Tải bản đầy đủ (.docx) (34 trang)

GIỚI THIỆU CHUNG VỀ VÀNG VÀ THỊ TRƯỜNG VÀNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (266.26 KB, 34 trang )

GIỚI THIỆU CHUNG VỀ VÀNG VÀ THỊ TRƯỜNG VÀNG
1. GIỚI THIỆU VỀ KIM LOẠI VÀNG
1.1 Giới thiệu về kim loại vàng
Vàng là một nguyên tố hóa học với ký hiệu Au (từ La tinh aurum nghĩa là tỏa
sáng) có số hiệu nguyên tử trong bàng tuần hoàn hóa học là 79. Là kim loại
chuyển tiếp (hoá trị 3 và 1)
Tính chất vật lý và hóa học.
- Mềm, dễ uốn dát nhất được biết. Thực tế, 1 g vàng có thể được dập thành tấm
1 m², hoặc 1 ounce thành 300 feet². Là kim loại mềm, vàng thường tạo hợp kim
với các kim loại khác để làm cho nó cứng thêm.
- màu vàng và chiếu sáng, có màu vàng khi thành khối, nhưng có thể có màu
đen, hồng ngọc hay tía khi được cắt nhuyễn.
- vàng không phản ứng với hầu hết các hoá chất
- Vàng được dùng làm một tiêu chuẩn tiền tệ ở nhiều nước và cũng được sử
dụng trong các ngành trang sức, nha khoa và điện tử. Mã tiền tệ ISO của nó là
XAU.
- Vàng có tính dẫn nhiệt và điện tốt, không bị tác động bởi không khí và phần
lớn hoá chất (chỉ có bạc và đồng là những chất dẫn điện tốt hơn). Nó không bị
ảnh hưởng về mặt hoá học bởi nhiệt, độ ẩm, ôxy và hầu hết chất ăn mòn; vì vậy
nó thích hợp để tạo tiền kim loại và trang sức. Các halogen có tác dụng hoá học
với vàng, còn nước cường toan thì hoà tan nó.
- Màu của vàng rắn cũng như của dung dịch keo từ vàng (có màu đậm, thường
tía) được tạo ra bởi tần số plasmon của nguyên tố này nằm trong khoảng thấy
được, tạo ra ánh sáng vàng và đỏ khi phản xạ và ánh sáng xanh khi hấp thụ.
Vàng nguyên thuỷ có chứa khoảng 8 đến 10% bạc, nhưng thường nhiều hơn thế.
Hợp kim tự nhiên với thành phần bạc cao (hơn 20%) được gọi là electrum. Khi
lượng bạc tăng, màu trở nên trắng hơn và trọng lượng riêng giảm.
- Vàng tạo hợp kim với nhiều kim loại khác; hợp kim với đồng cho màu đỏ hơn,
hợp kim với sắt màu xanh lá, hợp kim với nhôm cho màu tía, với bạch kim cho
màu trắng, bismuth tự nhiên với hợp kim bạc cho màu đen. Đồ trang sức được
làm bằng các kết hợp vàng nhiều màu được bán cho du khách ở miền Tây nước


Mĩ được gọi là "vàng Black Hills".
- Trạng thái ôxi hoá thường gặp của vàng gồm +1 (vàng(I) hay hợp chất aurous)
và +3 (vàng(III) hay hợp chất auric). Ion vàng trong dung dịch sẵn sàng được
khử và kết tủa thành vàng kim loại nếu thêm hầu như bất cứ kim loại nào khác
làm tác nhân khử. Kim loại thêm vào được ôxi hoá và hoà tan cho phép vàng có
thể được lấy khỏi dung dịch và được khôi phục ở dạng kết tủa rắn.
1.2 Ứng dụng của vàng.
Vàng nguyên chất quá mềm không thể dùng cho việc thông thường nên chúng
thường được làm cứng bằng cách tạo hợp kim với bạc, đồng và các kim loại
khác. Vàng và hợp kim của nó thường được dùng nhiều nhất trong ngành trang
sức, tiền kim loại và là một chuẩn cho trao đổi tiền tệ ở nhiều nước.
