Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Ứng dụng phương pháp dùng ống thông hai bóng cải tiến làm mềm mở cổ tử cung gây chuyển dạ tại Bệnh viện Phụ sản Trung ương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (303.04 KB, 5 trang )

SẢN KHOA – SƠ SINH

ĐOÀN THỊ PHƯƠNG LAM, LÊ THIỆN THÁI, PHÓ THỊ QUỲNH CHÂU

ỨNG DỤNG PHƯƠNG PHÁP
DÙNG ỐNG THÔNG HAI BÓNG CẢI TIẾN LÀM MỀM
MỞ CỔ TỬ CUNG GÂY CHUYỂN DẠ
TẠI BỆNH VIỆN PHỤ SẢN TRUNG ƯƠNG
Đoàn Thị Phương Lam, Lê Thiện Thái, Phó Thị Quỳnh Châu
Bệnh viện Phụ sản Trung ương

Tập 14, số 01
Tháng 05-2016

Từ khoá: Gây chuyển dạ,
ống thông hai bóng cải tiến
BVPSTƯ, cổ tử cung.
Keywords: Labor, induction,
ipproved
double
balloon
catheter, cervical ripenin, cervix.

86

Tác giả liên hệ (Corresponding author):
Đoàn Thị Phương Lam, email:

Ngày nhận bài (received): 15/03/2016
Ngày phản biện đánh giá bài báo (revised):
10/04/2016


Ngày bài báo được chấp nhận đăng
(accepted): 20/04/2016

Tóm tắt

Mục đích: đánh giá hiệu quả, độ an toàn và tác dụng không mong
muốn của ống thông hai bóng cải tiến BVPSTƯ trong làm mềm mở
cổ tử cung(CTC) gây chuyển dạ tại khoa Đẻ Bệnh viện Phụ sản
Trung ương.
Thiết kế nghiên cứu: hồi cứu.
Đối tượng nghiên cứu: thai phụ sử dụng ống thông hai bóng cải tiến
BVPSPW gây chuyển dạ từ tháng 01/2015 đến tháng 12/2015 với tiêu
chuẩn: một thai sống, ngôi chỏm, chỉ số bishop < 6 điểm, màng ối còn
nguyên vẹn, không có nhiễm khuẩn âm đạo do liên cầu nhóm B. Kết
quả của nghiên cứu: xác định thành công của phương pháp (làm CTC
mở > = 3 cm hay Bishop >= 8 điểm),thời gian từ khi đặt bóng đến khi
tháo bóng và đến khi đẻ, thay đổi chỉ số Bishop CTC, chỉ định dùng
oxytocin kèm, biến chứng cho sản phụ và thai nhi, yếu tố ảnh hưởng
đến thành công của phương pháp.
Kết quả: 120 trường hợp đặt bóng làm mềm, mở CTC gây chuyển dạ
với thành công đạt 90% (108/120). Tỷ lệ đẻ đường âm đạo trong vòng
24 giờ gây chuyển dạ là 78,3 %. Thời gian trung bình từ khi đặt bóng
đến khi tháo bóng là 9,07 ± 3,40 giờ, thời gian từ khi đặt bóng đến khi
đẻ là 18,8 ± 5,4 giờ, thay đổi điểm chỉ số Bishop CTC trước đặt và sau
khi tháo bóng là 5 điểm. Không có biến chứng nặng nề nào gây ra cho
sản phụ và thai nhi.
Kết luận: Nghiên cứu đã khẳng định ống thông 2 bóng cải tiến có hiệu
quả cao trong làm mềm mở cổ tử cung và có giá trị trong làm tăng tỷ
lệ đẻ đường âm đạo trong 24 giờ khi gây chuyển dạ. Phương pháp này
hầu như không gây nguy hại gì cho sản phụ và thai nhi.

Từ khóa: gây chuyển dạ, ống thông hai bóng cải tiến BVPSTƯ,
cổ tử cung.

