhiệm vụ thu, đồng thời phát huy hiệu lực của chính quyền cơ
sở. Những địa bàn chính quyền chưa quan tâm đến công tác thuế thì kết
quả công tác thu ở đó hạn chế thất thu nhiều.
Đi đô với cải cách hệ thống hành chính cần phải quy định rõ ràng về
quyền hạn, trách nhiệm của UBND các cấp đối với công tác thuế. Cơ quan

thuế phải thực sự là công cụ quản lý của chính quyền địa phương các cấp
đối với nền kinh tế.
Cùng với việc giao nhiệm vụ chỉ đạo quản lý thu thuế cho chính
quyền địa phương, Nhà nước cần nghiên cứu cải tiến chế độ điều tiết ngân
sách cho phường, xã đối với một số khoản thuế để bù đắp các chi phí cần
thiết cho hoạt động của bộ máy chính quyền địa phương, tránh tình trạng
UBND các cấp tự đặt ra các khoản thu không hợp lệ.
3.1.2. Bảo đảm bình đẳng về nghĩa vụ nộp thuế.
Trong cơ chế trị trường, mọi thành phần kinh tế được bình đẳng
trước pháp luật để cạnh tranh trong sản xuất kinh doanh. Do đó, hệ thống
thuế cũng phải được thực hiện thống nhất nhằm đảm bảo sự bình đẳng về
nghĩa vụ đóng góp cho NSNN giữa các cơ sở sản xuất kinh doanh thuộc
mọi thành phần kinh tế, giữa các tầng lớp dân cư. Các nhà doanh nghiệp và
cá nhân có thu nhập cao phải nộp thuế nhiều hơn những doanh nghiệp và
cá nhân có thu nhập thấp. Hàng tiêu dùng cao cấp, dịch vụ xa xỉ phải chịu
thuế suất cao hơn hàng hoá và dịch vụ thiết yếu. Qua sự điều chỉnh của
thuế góp phần điều tiết thu nhập của các tầng lớp dân cư, hạn chế sự phân
hoá và chênh lệch quá xa về thu nhập, đời sống trong xã hội. Tuy nhiên,
người có kỹ thuật cao, làm ăn giỏi vào còn thu nhập coa sau khi nộp thuế,
khuyến khích làm giàu một cách chính đáng, hợp pháp. Với chính sách
phân phối và phân phối thu nhập qua thuế, Nhà nước có nguồn thu để trợ
cấp, giúp đỡ các cơ sở sản xuất kinh doanh có khó khăn, thực hiện xoá đói
giảm nghèo và thực hiện các chính sách xã hội khác.
Trong thời gian 15 năm, nền kinh tế nước ta từng bước chuyển từ
kinh tế kế hoạch hoá tập trung, quan liên, bao cấp sang nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN có sự quản lý của Nhà nước, đã thúc đầy nền
kinh tế có những bước phát triển mạnh mẽ. Tuy nhiên, ở thành phần kinh
tế Nhà nước một số doanh nghiệp Nhà nước đang từng bước sắp xếp, tháo
gỡ khó khăn, “để kinh tế Nhà nước thực hiện tốt vai trò chủ đạo trong nền
kinh tế” [21, tr. 1989] cần thiết phải có những ưu đãi phù hợp.