Vì tính dẫn điện tuyệt vời, tính kháng ăn mòn và các kết hợp lí tính và hóa tính
mong muốn khác, vàng nổi bật vào cuối thế kỉ 20 như là một kim loại công
nghiệp thiết yếu.
Các ứng dụng khác:
• Vàng có thể được làm thành sợi và dùng trong ngành thêu.
• Vàng thực hiện các chức năng quan trọng trong máy tính, thiết bị
thông tin liên lạc, đầu máy máy bay phản lực, tàu không gian và nhiều
sản phẩm khác.
• Tính dẫn điện cao và đề kháng với ôxi hoá của vàng khiến nó được
sử dụng rộng rãi để mạ bề mặt các đầu nối điện, bảo đảm tiếp xúc tốt và
trở kháng thấp.
• Vàng được dùng trong nha khoa phục hồi, đặc biệt trong phục hồi
răng như thân răng và cầu răng giả.
• Vàng keo (hạt nano vàng) là dung dịch đậm màu hiện đang được
nghiên cứu trong nhiều phòng thí nghiệm y học, sinh học, v.v. Nó cũng là
dạng được dùng làm nước sơn vàng lên ceramic trước khi nung.
• Chlorauric acid được dùng trong chụp ảnh để xử lí ảnh bạc.
• Disodium aurothiomalate dùng để điều trị viêm khớp dạng thấp.
• Đồng vị vàng Au-198, (bán huỷ: 2,7 ngày) được dùng điều trị một

số ung thư và một số bệnh khác.
• Vàng được dùng để tạo lớp áo phủ, giúp cho các vật chất sinh học
có thể xem được dưới kính hiển vi điện tử quét.
1. Đơn vị đo lường và Cách qui đổi giá vàng thế giới và vàng trong nước
- Các đơn vị đo lường của Vàng: Trong ngành kim hoàn ở Việt Nam, khối lượng
của vàng được tính theo đơn vị là cây (lượng hay lạng) hoặc là chỉ. Một cây
vàng nặng 37,50 gram. Một chỉ bằng 1/10 cây vàng. Trên thị trường thế giới,
vàng thường được tính theo đơn vị là ounce hay troy ounce. 1 ounce tương
đương 31.103476 gram.
- Tuổi vàng (hay hàm lượng vàng) được tính theo thang độ K (karat). Một Karat
tương đương 1/24 vàng nguyên chất. Vàng 9999 tương đương với 24K. Khi
người ta nói tuổi vàng là 18K thì nó tương đương với hàm lượng vàng trong
mẫu xấp xỉ 75%. Vàng dung trong ngành trang sức thông thường còn gọi là
vàng tây có tuổi khoảng 18K.
• Thị trường vàng thế giới
o Đơn vị yết giá (thông thường): USD/ounce
o 1 ounce = 1 troy ounce = 0.83 lượng
o 1lượng = 1.20556 ounce
• Thị trường vàng trong nước
o Đơn vị yết giá: VND/lượng
o Công thức chuyển đổi giá vàng thế giới (TG) sang giá vàng trong nước
(TN):
2. VAI TRÒ CỦA VÀNG TRONG NỀN KINH TẾ
2.1 Vàng với vai trò là một loại tiền tệ
2.1.1 Các tính chất để vàng trở thành phương tiện lưu thông tiền tệ
Để có thể thực hiện được các chức năng của tiền, vàng có các tính chất cơ bản
sau đây:
- Tính được chấp nhận rộng rãi: đây là tính chất quan trong nhất của tiền tệ,
người dân phải sẵn sàng chấp nhận tiền trong lưu thông, nếu khác đi nó sẽ
không được coi là tiền nữa. Kể cả một tờ giấy bạc do ngân hàng trung ương

phát hành cũng sẽ mất đi bản chất của nó khi mà trong thời kỳ siêu lạm phát,
người ta không chấp nhận nó như là một phương tiện trao đổi.