Abstract

USE OF THE IMPROVED DOUBLE BALLOON


Subjective: evaluate the efficacy, safety and adverse of the improved double balloon catheter in
ripening cervix for induction at the national hospital obstetric and gynecology.
Study design: retrospective study.
Method: from January 2015 to December 2015, 120 women with a bishop score less 6, a single
pregnancy, intact membranes, and cephalic presentation were ripening cervix by a improved double
balloon catheter. The aim of this study was to assess the efficacy of the improved double balloon
catheter in cervical ripening and outcome of vaginal delivery within 24 hours and advantage and
disadvantages of the method.
Results: incidence of successment in cervical ripening was 90 %, vaginal birth within 24 hours
after induction os 78,3%. Memium length of time from insert the catheter to put out is 9,07 ± 3,4
hours, the induction to delivery interval 18,8 ± 5,4 hours. There is not any complication for the
newborn babies and women.
Conclusion: This study shows that the improved double balloon catheter is effective in preinduction
cervical ripening and is associated with a high rate of vaginal birth within 24 hours . There is no
harmful effects both to the mother and perinatal.
Keywords: labor, induction, ipproved double balloon catheter, cervical ripenin, cervix.

Làm mềm mở cổ tử cung (CTC) nhân tạo trong
gây chuyển dạ trong trường hợp cổ tử cung không
thuận lợi có tác dụng giúp cho cuộc gây chuyển dạ
đạt thành công cao tránh được nguy cơ chuyển dạ
kéo dài, nguy cơ phải mổ lấy thai [1]. Dựa vào hệ

thống thang điểm Bishop CTC các nhà sản khoa sẽ
đưa ra quyết định có phải làm mềm mở CTC trước
khi gây chuyển dạ không: với điểm Bishop CTC >= 6
điểm thì không cần phải làm mềm mở CTC trước còn
với Bishop CTC < 6 điểm thì phải làm mềm, mở CTC
rồi mới gây chuyển dạ [2].
Có hai phương pháp làm mềm, mở CTC là:
hóa học và cơ học. Phương pháp hóa học (dùng
Prostaglandin E1, E2) cho hiệu quả làm mềm, mở
CTC cao nhưng gây nhiều tác dụng phụ: suy thai, vỡ
tử cung, cơn co tử cung cường tính [3].
Phương pháp cơ học (ống thông hai bóng Atad,
bóng Cook, ống thông Foley..) làm mềm mở CTC
bằng lực ép nên hầu như không gây tác dụng phụ
nguy hại cho sản phụ và thai nhi. Ống thông hai
bóng được Atad và cộng sự nghiên cứu sử dụng từ
năm 1991 với hiệu quả thành công gây chuyển dạ
đạt 94%. [4, 5].

Tại khoa Đẻ Bệnh viện Phụ sản Trung ương
(BVPSTƯ) từ năm 2013 đã tạo ra ống thông hai
bóng mô phỏng theo bóng Cook làm mềm, mở CTC
gây chuyển dạ đã được xác định là một phương
pháp sáng tạo có tính ứng dụng cao với hiệu quả
làm mềm mở CTC đạt 90 – 94 % [6]
Qua thời gian ứng dụng phương pháp này,
chúng tôi tập hợp những nghiên cứu có liên quan
để thảo luận những vấn đền về: tính hiệu quả, độ
an toàn, chi phí thấp và những tai biến có thể gặp
của ống thông hai bóng cải tiến.


2. Đối tượng và phương
pháp nghiên cứu

Nghiên cứu được tiến hành tại khoa Đẻ BVPSTƯ
trong thời gian từ tháng 1/2015 đến hết tháng
12/2015 với 120 sản phụ có chỉ định gây chuyển
dạ bằng đặt ống thông hai bóng cải tiến thỏa mãn
tiêu chuẩn: một thai sống, ngôi chỏm, tuổi thai >=
37 tuần, màng ối còn nguyên vẹn, không có nhiễm
trùng toàn thân, nhiễm trùng âm đạo do liên cầu
nhóm B, test không đả kích tim thai dao động tốt, chỉ
số Bishop CTC < 6 điểm. Loại khỏi đối tượng nghiên
cứu: tuổi sản phụ < 18 tuổi, thai chết lưu trong tử