Những để huy động tối đa nguồn lực, tạo sức bật mới cho phát triển
sản xuất kinh doanh của mọi thành phần kinh tế với các hình thức sở hữu
khác nhau. Mọi doanh nghiệp, mọi công dân được đầu tư kinh doanh theo
các hình tứhc do luật định và được pháp luật bảo vệ. Mọi tổ chức kinh
doanh theo các hình thức sở hữu khác nhau đan xen hỗn hợp đều được
khuyến khích phát triển lâu dài, hợp tác, cạnh tranh bình đẳng và làm bộ
phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN
[21, tr. 188].
Đối với những cơ sở sản xuất kinh doanh có tính chất độc quyền, có
nhiều lợi thuế về trang thiết bị, về sản xuất, về tiêu thụ, giá cả… phải có sự
điều tiết cao hơn, vì thường các cơ sở này có thu nhập cao hoặc rất cao so
với các ngành nghề bình thường.
“Đối với kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài là một bộ phận của nền
kinh tế Việt Nam, được khuyến khích phát triển, hướng mạnh vào sản xuất,
kinh doanh hàng hoá và dịch vụ xuất khẩu, hàng hoá và dịch vụ có công
nghệ cao, xây dựng kết cấu hạ tầng” [13, tr. 191 - 192], việc ưu đãi về thuế
ở mức độ nhất định, thời gian đầu tư của quá trình chủ động mở cửa hội
nhập là cần thiết nhằm mục tiêu thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Nhưng
thực tế, đây không phải là yếu tố hấp dẫn duy nhất, những vấn đề mà các
nhà đầu tư quan tâm hơn là: tình hình chính trị, luật pháp ổn định, điều
kiện về cơ sở hạ tầng, thông tin liên lạc, kinh tế - xã hội… Ưu đãi về thuế
quá nhiều chưa hẳn đã gây được sự quan tâm của các nhà đầu tư, có khi
còn tạo cho họ hoài nghi môi trường đầu tư và tạo sơ hở để họ lợi dụng
hoạt động “núp bóng” nhằm trốn thuế. Thường thường, môi trường đầu tư
tốt được thể hiện trên các mặt quan trọng về chính sách thuế thống nhất,
quyền lực thuế tập trung, pháp chế thuế được kiện toàn. Về mặt tài chính
của NSNN, nhiều cuộc điều tra ở các nước đang phát triển cho thấy những
ưu đãi về thuế thường làm giảm từ 2 - 13% tổng số thu ngân sách, có khi
kết quả mang lại về tài chính – kinh tế - xã hội cho nước chủ nhà bị suy
giảm nhưng lại làm giàu cho tư bản nước ngoài, có điều kiện khai thác tài

nguyên, nhân công rẻ mạt để có thu nhập siêu ngạch. Do đó, về lâu dài cần
phải nghiên cứu, thu hẹp, từng bước xoá bỏ mọi sự phân biệt đối xử tràn
lan về nghĩa vụ nộp thuế đối với thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước
ngoài, bảo đảm sự bình đẳng và cạnh tranh lành mạnh với các cơ sở sản
xuất kinh doanh thuộc các thành phần kinh tế trong nước, tạo điều kiện bảo
vệ và thúc đẩy sản xuất nội địa phát triển lành mạnh, có lợi cho quốc tế
dân sinh.
3.1.3. Quản lý thuế NQD phải được đổi mới theo hướng: ĐTNT
tự tính, tự khai và tự nộp thuế.
Chế độ tự khai, tự tính, tự nộp thuế là xu hướng của nền quản lý thuế
hiện đại, sẽ nâng cao ý thức tự giác, đề cao trách nhiệm trước pháp luật của
người nộp thuế. Có như vậy mới thể hiện nộp thuế là nghĩa vụ và là quyền
lợi của mọi tổ chức, cá nhân. Nếu việc tính thuế, khai thuế sai và nộp thuế
không đúng thời hạn sẽ bị xử lý vi phạm hành chính về thuế mà không thể
đổ lỗi cho người khác.
Trong cơ chế kinh tế thị trường, đối tượng nộp thuế ngày càng nhiều.
Đối tượng nộp thuế thuế sử dụng đất, thuế thu nhập cá nhân đã và sẽ lên
tới hàng chục triệu. Cơ quan thuế sẽ không thể làm thay công việc của đối
tượng nộp thuế. Hiện nay cơ quan thuế còn kiểm tra để ra thông báo mức
thuế phải nộp cho các đối tượng nộp thuế. Việc thông báo này có hạn chế
do tờ khai thuế là các số liệu tổng hợp nên việc kiểm tra tính chính xác hay
không chính xác rất khó khăn, vì vậy, chủ yếu là thông báo theo mức kê
khai của đối tượng nộp thuế; Nếu chờ nhận được tờ khai, kiểm tra và ra
thông báo thuế thường phải dồn vào khoảng tuần thứ 2 của tháng (tuần đầu
do đơn vị kê khai), do đó tạo ra cho cơ quan thế một khối lượng công việc
rất nặng nề, phải triển khai trong một khoảng thời gian ngắn; Mặt khác
trong trường hợp này, đối tượng nộp thuế phải chờ đợi thông báo thuế nên
việc nộp thuế bị chậm trễ.
Chế độ tự khai, tự tính, tự nộp thuế sẽ giảm bớt được chi phí thông báo
nộp thuế và chi phí tuân thủ pháp luật thuế của cơ sở kinh doanh. Với cơ chế nộp

