Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Tóm tắt luận án Tiến sĩ Khoa học quản lý: Các yếu tố tác động đến dự định khởi sự kinh doanh của thanh niên Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (476.02 KB, 7 trang )

1

2

MỞ ĐẦU

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU VỀ KHỞI SỰ KINH DOANH VÀ CHÍNH SÁCH THÚC ĐẨY
KHỞI SỰ KINH DOANH

1. Sự cần thiết của nghiên cứu
Khởi sự kinh doanh (KSKD) đã và đang được coi là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế ở nhiều quốc gia trên thế giới.
Trước bối cảnh nền kinh tế Việt Nam ngày càng hội nhập sâu rộng, việc quan tâm đến KSKD, hình thành đội ngũ doanh
nghiệp (DN) hùng mạnh, xây dựng thương hiệu quốc gia toàn cầu chính là con đường để Việt Nam có thể bắt nhịp và phát
triển nhanh, bền vững trong thị trường kinh tế quốc tế. Những năm gần đây, Việt Nam cũng rất quan tâm đến vấn đề này với
định hướng mục tiêu xây dựng quốc gia khởi nghiệp. Để đạt được mục tiêu gia tăng số lượng DN, phấn đấu có 1 triệu DN
hoạt động vào năm 2020, 1,5 triệu DN vào năm 2025 và 2 triệu DN vào năm 2030 thì việc tập trung thúc đẩy KSKD ở thanh
niên (TN) là một trong những hướng đi quan trọng. Những quan điểm của Đảng về phát triển kinh tế tư nhân, đặc biệt là sự ra
đời của các thể chế, chính sách của Nhà nước hỗ trợ KN đã góp phần không nhỏ vào việc khuyến khích tinh thần KN ở nước
ta. Điều đó cho thấy, KSKD đang nhận được sự quan tâm rất lớn từ Nhà nước và xã hội, nhất là khởi nghiệp ở người trẻ.
Vấn đề đặt ra đối với mục tiêu trên là làm sao để thúc đẩy hoạt động khởi nghiệp nói chung và TN nói riêng? Câu trả
lời là đa dạng vì có nhiều yếu tố tác động đến việc quyết định thực hiện khởi nghiệp của một cá nhân. Tuy nhiên, một trong
những yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến hành vi đó chính là dự định của cá nhân (Ajen, 2015). Điều này cũng đã được chứng
minh ở một số nghiên cứu trong lĩnh vực KSKD (Krueger & Brazeal, 1994; Krueger và cộng sự, 2000). Mặt khác, theo Ajzen
(1991) KSKD hay lựa chọn nghề nghiệp là kết quả của nhận thức. Hành động KSKD diễn ra nếu một cá nhân có thái độ tích
cực, có suy nghĩ, dự định về hành động đó. Do vậy, dự định KSKD có khả năng dự báo chính xác các hành vi KSKD trong
tương lai. Nghiên cứu về dự định KSKD có thể phản ánh được hành vi KSKD. Do đó, để thúc đẩy KSKD ở TN thì việc khám
phá các yếu tố tác động tới dự định KSKD của TN là phù hợp.
Như vậy, việc lựa chọn nghiên cứu đề tài: “Các yếu tố tác động tới dự định KSKD của thanh niên Việt Nam” rất cần
thiết trong bối cảnh hiện nay. Thông qua nghiên cứu này, tác giả luận án sẽ bổ sung những luận điểm mới cho lý thuyết về dự
định KSKD, đồng thời, đưa ra các khuyến nghị từ góc độ khoa học quản lý nhằm thúc đẩy hoạt động KSKD của thanh niên
Việt Nam (TNVN).


2. Mục tiêu nghiên cứu
Nghiên cứu làm rõ các yếu tố tác động đến dự định KSKD của TNVN, trên cơ sở đó đề xuất giải pháp và khuyến nghị
nhằm thúc đẩy mong muốn KSKD của TNVN.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu: là dự định KSKD của TNVN và sự ảnh hưởng của các yếu tố (bản thân, giáo dục
KSKD, môi trường) đến dự định KSKD của TNVN.
* Phạm vi nghiên cứu:
- Về không gian: Luận án nghiên cứu về dự định KSKD của TN trong độ tuổi từ 18 – 30; tại thành thị (Hà Nội, Đà
Nẵng, Tp Hồ Chí Minh) và nông thôn (Hải Dương, Bắc Giang, Nghệ An, Bình Định, Đồng Tháp, Bến Tre).