Tập 14, số 01
Tháng 05-2016

1. Đặt vấn đề

TẠP CHÍ PHỤ SẢN - 14(01), 86 - 90, 2016

CATHETER FOR CERVICAL RIPENING IN INDUCTION OF LABOR

87


Tập 14, số 01
Tháng 05-2016


SẢN KHOA – SƠ SINH

ĐOÀN THỊ PHƯƠNG LAM, LÊ THIỆN THÁI, PHÓ THỊ QUỲNH CHÂU

88

cung, có sẹo mổ cũ ở tử cung, có chống chỉ định đẻ
đường âm đạo (rau tiền đạo, u tiền đạo, ngôi thai
không thuận …). Những sản phụ trong nghiên cứu
được tư vấn về tác dụng cũng như những nguy cơ
của phương pháp đặt bóng và ký vào biên bản thỏa
thuận đồng ý sử dụng làm bằng chứng.
Trước khi đặt bóng sản phụ được thăm khám
lại bằng mỏ vịt xác định không có viêm âm đạo
và xác định chỉ số Bishop CTC. Để giảm thiểu tối
đa sai số trong đánh giá chỉ số Bishop CTC thì tất
cả những đánh giá về CTC chỉ được thực hiện bởi
chính người nghiên cứu.
Tiến hành nghiên cứu: cho sản phụ nằm trên
bàn đẻ ở tư thế sản khoa, đưa ống thông hai bóng
cải tiến qua âm đạo và CTC cho đến khi bóng tử
cung nằm ở đoạn dưới sát lỗ trong CTC, bóng
CTC- âm đạo nằm trong âm đạo, bơm mỗi bóng
80 ml nước muối sinh lý, kẹp chặt dây ống thông
tránh cho nước trào ngược ra ngoài theo quy trình
kỹ thuật của phương pháp [7]. Cố định ống thông
vào một bên đùi sản phụ. Đặt máy Monitoring theo
dõi tim thai trong 30 phút, nếu tim thai tốt, cho sản
phụ về phòng chờ sinh đi lại sinh hoạt bình thường.
Chỉ định tháo bóng được thực hiện trong những

trường hợp sau: 1. Hết thời gian 12 giờ đặt nếu bóng
không tụt thì tháo bóng. 2. Bóng tự tụt, 3. Vỡ màng ối
đột ngột, 4. Chuyển dạ thực sự (CCTC tần số 4, CTC
mở > = 3cm), 5. Hoặc có dấu hiệu thai suy.
Thăm khám xác định lại chỉ số Bishop CTC
ngay khi tháo bóng, tiến hành gây chuyển dạ tiếp
bằng truyền oxytocin nếu cơn co tử cung thưa,
giảm đau trong đẻ được thực hiện nếu sản phụ
yêu cầu. Trường hợp bóng tụt trước 12 giờ cũng
thăm khám đánh giá lại Bishop CTC rồi theo dõi
tiếp cuộc chuyển dạ theo quy trình cuộc chuyển dạ
thông thường và thường bấm ối sớm khi CTC mở
3cm để kích thích rút ngắn chuyển dạ [8].
Tiêu chuẩn chẩn đoán làm mềm, mở CTC thất
bại là khi CTC mở nhỏ hơn 3cm (< 3cm) sau thời
gian 12 giờ đặt bóng, và cuộc chuyển dạ ngừng
tiến triển là khi CTC không mở thêm sau bốn giờ
theo dõi với cơn co tử cung phù hợp, gây chuyển dạ
thất bại là khi cuộc chuyển dạ không tiến triển vào
pha hành động (giai đoạn 1b) mặc dù đã bấm ối
và truyền oxytocin ít nhất 10 giờ cho CCTC phù hợp.
Tất cả những số liệu nghiên cứu của sản phụ sẽ
được ghi vào một phiếu nghiên cứu có mẫu sẵn.

Các chỉ số nghiên cứu sẽ được tính gồm: tỷ lệ làm
mềm mở CTC thành công (CTC mở > 3cm), thay
đổi chỉ số Bishop CTC sau khi làm chín muồi, tỷ lệ
đẻ đường âm đạo, tỷ lệ mổ lấy thai, thời gian từ khi
đặt bóng đến khi tháo bóng và thời gian từ khi đặt
bóng đến khi đẻ, những tai biến có thể gặp ở sản

phụ và thai nhi, trọng lượng thai khi đẻ.