thuế hiện nay, hàng năm cơ quan thuế phải thông báo thuế ít nhất là 2 lần cho gần
23 triệu hộ nộp thuế ổn định (trong đó: 11 triệu hộ nộp thuế sử dụng đất nông
nghiệp; khoảng 10,5 triệu hộ nộp thuế nhà đất và gần 1,5 triệu hộ kinh doanh cá
thể). Ngoài ra hàng tháng cơ quan thuế phát hành thông báo nộp thuế GTGT cho
khoảng 137.000 tổ chức, cá nhân sản xuất kinh doanh. Trong đó, TP. Hồ Chí
Minh 30.000 tờ/tháng, TP Hà Nội 15.000 tờ/tháng. Với số lượng in thông báo nêu
trên rất tốn kém.
Đặc biệt áp dụng chế độ tự khai, tự tính, tự nộp thuế là phù hợp với cơ chế
quản lý thuế của tất cả các nước trên thế giới, các nước trong khối ASIAN và các
nước có nền kinh tế chuyển đổi như Trung Quốc và Đông Âu.
3.2. MỘT SỐ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG QUẢN LÝ THUẾ ĐỐI VỚI KHU
VỰC KINH TẾ NGOÀI QUỐC DOANH
3.2.1. Nâng cao chất lượng công tác quản lý thuế đối với KTNQD
trên địa bàn.
Chất lượng công tác quản lý thuế đối với khu vực KTNQD liên quan
tới rất nhiều vấn đề nhưng trước hết trực tiếp phụ thuộc vào công tác quản
lý đối tượng nộp thuế (đơn vị kinh doanh) và quản lý số thuế phải nộp tại
các đơn vị này.
- Về quản lý đối tượng kinh doanh
Phải phối hợp với các ngành chức năng kiểm tra, xác định số lượng
doanh nghiệp thực tế không hoạt động, số lượng có hoạt động, quy mô,
ngành nghề kinh doanh và số thuế tồn đọng, thực trạng năng lực quản lý
của kinh doanh để làm cơ sở cho việc đề ra các biện pháp quản lý phù hợp.
Cụ thể: Đối chiếu số doanh nghiệp đã được cấp đăng ký kinh doanh với số
doanh nghiệp được cấp mã số thuế, số doanh nghiệp kê khai nộp thuế trên
cơ sở đó thống kê những doanh nghiệp đã được cấp đăng ký kinh doanh
nhưng không đăng ký thuế, không xin cấp mã số thuế, số doanh nghiệp đã
có mã số thuế nhưng trong thời gian dài không hoạt động, không kê khai
nộp thuế, từ đó phối hợp với các ngành ở địa phương và cơ quan thuế tỉnh,
huyện, thị xã tổ chức kiểm tra phát hiện những doanh nghiệp có kinh

doanh nhưng không xin cấp mã số, không kê khai nộp thuế. Tiến hành xử
phạt vi phạm hành chính và ấn định thuế GTGT, TNDN để thu ở những
tháng không kê khai. Đối với những doanh nghiệp qua kiểm tra không tồn
tại hoặc đã ngừng hoạt động thì đề nghị Sở Kế hoạch - Đầu tư thông báo
công khai và thực hiện thu hồi đăng ký kinh doanh. Đối với những doanh
nghiệp di chuyển địa điểm nhưng không khai báo phải phạt vi phạm hành
chính và ấn định thuế đối với những tháng không kê khai, yêu cầu doanh
nghiệp nộp ngày tiền thuế vào ngân sách.
- Về quản lý nộp thuế
Đẩy mạnh triển khai chế độ kế toán đối với các doanh nghiệp NQD
đặc biệt là đối với các doanh nghiệp mới thành lập, đảm bảo 100% doanh
nghiệp đều thực hiện chế độ kế toán, hoá đơn chứng từ và kê khai nộp thuế
theo quy định.
Kết hợp kiểm tra kê khai nộp thuế, kiểm tra quyết toán thuế với kiểm
tra việc thực hiện chế độ kế toán, hoá đơn chứng từ phát hiện và xử lý các
doanh nghiệp vi phạm chế độ kế toán, hoá đơn chứng từ, những doanh
nghiệp khai khống giá mua hàng, bán hàng không lập hoá đơn hoặc lập hoá
đơn nhưng ghi giá thấp hơn giá thực tế thanh toán nhằm mục đích trốn lậu
thuế. Nếu kiểm tra phát hiện được các vi phạm phải kiên quyết áp dụng các
biện pháp ấn định giá để tính thuế. Tất nhiên biện pháp này không thể thực
hiện tuỳ tiện, không được sử dụng như một mục đích để tăng thu.
Qua kiểm tra quyết toán thuế và kiểm tra kê khai nộp thuế, nếu thấy
doanh nghiệp có dấu hiệu kê khai không thực hoặc có nghi vấn trốn lậu
thuế thì báo cáo lãnh đạo Cục thuế tiến hành kiểm tra thực tế hoặc xác
minh hoá đơn, nếu phát hiện phạm vi thì thuỳ theo mức độ vi phạm mà xử
phạt vi phạm hành chính, truy thu thuế hoặc ấn định mức thuế phải nộp
cao hơn mức kê khai sát đúng với thực tế kinh doanh của cơ sở.
Đối với những doanh nghiệp Cục thuế đã phân cấp cho Chi cục thuế
quản lý, các chi cục thuế phải hướng dẫn và kiểm tra doanh nghiệp thực
hiện chế độ kế toán, hoá đơn chứng từ và kê khai nộp thuế GTGT theo