1.1. Tổng quan nghiên cứu về KSKD và các yếu tố ảnh hưởng đến dự định KSKD
Qua quá trình tổng quan tài liệu, tác giả nhận thấy các nhân tố có ảnh hưởng đến dự định KSKD thường được đề cập
trong các nghiên cứu đó là: (1) Nghiên cứu về mối quan hệ giữa thái độ đối với hành vi và dự định KSKD; (2) Ảnh hưởng
của chuẩn mực chủ quan đến dự định KSKD; (3) Ảnh hưởng của nhận thức kiểm soát hành vi đến dự định KSKD; (4) Ảnh
hưởng của giáo dục đến hành vi và nhận thức về KSKD; (5) Ảnh hưởng của các đặc điểm cá nhân (giới tính, trình độ giáo
dục,…) đến dự định KSKD; (6) Một số nhà nghiên cứu nhận thấy rằng các kinh nghiệm trước đây về KSKD có thể có ảnh
hưởng đến những ý tưởng kinh doanh của cá nhân; (7) Mối quan hệ giữa nền tảng gia đình và dự định KSKD; (8) Ảnh hưởng
của yếu tố chính sách hỗ trợ từ chính phủ đối với KSKD.
1.2. Tổng quan nghiên cứu về chính sách thúc đẩy KSKD
Những năm gần đây hoạt động khởi nghiệp ở Việt Nam được Nhà nước và xã hội quan tâm. Các chủ trương của Đảng,
chính sách của Nhà nước về khuyến khích tinh thần khởi nghiệp đã tạo điều kiện rất thuận lợi cho hoạt động KSKD của
người trẻ. Tuy nhiên, hệ thống chính sách cho hoạt động khởi nghiệp của TN nói riêng và khởi nghiệp nói chung vẫn còn
những mặt hạn chế. Điều này đã được chỉ ra trong các nghiên cứu với kết quả nghiên cứu của một số tác giả trong khi nghiên
cứu về vấn đề môi trường, cơ chế, chính sách thúc đẩy hoạt động khởi nghiệp ở Việt Nam như: Bích Hạnh (2009), Hồ Sỹ
Hùng (2010), Dương Công Doanh (2018), Bùi Nhật Quang và cộng sự (2018) hay Nguyễn Anh Tuấn và cộng sự (2018),…
Kinh nghiệm quốc tế cho thấy, sự tham gia của Chính phủ thông qua các chính sách hỗ trợ, thúc đẩy hoạt động KSKD
đóng vai trò rất quan trọng, nhất là giai đoạn đầu hình thành hệ sinh thái khởi nghiệp. Qua đó, bài học kinh nghiệm rút ra cho
Việt Nam trong việc đưa ra các chính sách hỗ trợ TN khởi nghiệp đó là: (i) cần chú trọng xây dựng tinh thần khởi nghiệp, (ii)
hoàn thiện hệ sinh thái khởi nghiệp, nâng cao vai trò đồng hành của Nhà nước với DN, (iii) phát huy vai trò tích cực của khu
vực kinh tế tư nhân. (iv) phát triển các chương trình hỗ trợ và vườn ươm khởi nghiệp, (v) áp dụng các chính sách hỗ trợ về