- Tính dễ nhận biết: Muốn dễ được chấp nhận thì tiền tệ phải dễ nhận biết,
người ta có thể nhận ra nó trong lưu thông một cách dễ dàng. Người ta có thể
dùng lửa để nhận biết được vàng có thật hay không.
TN = (TG + phí vận chuyển) * 1.20556 * (1+thuế NK)* tỉ giá USD/VND + phí gia công
- Tính có thể chia nhỏ được: tiền tệ phải có các loại mênh giá khác nhau sao cho
người bán được nhận đúng số tiền bán hàng còn người mua khi thanh toán bằng
một loại tiền có mệnh giá lớn thì phải được nhận tiền trả lại. Tính chất này giúp
cho tiền tệ khắc phục được sự bất tiện của phương thức hàng đổi hàng: nếu một
người mang một con bò đi đổi gạo thì anh ta phải nhận về số gạo nhiều hơn
mức anh ta cần trong khi lại không có được những thứ khác cũng cần thiết
không kém.
- Tính lâu bền: tiền tệ phải lâu bền thì mới thực hiện được chức năng cất trữ giá
trị cũng như mới có ích trong trao đổi. Một vật mau hỏng không thể dùng để
làm tiền, chính vì vậy những tờ giấy bạc được in trên chất liệu có chất lượng
cao còn tiền xu thì được làm bằng kim loại bền chắc.
- Tính dễ vận chuyển: để thuận tiện cho con người trong việc cất trữ, mang
theo, tiền tệ phải dễ vận chuyển. Đó là lý do vì sao những tờ giấy bạc và những
đồng xu có kích thước, trọng lượng rất vừa phải chứ tiền giấy không được in
khổ rộng ví dụ như khổ A4.
- Tính khan hiếm: Để dễ được chấp nhận, tiền tệ phải có tính chất khan hiếm vì
nếu có thể kiếm được nó một cách dễ dàng thì nó sẽ không còn ý nghĩa trong
việc cất trữ giá trị và không được chấp nhận trong lưu thông nữa. Vì thế trong
lịch sử những kim loại hiếm như vàng, bạc được dùng làm tiền tệ và ngày nay
ngân hàng trung ương chỉ phát hành một lượng giới hạn tiền giấy và tiền xu.
- Tính đồng nhất: tiền tệ phải có giá trị như nhau nếu chúng giống hệt nhau
không phân biệt người ta tạo ra nó lúc nào, một đồng xu 5.000 VND được làm
ra cách đây 2 năm cũng có giá trị như một đồng xu như thế vừa mới được đưa
vào lưu thông. Có như vậy tiền tệ mới thực hiện chức năng là đơn vị tính toán

một cách dễ dàng và thuận tiện trong trao đổi.
2.1.2 các tính chất của vàng để làm một loại tiền tệ
2.2 Vai trò của vàng trong các chế độ tiền tệ.
Để đánh dấu sự phát triển của các hình thái tiền tệ trong quá khức, người ta
thường nhắc tới các chế độ bản vị tiền tệ. Đó là những tiêu chuẩn để một quốc
gia xây dựng nên thể chế tiền tệ của mình. Hay hiểu một cách đơn giản hơn, bản
vị có nghĩa là quốc gia sử dụng hàng hóa đúc tiền theo thể chế như thế nào.
2.2.1 Chế độ đồng bản vị (hai bản vị vàng – bạc)
Trong lịch sử, vàng và bạc luôn là hai kim loại được ưa chuộng đặc biệt hơn hẳn
các kim loại khác, bởi vì những đặc tính của chúng đã đáp ứng được nhiều nhất
những gì mà một đồng tiền hàng hóa (commodity money) cần có: sự khan hiếm,
tính bến, có thể chuyên chở, dễ chia nhỏ, đồng chất, và chất lượng được duy trì
lâu bền. Sự chấp nhận vàng và bạc như tiền còn được củng cố từ một thực tế là
các kim loại này được thừa nhận rộng rãi là có giá trị sử dụng phi tiền tệ trong
các ngành công nghiệp và trang sức. Hơn nữa giá trị của vàng và bạc được ổn
định tương đối so với các hàng hóa khác; ngoài ra, chất lượng của chúng có thể
kiểm tra một cách chính xác và được các chuyên gia (thợ vàng) chứng nhận.