phương pháp khấu trừ. Không được áp dụng hình thức thu thuế khoán.
Trường hợp doanh nghiệp vi phạm chế độ kế toán, hoá đơn chứng từ, vi
phạm chế độ kê khai phải phạt vi phạm hành chính và ấn định mức thuế
phải nộp. Đối với các doanh nghiệp NQD do chi cục thuế quản lý thu, để
tiện việc theo dõi và quản lý các chi cục nên bố trí bộ phận cán bộ quản lý
thu phù hợp, không nên để doanh nghiệp ở địa bàn phường, xã nào đội
thuế phường, xã đó quản lý sẽ dẫn đến khó khăn cho quá trình tổ chức
quản lý thu cũng như việc đánh giá kết quả 3 tháng, 6 tháng, 1 năm.
Để đổi mới phương thức quản lý thu-nộp thuế, cần thực hiện tốt quy
trình quản lý thuế hiện đại mà các nước đang thực hiện, là xoá bỏ quy trình
quản lý theo chế độ “chuyên quản”, không phù hợp với tình hình nhiệm vụ
mới, áp dụng rộng rãi chế độ tự tính, tự khai, tự nộp thuế.
Theo chế độ này, đối tượng nộp thuế phải đề cao tinh thần tự giác
thực hiện nghĩa vụ theo luật pháp quy định, thực hiện tự tính thuế, tự kê
khai thuế dược vào kết quả hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ của
mình và nộp thuế và Kho bạc Nhà nước. Cơ quan thuế thực hiện hành thu
theo đúng chức năng Nhà nước quy định, hạn chế việc cán bộ thuế tiếp xúc
riêng với hạn chế nộp thuế, áp dụng hình thức phạt nặng đối với các
trường hợp khai man, trốn thuế, bảo đảm thu đúng, thu đủ, thu kịp thời cho
NSNN, giảm hiện tượng tiêu cực cả đối với người nộp thuế và cán bộ thu
thuế.
Các doanh nghiệp phải thực hiện nghiêm chỉnh chế độ hoá đơn, kế
toán, đặc biệt theo chế độ mã số thuế, cả đối với người bán và người mua
hàng. Qua đó, có căn cứ chính xác để thực hiện đúng đắn việc tự tính thuế,
kê khai thuế đối với doanh nghiệp, có cơ sở việc khaúa trừ tiền thuế GTGT
đầu vào và có tài liệu để cán bộ thuế kiểm tra xác định tính thuế đúng hay
sai.
Thông qua chế độ tự tính thuế, tự kê khai, tự nộp thuế vào kho bạc
Nhà nước, doanh nghiệp nâng cao được ý thức trách nhiệm về thực hiện
nghĩa vụ nộp thuế, kết hợp với việc xử lý nghiêm minh các trường hợp