pháp lý, thủ tục hành chính và thuế cho hoạt động liên quan đến khởi nghiệp.
Tóm lại, dự định KSKD bị chi phối bởi nhiều yếu tố tác động khác nhau như: thái độ KSKD, chuẩn chủ quan, nhận
thức kiểm soát hành vi, giáo dục KSKD, các đặc điểm cá nhân, kinh nghiệm khởi sự, các yếu tố thuộc môi trường. Bên cạnh
những yếu tố có tính đồng nhất về kết quả nghiên cứu như thái độ và nhận thức (Elfving và cộng sự, 2009; Shariff và Saud,
2009), chuẩn chủ quan (Linan và Chen, 2009), đặc điểm cá nhân (Tong và cộng sự, 2011); thì các yếu tố khác vẫn chưa có sự
thống nhất về kết quả nghiên cứu như: nhận thức kiểm soát hành vi (Ruhle và cộng sự, 2010; Paco và cộng sự, 2011), giáo
dục KSKD (Johansen và Schanke, 2013; Gorman và cộng sự, 1997), đặc điểm cá nhân (Tong và cộng sự, 2011), kinh nghiệm
KSKD (Basu và Virick, 2008; Davidsson, 1995), truyền thống kinh doanh gia đình (Marques và cộng sự, 2014; Krueger và
Dickson, 1993), Chính sách hỗ trợ từ Chính phủ đối với KSKD (Lüthje và Frank, 2003), giới tính, độ tuổi, trình độ học vấn
(BarNir và Watson, 2011; và Shinnar và Giacomin, 2012). Sự khác biệt này cũng có thể do yếu tố bối cảnh như sự khác biệt
về văn hóa của từng quốc gia (Okamuro và cộng sự, 2011; Saeed và cộng sự, 2014).

- Về thời gian: Luận án nghiên cứu về dự định KSKD của TNVN từ năm 2011 trở lại đây (gắn với giai đoạn khởi
nghiệp được đề cập nhiều). Số liệu khảo sát được thu thập trong năm 2018.

Kết quả tổng quan các nghiên cứu ở Việt Nam cho thấy chưa có nghiên cứu nào thực hiện đánh giá tác động của các
yếu tố thuộc về bản thân, yếu tố liên quan đến giáo dục KSKD, yếu tố thuộc về môi trường (Hệ thống pháp luật, hỗ trợ từ
chính phủ, truyền thống kinh doanh của gia đình) đến dự định KSKD trong môi trường văn hóa, kinh tế, xã hội có nhiều nét
đặc trưng như Việt Nam.

- Về nội dung: Luận án sử dụng lý thuyết hành vi có kế hoạch (TPB) của Ajzen (1991) và lý thuyết sự kiện khởi
nghiệp (SEE) làm nền tảng cơ sở, kết hợp kết quả tổng quan nghiên cứu để xây dựng mô hình nghiên cứu khám phá các nhân
tố ảnh hưởng đến dự định KSKD của TNVN.

Ngoài ra, yếu tố sự hỗ trợ của chính phủ ít được đưa vào kiểm chứng trong các mô hình nghiên cứu trước đây. Một số
nghiên cứu đề cập đến vấn đề này nhưng trong các bối cảnh xã hội khác nhau, dẫn đến những kết luận khoa học mang tính
riêng biệt phụ thuộc vào hoàn cảnh xã hội.

4. Kết cấu của luận án


Vấn đề thúc đẩy khởi nghiệp hướng đến xây dựng quốc gia khởi nghiệp ở Việt Nam đang là vấn đề thời sự, được
nhà nước và xã hội quan tâm. Tuy nhiên, các nghiên cứu mang tính học thuật ở trong nước còn rất hạn chế về mặt số
lượng cũng như bị giới hạn bởi phạm vi nghiên cứu. Các nhà khoa học từ kết quả nghiên cứu của mình đã đi đến sự thống
nhất rằng dự định KSKD là tiền đề trực tiếp của hành vi KSKD, đây chính cơ sở để tiếp cận thiết kế nghiên cứu về dự định
KSKD của TNVN. Mặt khác, kết quả tổng quan nghiên cứu chỉ ra khá nhiều quan điểm lý thuyết khác nhau đề cập đến
ảnh hưởng của các yếu tố đến dự định KSKD, tuy nhiên, việc lựa chọn mô hình nghiên cứu phù hợp với TNVN chưa được
nghiên cứu nào đề cập đến. Vì vậy, cần nghiên cứu, làm rõ về mặt khoa học để cung cấp luận cứ chính xác nhất về các
nhân tố ảnh hưởng đến dự định KSKD của TN hiện nay, đồng thời có những giải pháp can thiệp để thúc đẩy hoạt động
KSKD của TN trong bối cảnh hiện nay.

Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung luận án được kết cấu gồm 5 chương gồm:
Chương 1: Tổng quan nghiên cứu về KSKD và chính sách thúc đẩy KSKD.
Chương 2: Cơ sở lý thuyết về dự định KSKD và các yếu tố ảnh hưởng đến dự định KSKD.
Chương 3: Phương pháp nghiên cứu.
Chương 4: Phân tích các yếu tố tác động đến thực trạng dự định KSKD của thanh niên Việt Nam.
Chương 5: Bàn luận về kết quả nghiên cứu và đề xuất giải pháp thúc đẩy thanh niên Việt Nam KSKD.
***

***


3

CHƯƠNG 2: CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ DỰ ĐỊNH KHỞI SỰ
KINH DOANH VÀ CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN
DỰ ĐỊNH KHỞI SỰ KINH DOANH
2.1. Khởi sự kinh doanh và dự định khởi sự kinh doanh của TN
Thuật ngữ “KSKD” xuất phát từ khái niệm “entrepreneur” (người KSKD) trong tiếng Pháp. Tuy nhiên, chưa thực sự
có định nghĩa về KSKD được chấp nhận rộng rãi. Kết quả tổng quan tài liệu cho thấy KSKD được định nghĩa trên các góc độ
tiếp cận, bối cảnh và chủ đích nghiên cứu khác nhau: (i) góc độ hình thành/bắt đầu một cái gì mới; (ii) góc độ doanh

nhân/người chủ tổ chức (DN) mới; góc độ khai thác các cơ hội kinh doanh hay (iii) góc độ trách nhiệm xã hội. Dù tiếp cận
theo cách nào, quá trình khởi sự DN cũng được mô tả qua một số từ khoá bao gồm: (1) “ý tưởng/cơ hội kinh doanh”, “nguồn
lực”, “giá trị” và “sáng tạo”; (2) Huy động nguồn lực cần thiết; (3) Tạo ra giá trị cho khách hàng; (4) “Khởi nghiệp” luôn gắn
liền với “sáng tạo”.

4
2.4. Mô hình nghiên cứu và các giả thuyết
2.4.1 Mô hình nghiên cứu
Dựa trên cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn và tổng quan nghiên cứu về các yếu tố tác động tới dự định KSKD của TN, mô
hình nghiên cứu của luận án được xây dựng trên cơ sở mô hình của thuyết hành vi có kế hoạch TPB; cụ thể là: kế thừa 3 yếu
tố cơ bản (thái độ, chuẩn mực chủ quan, nhận thức kiểm soát hành vi); ngoài ra nghiên cứu này còn kế thừa một số yếu tố từ
các nghiên cứu khác (thái độ đối với tiền bạc, nhu cầu thành tích, giáo dục KSKD, kinh nghiệm/trải nghiệm KSKD), đồng
thời bổ sung thêm các yếu tố về môi trường kinh doanh.
Nhóm các yếu tố thuộc bản thân
Thái độ đối với
tiền bạc

Theo tác giả, KSKD được hiểu là một quá trình mà một cá nhân nhìn nhận và đánh giá các cơ hội kinh doanh, thu
thập các nguồn lực cần thiết để hình thành một cơ sở kinh doanh/ DN mới với mục đích đem lại sự giàu có cho cá nhân, đất
nước và tạo ra nhiều giá trị cho xã hội.

Thái độ với
KSKD

Dự định được nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau. Tuy nhiên, hầu hết các tác giả đều đồng quan điểm rằng: dự
định khởi sự là yếu tố quan trọng để dự đoán đến hành động khởi sự (Bagozzi và cộng sự, 1989; Krueger và Brazel, 1994).