Chế độ đồng bản vị là chế độ tiền tệ đầu tiên được thừa nhận chính thức trong
lịch sử loài người. Nguyên nhân hình thành chế độ đồng bản vị là sự tăng của
sản xuất xã hội làm cho khối lượng trao đổi ngày càng lớn, dẫn đến việc đồng
tiền bạc được sử dụng trước đó trở nên không còn phù hợp nữa. Lúc này người
ta bắt đầu sử dụng thêm vàng như kim loại thứ hai để đúc tiền tệ. Vì vậy bạc và
vàng đồng thời được coi là bản vị. Cả vàng và bạc đều được tự do đúc thành
tiền và cùng có giá trị trong thanh toán và trao đổi. Trong chế độ đồng bản vị
này có hai cách quy đổi giữa giá trị đồng tiền vàng và giá trị đồng tiền bạc nên
cũng có hai chế độ đồng bản vị.
2.2.1.1 Chế độ bản vị song song
Ở dạng tinh khiết, bản vị vàng hàng hóa kim loại hoạt động trên cơ sở giá trị
đầy đủ của các đồng xu (full-bodied coins), tức giá trị tiền tệ của chúng cũng
chính là giá trị kim loại của đồng xu. Điều này hàm ý, khi giá vàng thay đổi so

với giá bạc, sẽ làm cho tỷ lệ trao đổi giữa các đồng xu vàng và bạc thay đổi
theo. Mặc dù tiền xu được đúc mang theo nhãn hiệu riêng của từng quốc gia
làm bằng chứng bảo đảm về nội dung và chất lượng kim loại, nhưng trong thực
tế các quốc gia thường đúc những đồng xu bằng hỗn hợp kim loại là vàng và
bạc hay với các kim loại khác có giá trị thấp hơn. Các quốc gia ngày càng
thường xuyên giảm tỷ trọng của vàng (hay bạc) trong các đồng xu; hành động
này được gọi là “bào mòn giá trị thực tế của tiền xu – debasement”. “Bào mòn
giá trị thực tế tiền xu” làm cho các đồng xu mất giá trị dần trong lưu thông, cho
nên hành động này được xem như là tiền thân của hành động phá giá trong thời
hiện đại.
Quá trình đồng tiền được định giá cao loại đồng tiền bị định giá thấp ra khỏi lưu
thông được thể hiện bằng thành ngữ quen thuộc với tên gọi là Quy luật
Gresham: “đồng tiền xáu đuổi đồng tiền tốt” (Bad money drives out good
money). Quy luật này được Thomas Gresham áp dụng để giải thích tại sao
phương tiện lưu thông tiền tệ của nước Anh lại giảm xuống, và trong thực tế chỉ
còn các đồng tiền bị bào mòn giá trị là tồn tại trong lưu thông. Điều này đã
thuyết phục được Nữ Hoàng Anh đi đến quyết định thay thế toàn bộ các đồng
tiền đã bị bào mòn giá trị bằng cách đúc các đồng tiền mới có giá trị đầy đủ.
Nhược điểm của chế độ tiền tệ này cũng bắt nguồn từ chính sự thay đổi tương
quan liên tục giữa vàng và bạc. Người nắm giữ tiền sẽ không thể quyết định
được việc nắm giữ tiền nào là có lợi cho mình, do đó thường có tâm lý lựa chọn
một loại tiền được sử dụng phổ biến hơn.