3. Kết quả nghiên cứu

Qua 1 năm nghiên cứu chúng tôi thu được kết
quả có 120 sản phụ dùng ống thông hai bóng cải
tiến gây chuyển dạ. Đặc điểm chung của các sản
phụ trong nghiên cứu được thể hiện quan bảng kết
quả 3.1 trong đó hầu hết sản phụ là sinh con so,
chỉ định gây chuyển dạ chủ yếu là do thai quá
ngày sinh. Kết quả làm mềm mở CTC thành công
90%, tỷ lệ đẻ đường âm đạo trong 24 giờ là 78,3%,
thời gian đặt bóng trung bình là 9,07 giờ, thời gian
từ khi đặt bóng đến khi sinh trung bình là 18,8 ±
5,4 giờ. Hầu hết sản phụ đều phải dùng oxytocin
truyền tĩnh mạch kích thích CCTC giúp chuyển dạ
đạt hiệu quả. Tai biến gây ra cho sản phụ và thai
nhi của phương pháp này hầu như không có.
Bảng 1. Đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu
Đặc điểm của sản phụ
< 35 tuổi
Tuổi sản phụ
>= 35 tuổi
Con so
Số lần sinh
Con rạ
34 tuần – 37 tuần
Tuổi thai
38 tuần – 40 tuần
>= 41 tuần

Thai quá ngày sinh
Cao huyết áp, tiền sản giật
Đái tháo đường thai nghén
Chỉ định gây
chuyển dạ
Thai chậm phát triển trong tử cung
Thiểu ối
Khác

Số lượng
94
26
95
25
8
27
85
85
7
6
12
8
2

Bảng 2. Kết quả làm mềm mở CTC của ống thông hai bóng cải tiến
Kết quả từ khi đặt bóng đến khi tháo bóng
Số lượng
Thành công ( CTC mở > = 3cm)
108
Thất bại ( CTC mở < 3cm)

12
Bảng 3. Sự thay đổi chỉ số Bishop CTC trước và sau khi đặt bóng
Số lần sinh
Con so
Chỉ số Bishop CTC
Trước khi đặt bóng ( điểm)
2 (0 – 5)
Sau khi tháo bóng ( điểm )
7 ( 5 – 10)
Thay đổi số điểm ( điểm )
5 ( 5 – 10)

Tỷ lệ %
78
22
79,16
20,8
6,7
22,5
70,8
70, 8
5,8
5
10
6,6
1,8

Tỷ lệ %
90
10


Con dạ
3 (0 – 5)
7 ( 5 – 10)
5 ( 5 – 10)


20/108

18

4/12 33,3
2/12 16,7
6/12
50
9,07 ± 3,40
18,8 ± 5,4
94/120 78,3
26/120 21,7
112/120 93,3
98/120 81,6

3260 ± 580 gr
5 (4,2 %)
1
0
1
0
1
0

0

Bảng 6. So sánh hiệu quả của ống thông hai bóng cải tiến với ống thông hai bóng nguyên bản
Kết quả làm mềm Kết quả đẻ đường
Tác giả
Năm NC Thiết bị sử dụng
mở CTC
âm đạo
Jack Atad [5]
1997
Bóng Cook
94
86,7
Elad Mei –Dan[9]
2011
Bóng Cook
99
80
Antonella Cromi[10] 2012
Bóng Cook
91,4
68,6
Đoàn Thị Phương Lam 2015 Bóng Cook cải tiến
90
78,3

4. Bàn luận

Sau 1 năm ứng dụng ống thông hai bóng
cải tiến làm mềm mở CTC gây chuyển dạ, chúng

tôi nhận thấy đây là phương pháp cho kết quả
thành công tương tự như ống thông hai bóng
nguyên bản ( bóng Cook) và hầu như không gây
tác dụng nguy hiểm cho sản phụ và thai nhi.
Từ kết quả nghiên cứu chúng tôi nhận thấy
chỉ định đặt bóng gây chuyển dạ gặp nhiều nhất
tại khoa Đẻ Bệnh viện PSTƯ là ở thai quá ngày
sinh chiếm tỷ lệ 70,8 % trong khi đó chỉ định đặt
bóng gây chuyển dạ ở các nước phát triển chủ
yếu là do tăng huyết áp, thiểu ối [9, 10].
Sự khác biệt này là do thăm khám và chăm sóc
thai sản của phụ nữ tại Việt Nam vẫn chưa được
coi trọng nên có nhiều phụ nữ không chịu đi thăm
khám thai định kỳ để được tư vấn và hỗ trợ kịp thời.