Chuẩn chủ quan

Như vậy, dự định KSKD được hiểu là: (i) những mong muốn, ý định trong việc tìm kiếm cơ hội và ý tưởng KD; (ii) ý

định trong việc lên phương án thu thập và tiếp cận nguồn lực; (iii) ý định trong việc chuẩn bị năng lực điều hành hoạt động
KD; Các ý định trên có thể là riêng rẽ nhưng cũng có thể diễn ra đồng thời.

Nhận thức kiểm soát
hành vi

Trong nghiên cứu này, dự định KSKD của TN được hiểu là: những mong muốn, ý định tìm kiếm cơ hội và ý tưởng
kinh doanh hoặc ý định trong việc lên phương án thu thập, tiếp cận nguồn lực, chuẩn bị năng lực điều hành hoạt động kinh
doanh của TN.

Nhu cầu thành tích

Dự định Khởi sự kinh
doah của thanh niên
Việt Nam

Kinh nghiệm
khởi sự

2.2 Các lý thuyết cơ bản liên quan đến dự định và KSKD
Các nhà nghiên cứu trên thế giới đã đề xuất một số mô hình lý thuyết làm cơ sở cho nghiên cứu về dự định KSKD. Lý
thuyết đầu tiên được nhắc đến khi nghiên cứu về dự định KSKD là thuyết hành động hợp lý (TRA) (Fishbein và Ajzen, 1975;
Ajzen và Fishbein, 1980). Tuy nhiên, nhiều nhà nghiên cứu khẳng định mô hình sự kiện KSKD của Shapero và Sokol (1982)
và thuyết hành vi có kế hoạch do Ajzen (1991) đề xuất mới chính là những khung lý thuyết điển hình khi nghiên cứu về dự
định KSKD. Một số nhà nghiên cứu đề xuất các mô hình về dự định KSKD với những biến trung gian (Davidsson, 1995,
Elfving và các cộng sự, 2009; Krueger và Brazeal, 1994), và các mô hình này đề xuất nhiều yếu tố khác nhau ảnh hưởng đến
dự định KSKD của một cá nhân, có thể kể đến như các yếu tố thuộc về cá nhân hoặc tâm lý, các yếu tố gia đình và các yếu tố
xã hội và môi trường.

Yếu tố môi trường bên ngoài


Giáo dục
KSKD

* Lý thuyết hành động hợp lý (TRA): Fishbien và Ajzen (1980) cho rằng dự định thực hiện hành vi là tiền đề thực
hiện hành vi của một cá nhân. Trong mô hình TRA, thái độ đối với hành vi và chuẩn mực chủ quan chính là 2 yếu tố tác động
đến dự định thực hiện hành vi của một cá nhân.

Hỗ trợ Chính
phủ

Biến kiểm soát:
- Giới tính
- Nghề nghiệp
- Trình độ học vấn
- Kinh nghiệm
- Nghề nghiệp bố mẹ

Hình 2.1: Mô hình nghiên cứu của Luận án

* Lý thuyết hành vi có kế hoạch (TPB): bắt nguồn từ lý thuyết hành động hợp lí (TRA) của Fishbein và Ajzen. Theo
đó, dự định KSKD chịu tác động của ba yếu tố: Thứ nhất, thái độ của cá nhân đối với hành vi thể hiện mức độ đánh giá tiêu
cực hoặc tích cực của cá nhân về việc KSKD. Đó không chỉ đơn giản là cảm giác của cá nhân mà bao hàm cả việc cân nhắc
đánh giá giá trị của KSKD. Thứ hai, là yếu tố chuẩn mực chủ quan: đo lường các áp lực của xã hội mà một cá nhân tự cảm
nhận được về việc tiến hành hoặc không tiến hành các hành vi KSKD. Thứ ba, nhận thức kiểm soát hành vi liên quan đến
mức độ mà các cá nhân cảm thấy có khả năng thực hiện hành vi.