2.2.1.2 Chế độ bản vị kép
Khác với chế độ bản vị song song, chế độ bản vị kép lại quy định một tỉ lệ cố
định giữa giá trị của đồng tiền vàng và bạc, không phụ thuộc vào giá trị thực tế
của hai kim loại này. Nước Mỹ đã trải qua thời kỳ đồng bản vị từ năm 1792 đến
1861. Luật đúc tiền năm 1792 đã thông qua đồng đôla là đơn vị tiền tệ của Mỹ
có giá cố định với vàng và bạc. Như vậy, ở Mỹ đã chính thức hình thành chế độ
đồng bản vị. Giá trị của đôla được ấn định bằng 24,75 grains vàng (1grain =
0,0648 gam) hay 371,25 grains bạc. Điều này nghĩa là tỷ lệ trao đổi giữa vàng

và bạc là cố định “1 USD = 274 grains vàng = 371,25 grains bạc”. Như vậy,
cùng một khối lượng như nhau thì vàng luôn có giá gấp 15 lần bạc (371,25 :
24,75 = 15), và tỷ lệ 15:1 này là tương đương với giá vàng bạc trên thị trường tự
do lúc bây giờ; tuy nhiên, càng về cuối thế kỷ 18 thì giá bạc trên thị trường đã
bắt đầu giảm. Ngoài ra, các nước khác, ví dụ như Pháp, đã hình thành chế độ
đồng bản vị với tỷ lệ “bạc:vàng là 15,5:1”. Kết quả là so với nước Mỹ thì ở các
nước khác vàng đã có giá trị hơn bạc. Nếu bỏ qua chi phí giao dịch và vận
chuyển thì lãi ròng thu được khi đem 15 ounce bạc để đổi lấy 1 ounce vàng ở
Mỹ rồi bán số vàng này ở nước ngoài là 0,5 ounce bạc. Điều này đã kích thích
kích thích luồng bạc chạy vào và luồng vàng chạy ra khỏi nước Mỹ. Kết quả là
với vai trò là phương tiện lưu thông thì ở Mỹ vàng đã bị định giá thấp và bạc đã
được định giá cao, vàng từ từ biến khỏi lưu thông ở nước Mỹ; do đó, xét về mặt
danh nghĩa thì Mỹ vẫn áp dụng chế độ đồng bản vị kim loại, nhưng trên thực tế
chế độ này đã chấm dứt để nhừng chỗ cho chế độ đơn bản vị của bạc.
Chế độ đơn bản vị bạc tồn tại cho tới năm 1834, khi Quốc hội Mỹ quyết định
tăng giá vàng từ $19,394/ounce lên $20,76/ounce, trong khi đó giá bạc vẫn giữ
nguyên nhằm khôi phục lại chế độ đồng bản vị kim loại. Như vậy tỷ lệ bạc :
vàng là 16, trong khi trên thế giới vẫn là 15,5. Mộ lần nữa trong thực tế nước
Mỹ lại chỉ còn chế độ đơn bản vị kim loại là Vàng.
Năm 1879, Mỹ quyết định chuyển đổi trở lại USD ra vàng mà không chuyển
đổi ra bạc, đây là một bước quan trọng trong việc hình thành chế độ đơn bản vị
vàng (bản vị vàng) ở Mỹ. Tuy nhiên chế độ này vẫn không được chính thức phê
chuẩn cho tới khi có Đạo luật Bản vị vàng vào năm 1990.
2.2.1 Chế độ bản vị vàng
Mặc dù nước Anh hoạt động dưới chế độ bản vị vàng trong hầu hết thể ký 19,
nhưng nhìn chung chế độ này vẫn chưa được áp dụng một cách phổ biến cho tới
những năm 1870. Hầu hết các nước châu âu, mà dẫn đầu là Đức, đã chuyển
sang chế độ bản vị vàng trong thấp niên 1870, và tiếp sau à Mỹ vào năm 1879.
Năm 1880, bản vị vàng từ một ít quốc gia đã phát triển thành Hệ thống tiền tệ
quốc tế với hầu hết các nước áp dụng. Khi bùng nổ chiến tranh Thế giới Thứ

nhất 1914, bản vị vàng bị bỏ rơi; và trong hơn 30 năm từ 1880 đến 1914 hệ
thống bản vị vàng quốc tế đã thống trị hầu khắp các nước, nó đã liên kết chặt
chẽ các quốc gia lớn với nhau cũng như giữa các nước thống trị và các nước
thuộc đại trong suốt thời gian này.