Tập 14, số 01
Tháng 05-2016

Bảng 5. Kết quả về sơ sinh và sản phụ sau đẻ
Trọng lượng trung bình (g)
Số sơ sinh P>= 4000g (n)
Sơ sinh
Apgar 5 phút < 7 điểm (%)
Chảy máu sau đẻ
Rách CTC, AD
Nhiễm trùng trong đẻ
Sản phụ
Nhiễm trùng sau đẻ
Vỡ tử cung
CCTC cường tính


Số lượng Tỷ lệ %
81/108 75
7/108
7

Sự thay đổi tình trạng CTC trước đặt bóng và
sau tháo bóng có giá trị ở cả sản phụ sinh con
so và sinh con dạ. Kết quả nghiên cứu ở bảng 3
cho thấy điểm chỉ số Bishop CTC sau tháo bóng
trung bình là 7 điểm và ở người con rạ cũng như
con so, trong đó thấp nhất là 5 điểm và cao
nhất là 10 điểm. Trong thực hành sản khoa các
nghiên cứu đã khẳng định với chỉ số Bishop >=
7 điểm thì gây chuyển dạ cho hiệu quả giống
chuyển dạ tự nhiên, Bishop >= 6 điểm thì tỷ
lệ gây chuyển dạ thành công đạt trên 90 % [2]
[11] [12].
Tỷ lệ sinh đường âm đạo trong nhóm làm
mềm mở CTC thành công đạt 90 %, ở nhóm
không thành công được truyền oxytocin gây
chuyển dạ tiếp cũng thu được kết quả đẻ đường
âm đạo trong vòng 24 giờ đạt 50 %. Hầu hết
sản phụ được sử dụng oxytocin tạo cơn co tử
cung gây chuyển dạ tiếp sau khi làm mềm mở
CTC (bảng 4), điều này hoàn toàn dễ hiểu bởi
vì ống thông hai bóng cải tiến chỉ có tác dụng
kích thích làm mềm, mở CTC chứ hầu như không
có tác dụng gây cơn co tử cung do đó nó không
gây cơn co tử cung cường tính, không gây vỡ

tử cung do cơn co mạnh. Đây được coi là ưu
điểm vượt trội của phương pháp đặt bóng so với
phương pháp dùng thuốc vì đã có nhiều nghiên
cứu khẳng định dùng thuốc làm mềm mở CTC
(Prostaglandin E1, E2) gây ra những tác dụng
nguy hại cho sản phụ và thai nhi như: cơn co tử
cung cường tính, vỡ tử cung, suy thai [13].
Với kết quả ở bảng 5 cho thấy phương pháp
dùng ống thông hai bóng cải tiến hầu như không
gây tác dụng gì nguy hại cho sản phụ và thai
nhi cả trong quá trình chuyển dạ lẫn sau đẻ.
Trọng lượng trẻ sơ sinh trung bình là 3260 gr,
có 5 trường hợp sinh con to trên 4000gr, những
trường hợp này đều do dự đoán căn nặng trẻ
bằng siêu âm trước khi gây chuyển dạ sai. Có
1 trường hợp có dấu hiệu suy hô hấp khi sinh,
kiểm tra trường hợp này thì chúng tôi được biết
đây là trường hợp gây chuyển dạ vì thai chậm
phát triển trong tử cung và cạn ối.
Bảng 6 so sánh hiệu quả của ống thông hai
bóng cải tiến với ống thông hai bóng nguyên
bản chúng tôi nhận thấy: mặc dù thiết bị của
chúng tôi thô xơ, rẻ tiền nhưng hiệu quả thu

TẠP CHÍ PHỤ SẢN - 14(01), 86 - 90, 2016

Bảng 4. Kết quả về cuộc chuyển dạ
Kết quả cuộc gây chuyển dạ và đặc điểm cuộc đẻ
Đẻ thường
Cách sinh ở nhóm đặt bóng thành công Đẻ thủ thuật

(CTC mở > = 3cm)
Mổ đẻ ( CTC không tiến triển,
thai suy, đầu không lọt)
Cách sinh ở nhóm đặt bóng không thành Đẻ thường
công ( CTC mở < 3cm) được gây chuyển Đẻ thủ thuật
dạ bằng truyền oxytocin tiếp trong 10 giờ Mổ đẻ
Thời gian trung bình từ khi đặt bóng đến khi tháo bóng (giờ, phút)
Thời gian từ khi đặt bóng đến khi đẻ đường âm đạo (giờ, phút)
Đẻ đường âm đạo
Kết quả cuộc chuyển dạ trong 24 giờ
Mổ đẻ
Tỷ lệ dùng oxytocin hỗ trợ cuộc chuyển dạ (%)
Tỷ lệ sản phụ dùng giảm đau trong đẻ