trốn lậu thuế [28].
Liên quan đến vấn đề này, ngành thuế và các cơ quan lãnh đạo tỉnh
Hà Tây cần sớm rà soát lại việc thực hiện thí điểm các Đề án quản lý thuế
đối với các doanh nghiệp chuyên ngành (các ngành kinh doanh xăng dầu,
sản xuất bia, kinh doanh vận tải). Từ những mô hình này, ngành thuế cần
rút ra những bài học kinh nghiệm để hoàn thiện cơ chế quản lý đối tượng
và công tác thu – nộp thuế KTNQD trên địa bàn.
3.2.2. Kiện toàn bộ máy quản lý thuế, nâng cao chất lượng công
tác tuyển dụng, đào tạo bồi dưỡng cán bộ.
Theo phương hướng, nhiệm vụ kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5
năm 2001 - 2005 ở Đại hội Đảng lần thứ IX, cải cách hành chính là một
công việc quan trọng quyết định hành công của công cuộc đổi mới. Tổ
chức bộ máy Nhà nước theo hướng tinh gọn, trong sạch, có đủ phẩm chất
ngày càng cao của bộ quản lý thu thuế nhằm tăng cường năng lực cho đội
ngũ cán bộ thuế cũng như nâng cao tinh thần trách nhiệm của công chức
thuế trong quá trình thi hành công vụ ngành thuế cần thiết cũng phải có
những cải cách phù hợp về công tác đào tạo, bồi dưỡng nhằm nâng cao
trình độ cho cán bộ, công chức ngành thuế.
- Trước hết, về việc kiện toàn bộ máy quản lý thuế.
Trọng tâm của vấn đề này là rà soát lại đội ngũ cán bộ làm công tác
quản lý thuế, loại bỏ những cán bộ năng lực kém, phẩm chất yếu nhằm tinh
lọc và nâng cao chất lượng đội ngũ. Bên cạnh đó, tiếp tục sắp xếp, bố trí
đội ngũ cán bộ chuyên trách theo mô hình tách ba bộ phận nhằm phát huy
tác dụng của mô hình này trong quản lý thuế đối với KTNQD.
Việc thực hiện quy trình quản lý, thu thuế theo ba bộ phận phải đi
vào thực chất nhằm tăng cường công tác quản lý thu nộp thuế hiệu quả
cao, bảo đảm tính công khai, dân chủ, công bằng xã hội trong quá trình
thực hiện các luật thuế. Phát huy tính độc lập trong chuyên môn để nâng
cao vai trò, trách nhiệm của cá nhân và tập thể trong quản lý thu, nộp thuế,
có sự hỗ trợ tích cực giữa các bộ phận, khắc phục những nhược điểm,

những sơ hở trong từng bộ phận công tác, từng bước cải tiến các nghiệp vụ
hành thu theo hướng ngày càng văn minh, tiến bộ, tạo tiền đề cho việc vi
tính hoá công tác quản lý thu thuế.
Ba bộ phận quản lý thu thuế gồm:
+ Bộ phận quản lý đối tượng nộp thuế, đôn đốc thu nộp thuế và các
khoản thu nộp khác do cơ quan thuế phụ trách (bộ phận quản lý).
+ Bộ phận tính thuế, lập sổ thuế, trình lãnh đạo cơ quan thuế duyệt
các mức doanh thu, mức thuế, lập sổ thuế, phát hành thông báo thuế, theo
dõi thu nộp thuế (bộ phận kế toán).
+ Bộ phận kiểm tra, thanh tra theo dõi, xem xét việc thực hiện các quy
trình công tác của các bộ phận quản lý, bộ phận kế toán có gì đúng, sai cần
được uốn nắm, xử lý theo đúng luật gồm cả đối với cán bộ nhân viên ngành
thuế cũng như các cơ sở sản xuất kinh doanh (bộ phận thanh tra).
Ba bộ phận trên vừa có tính độc lập, đồng thời có mối quan hệ mật
thiết với nhau, hỗ trợ nhau để đảm bảo chất lượng quản lý, thu thuế với
hiệu quả cao nhất.
Bộ phận quản lý có vị trí hết sức quan trọng tạo căn cứ ban đầu cho
bộ phận kế toán, bộ phận kiểm tra thực hiện chức năng của mình được đầy
đủ.
Bộ phận kế toán thực hiện việc tính thuế, lập sổ thuế, trình lãnh đạo
cơ quan thuế duyệt và ra thông báo để đảm bảo cho bộ phận quản lý và bộ
phận kiểm tra có cơ sở thực hiện việc thu thuế, xử lý nộp chậm…
Bộ phận kiểm tra giúp bộ phận quản lý và bộ phận kế toán phát hiện
các sai sót trong việc thực hiện các quy trình nghiệp vụ. Trên cơ sở đó
hoàn chỉnh và uốn nắm kịp thời sai lệch, bảo đmr việc chấp hành các luật
thuế được đúng đắn.
Ba bộ phận thường xuyên cung cấp thông tin cho nhau, cùng trao
đổi, bàn bạc những vướng mắc phát sinh trong quá trình tổ chức quản lý

×