Trong chế độ bản vị vàng, vàng là kim loại duy nhất được sử dụng để đúc tiền.
Chế độ này phát triển theo ba giai đoạn khác nhau.
2.2.2.1. chế độ bản vị tiền vàng
Đây là chế độ tiền tệ thông thoáng và ổn định nhất trong lịch sử, vì theo như
quy định của chế độ này vàng được tự do đúc thành tiền, các loại tiền phụ, giấy
bạc ngân hàng cũng như tiền tín dụng được tự do đổi thành vàng nếu muốn, và
bên cạnh đó pháp luật cũng cho phép tự do xuất nhập khẩu vàng. Theo cách quy
định này, vàng luôn được phản ánh trung thực giá trị của mình, do đó sẽ khó có
khả năng xảy ra hiện tượng lạm phát.
Những đặc điểm cơ bản trong hoạt động của chế độ bản vị vàng có thể mô tả
thông qua 3 quy tắc cơ bản:
Thứ nhất, Các quốc gia ấn định cố định giá trị đồng tiền của mình với vàng, và
sẵn sàng không hạn chế mua và bán vàng tại mức giá đã quy định.
Thứ hai, Việc xuất khẩu và nhập khẩu vàng giữa các quốc gia được tự do hoạt
động.
Thứ ba, Ngân hàng trung ương luôn phải duy trì một lượng vàng dự trữ trong
mối quan hệ trực tiếp với số tiền phát hành. Số vàng dự trữ này cho phép
NHTW xử lý uyển chuyển việc chuyển đổi tiền ra vàng mà không gặp bất cứ
một trở ngại nào, tiền được tự do chuyển đổi ra vàng không hạn chế. Quy tắc
bảo đảm bằng vàng buộc NHTW khi mở rộng cung ứng tiền cho nền kinh tế
phải tuân thủ kỷ luật “chỉ phát hành tiền khi có luồng vàng từ công chúng chảy
vào NHTW”. Kết quả là, khả năng thay đổi cung ứng tiền chính là sự thay đổi
lượng vàng có sẵn trong tay những người cư trú. Lượng vangf có sẵn được xác
định bằng khối lượng vàng được sản xuất ra. Vai trò của NHTW trong chế độ
bản vị vàng là mua vàng từ người cư trú và thông qua đó phát hành tiền ra lưu
thông.

Đây là chế độ tiền tệ thông thoáng và ổn định nhất trong lịch sử, vì theo như
quy định, vàng luôn được phản ánh trung thực giá trị của mình, do đó sẽ khó có
khả năng xảy ra hiện tượng lạm phát.
Nhược điểm của chế độ tiền tệ này là đồng tiền vàng vẫn là hàng hóa, do đó với
nhu cầu ngày càng tăng của xã hội, việc sản xuất vàng không thể theo kịp để
đáp ứng. Them vào đó giá trị thực của đồng tiền trong lưu thông càng ngày càng
kém đi so với lượng giá trị mà nó đại diện.
2.2.2.2 chế độ bản vị vàng thỏi
Người ta gọi là chế độ bản vị vàng thỏi vì vàng không còn tồn tại dưới dạng tiền
nữa mà được đúc thành thỏi. Trong chế độ bản vị vàng thỏi, vàng không còn
được tự do đúc thành tiền để đưa vào lưu thông nữa, lúc này tiền trong lưu
thông phải được quy định chặt chẽ về hàm lượng vàng. Bên cạnh đó, các loại
giấy bạc ngan hàng không được đổi ra vàng một cách tự do mà phải đạt một tiêu
chuẩn nhất định do Nhà nước đề ra thì mới có thể đổi ra vàng. Hoạt động xuất
nhập khẩu vàng cũng bị kiểm soát chặt chẽ và có lúc bị cấm.