89


SẢN KHOA – SƠ SINH

ĐOÀN THỊ PHƯƠNG LAM, LÊ THIỆN THÁI, PHÓ THỊ QUỲNH CHÂU

được lại tương tự như bóng nguyên bản đắt
tiền hơn. Vì vậy, theo chúng tôi trong điều kiện
kinh tế nước ta chưa đủ thì việc có một phương
pháp gây chuyển dạ mới hiệu quả, an toàn, ít
tai biến và rẻ tiền nên được đưa vào áp dụng
rỗng rãi ở các cơ sở sản khoa có khả năng
phẫu thuật.

Tài liệu tham khảo


Tập 14, số 01
Tháng 05-2016

1. Xenakis EM, P.J., Conway DL, Langer O, Induction of labor in the
nineties: conquesing the unfavourable cerix. Obstet Gyencol, 1997. 90:
p. 235-9.
2. EH, B., Pelvic scoring for elective induction. Obstet Gynecol 1964.
24: p. 266.
3. Kelly AJ, M.S., Smith L, Kavanagh J, Thomas J, Vaginal Prostagladin
(PGE2, PGF2a) for induction of labor at term Cohrane Databse Syst Rev,
2009(4): p. CD 000101.
4. Atad J, B.J., Calderon I, Petrikovskey BM Y, Abramovici H,
Nonpharmaceutical ripening of the unfavourable cervix and induction of labor
by a novel double balloon device. Obstet Gyencol, 1991. 77: p. 146-152.
5. Atad J, H.M., Auslender P, Porat - Packer T, Abramovici H, Ripening
and dilation of the unfavourable cervix for induction of labour by a double
balloon device: experience with 250 cases. Br J Obstet Gynaecol, 1997.
104: p. 29-34.
6. Lê Thiện Thái, Đ.T.P.L., Nhận xét tác dụng làm mềm, mở cổ tử
cung của ống thông hai bóng cải tiến trong gây chuyển dạ tại khoa Đẻ
Bệnh viện Phụ sản Trung ương Bệnh viện Phụ sản Trung ương, Đề tài
nghiên cứu khoa học cấp cơ sở năm 2015, 2015.
7. Lê Thiện Thái, Đ.T.P.L., Phó Thị Quỳnh Châu, Kỹ thuật làm mềm

90

5. Kết luận

Sau một năm ứng dụng phương pháp đặt ống

thông hai bóng cải tiến làm mềm mở CTC gây
chuyển dạ chúng tôi rút ra được một số kết luận sau:
Đây là phương pháp làm mềm mở CTC có hiệu quả
thành công cao đạt 90%, an toàn, dễ thực hiện, rẻ
tiền và ít tai biến cho cả sản phụ và thai nhi.

mở cổ tử cung gây chuyển dạ bằng ống thông hai bóng cải tiến tại
Bệnh viện Phụ sản Trung ương. Kỷ yếu tuổi trẻ sáng tạo ngành y tế
khu vực Hà Nội năm 2013, 2013.
8. Gynecologists, R.C.o.O.a., Induction of Labour. Evidence - Base
Clinical Guidelines. London, UK. Royal College of Obstetricians and
Gynaecologist, 2001. Number 9.
9. Elad Mei-Dan1, A.W., Sivan Suarez-Easton2 & Mordechai Hallak1,
Comparison of two mechanical devices for cervical ripening: a prospective
quasi-randomized trial. The Journal of Maternal-Fetal and Neonatal
Medicine,, 2012. 26(6): p. 723-727.
10. Cromi A, G.F., Uccella S, et al, A randomized trial of preinduction
cervical ripening: dinoprostone vaginal insert vernus double balloon
catheter Am J Obstet Gynecol, 2012. 207: p. 125.e1-7.
11. luis Sanchez - Ramos, M., Induction of labor. Obstet Gynecol Clin N
Am, 2005. 32: p. 181-200.
12. Alistair W.F.Miller, R.C., Gây chuyển dạ. Sản khoa hình minh họa,
1989: p. 283-289.
13. Kelly AJ, M.S., Smith L, Kavanagh J,Thomas J., Vaginal prostaglandin
(PGE2 and PGF2a) for induction of labor at term. Cochrane Database
Syst Rev 2009, 2009. 4: p.:CD003101.




×