2.2.2.3 Chế độ bản vị hối đoái vàng
Chế độ bản vị hối đoái vàng cùng được áp dụng trong một quãng thời gian
tương tự như chế độ bản vị vàng thỏi. Cũng có những quy định tương tự như
chế độ bản vị vàng thỏi, điểm khác biệt là các loại tiền ngân hàng trong chế độ
này sẽ không được chuyển ra vàng mà chuyển ra ngoại tệ của nước thực hiện
chế độ bản vị vàng thỏi. Việc chuyển đổi này cũng không được thực hiện tự do
mà phải thực hiện với một số lượng đủ lớn.
Năm 1914, đại chiến Thế giới thứ nhất nổ ra buộc các nước chấm dứt chuyển
đổi các đồng tiền của mình ra vàng. Hệ thống tỷ giá cố định đã hoạt động trong
suốt 35 năm phải nhường chỗ cho hệ thống tỷ giá thả nổi. Nước Mỹ vẫn duy trì
chuyển đổi đôla ra vàng, nhưng bởi vì các đồng tiền khác đã không còn được tự
do chuyển đổi ra đôla, do đó đôla thực chất cũng được thả nổi với các đồng tiền
còn lại.
Trong thời gian xảy ra đại chiến Thế giới lần thứ nhất, do các chính phủ thay
đổi chính sách tiền tệ nhằm tài trợ cho chiến tranh đã làm cho lạm phát bùng nổ.

Do Mỹ tham gia cuộc chiến muộn hơn (1917) và trung tâm tàn phá của cuộc
chiến là châu Âu, nên lạm phát ở chấu Âu cao hơn ở Mỹ. Kết quả là sức cạnh
tranh thương mại quốc tế của Mỹ tăng lên nhanh chóng. Hơn nữa, do đôla được
chuyển đổi ra vàng, trong khi các đồng tiền khác thì không, đã làm tăng sự hấp
dẫn đầu tư vào các tài sản ghi bằng đôla. Đôla ngày càng trở thành đồng tiền có
vị thế trong các giao dịch quốc tế. Tất cả những nhân tố này đều làm tăng cầu về
đôla; và kết quả là làm tăng luồng vàng ròng chảy vào Mỹ làm cho dự trữ bằng
vàng của Mỹ tăng lên nhanh chóng.
Sau cuộc chiến, các nước châu Âu tiếp tục thả nổi đồng tiền và hầu hết các đồng
tiền đã bị phát giá đáng kể so với đôla. Thả nổi đồng tiền chỉ được xem như
biện pháp tình thế tạm thời. Vấn đề chính trong thời gian này là: nên ấn định
bản vị vàng của đồng tiền quốc gia ở mức nào. Nhiều cuộc tranh luận nổ ra
xung quanh vấn đề có nên chọn mức bản vị vàng trước khi chiến tranh xảy ra
hay không. Nhiều nhà kinh tế, mà đứng đầu là Gustay Cassel, đã áp dụng học
thuyết ngang giá sức mua (PPP) để chứng minh cho sự cần thiết phải ấn định
giá vàng cao hơn so với thời kỳ trước chiến tranh. Họ lý luận rằng, để duy trì
tương quan giữa giá vàng và giá hàng hóa giống như trước chiến tranh thì phải
tiến hành một cuộc giảm phát nặng nề. Thay vì phải chịu đựng giảm phát, các
quốc gia có thể lựa chọn phương án ấn định lại mức bản vị vàng cho đồng tiền
nước mình. Như vậy, thay vì phải chịu đựng thiểu phát thì chỉ cần ấn định bản
vị vàng ở mức cao hơn phù hợp với tỷ lệ lạm phát của hàng hóa.
Sự trở lại của chế độ bản vị vàng trong những năm 1920 đã không kéo dài được
lâu. Cuộc Đại suy thoái kinh tế vào năm 1929 đã làm sụp đổ hệ thống ngân
hàng trên thế giới và làm tan biến mọi lòng tin vào vàng. Gánh anựng đã đè lên
nước Anh và một cuộc hỗn loạn đã xảy ra vào ngày 21/9/1931, buộc nước Anh
cùng các nước khác phải từ bỏ chế độ tỷ giá cố định và việc chuyển đổi đồng
tiền nước mình ra vàng, tiếp theo sau là Mỹ vào năm 1933. Hệ thống tiền tệ
quốc tế bước vào giai đoạn các khối tiền tệ không liên kết với nhau, như: Khối
bảng Anh, khối đôla Mỹ, và khối các đồng tiền tiếp tục gắn với vàng. Ngoài ra,
các biện pháp kiểm soát ngoại hối, thuế quan, và các hạn chế thương mại khác

được áp dụng phổ biến. Kết quả là: sự sụp đổ của hệ thống tài chính và thương
mại quốc tế.
2.2.3 Chế độ lưu thông tiền giấy
Trong chế độ này tiền giấy thay thế cho vàng thực hiện chức năng của tiền tệ,
nhưng tiền giấy gần như không có giá trị mà nó chỉ là loại tiền mang dấu hiệu
giá trị mà thôi. Sở dĩ tiền giấy được thừa nhận chung là do nó được Nhà nước
công nhận, bảo đảm và bắt buộc mọi người phải tuân thủ. Một lý do khác không
kém phần quan trọng là lòng tin của người dân đối với đồng tiền giấy. Một khi
lòng tin này mất đi thì người dân sẽ lựa chọn không nắm giữ đồng tiền giấy nữa
và thay vào đó nẵm giữ vàng hoặc những vật dụng có giá khác.
Hệ thống tiền tệ Bretton Woods (BWS)
Động cơ tạo ra một trật tự tiền tệ quốc tế mới là để tránh sự tan rã của các mối
quan hệ tiền tệ trên phạm vi quốc tế như đã từng xuất hiện vào những năm
1930. Vào những năm 1920, nước Đức dã từng chứng kiến những cuộc lạm
phát phi mã và vào năm 1929 nước Mỹ phải đứng nhìn sự sụp đổ của thị trường
chứng khoán, đây là tín hiệu báo trước một cuộc đại suy thoái sẽ diễn ra trên
quy mô toàn thế giới. Trong những năm 1930 được đánh dấu bằng sự mất cân
đối nghiêm trọng trong thương mại quốc tế, khiến cho hầu hết các nước buộc
phải áp dụng các chính sách như: bảo hộ mậu dịch, thiểu phát, phá giá tiền tệ,
và thay đổi bản vị vàng. Năm 1944, trong một bản báo cáo có sức thuyết phục
trước Liên đoàn các dân tộc (League of Nations), Ragnar Nurke lý luận rằng
những gì đã trải qua cho thấy chế độ tỷ giá thả nổi không khuyến khích mà trái
lại nó luôn kìm hãm phát triển thương mại quốc tế, làm cho phân bố các nguồn
lực trở nên không hiệu quả, và nhìn chung đây là chế độ không có tính ổn định
do các hoạt đông của đầu cơ tư nhân.
Những đặc điểm của Bretton Woods
- Hệ thống chế độ tỷ giá là cố định nhưng có thể điều chỉnh.
- Hình thành hai tổ chức quốc tế mới là Quỹ Tiền tệ Quốc tế (International
Monetary Fund – IMF) và Ngân hàng Tái thiết và Phát triển Quốc tế
(International Bank for Recostruction and Development – IBRD) và thường

được gọi tắt là Ngân hàng Thế giới (World Bank – WB).
Nhiệm vụ của IMF là theo dõi và giám sát BWS, còn nhiệm vụ ban đầu của WB
là trợ giúp công cuộc tái thiiết những nền kinh tế châu Âu bị chiến tranh tàn
phá. Trong thực tế, WB được bao gồm hai tổ chức là IBRD và Hiệp hội Phát
triển Quốc tế (International Development Association – IDA); Hiệp hội có vai
trò là huy động vốn từ nước giàu để cho vay lại các nước nghèo kém phát triển
(Less Developed Countries – LDCs) với những điều kiện ưu đãi về lãi suất. Một
tổ chức thứ ba là Công ty Tài chính Quốc tế (International Finance Corporation

×