Trên cơ sở mô hình nghiên cứu đề xuất, các giả thuyết nghiên cứu dưới đây góp phần làm sáng tỏ các câu hỏi nghiên
cứu, những luận điểm cần kiểm định cụ thể trong điều kiện Việt Nam. Nội dung các phát biểu về mối quan hệ và sự tác động
giữa các biến trong mô hình nghiên cứu được tổng hợp trong bảng dưới đây:


*Lý thuyết sự kiện KSKD (SEE): Mô hình sự kiện KSKD (SEE) chỉ ra rằng quyết định của một cá nhân khi KSKD
phụ thuộc vào những thay đổi trong cuộc sống của cá nhân đó và thái độ của cá nhân đó đối với việc KSKD, cũng như cảm
nhận của cá nhân đó về tính khả thi và cảm nhận của các nhân đó về mong muốn KSKD (Shapero và Sokol, 1982).

Giả
thuyết

Nội dung

H1

Thái độ đối với tiền bạc có ảnh hưởng tích cực đến dự định KSKD của
TNVN

H2

Thái độ đối với KSKD ảnh hưởng tích cực đến dự định KSKD của TNVN

H3

Chuẩn chủ quan có ảnh hưởng tích cực đến dự định khởi của của TNVN

H4

Nhận thức kiểm soát hành vi có ảnh hưởng tích cực đến dự định KSKD
của TNVN

H5


Nhu cầu thành tích có ảnh hưởng tích cực đến dự định KSKD của TNVN

H6

Kinh nghiệm có ảnh hưởng tích cực đến dự định KSKD của TNVN

H7

Thái độ có thể là biến trung gian của mối quan hệ giữa kinh nghiệm và dự
định KSKD của TNVN

Kế thừa từ các mô hình lý thuyết được các tác giả đề cập đến trong các nghiên cứu về các nhân tố ảnh hưởng đến dự
định KSKD, nghiên cứu này xây dựng mô hình lý thuyết nghiên cứu về yếu tố ảnh hưởng đến dự định khởi nghiệp của TN
dựa trên việc kế thừa các thành tố đã được kiểm định từ lý thuyết TPB và SEE. Theo đó, mô hình lý thuyết nghiên cứu của
luận án kế thừa 3 yếu tố cơ bản (thái độ, chuẩn mực chủ quan, nhận thức kiểm soát hành vi) từ thuyết TPB; kế thừa từ mô
hình SEE và các nhân tố được rút ra từ luận điểm lý thuyết của các nghiên cứu đi trước (thái độ đối với tiền bạc, nhu cầu
thành đạt, giáo dục KSKD, kinh nghiệm/trải nghiệm KSKD) và bổ sung nhân tố mới ít được kiểm chứng bằng các nghiên cứu
thực nghiệm là chính sách hỗ trợ của chính phủ.

2.4.2 Giả thuyết nghiên cứu

Bảng 2.1: Các giả thuyết nghiên cứu

2.3 Các nhân tố ảnh hưởng đến dự định KSKD
Từ tổng quan nghiên cứu có thể phân chia các nhân tố ảnh hưởng đến dự định khởi sự thành hai nhóm cơ bản: (1)
nhóm các nhân tố thuộc về bản thân đối tượng có dự định khởi sự DN, mà trong nghiên cứu này là TN Việt Nam (bao gồm:
Thái độ đối với KSKD; Chuẩn mực chủ quan; Nhận thức kiểm soát hành vi; Nhu cầu thành tích; Kinh nghiệm KSKD) và (2)
là nhóm các nhân tố thuộc bên ngoài bản thân của TN (gồm: Giáo dục KSKD và Hỗ trợ từ Chính phủ đối với KSKD).



5

6

H8

Giáo dục khởi nghiệp kinh doanh có ảnh hưởng tích cực đến dự định
KSKD của TNVN

CHƯƠNG 3:
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

H9

Thái độ đối với KSKD là biến trung gian mối quan hệ giữa giáo dục
KSKD và dự định KSKD của TNVN

H10

Hỗ trợ của chính phủ có tác động tích cực đến dự định KSKD của TNVN

3.1. Quy trình nghiên cứu
Quy trình nghiên cứu của luận án bao gồm 2 bước là nghiên cứu sơ bộ và nghiên cứu chính thức, được khái quát hóa
qua sơ đồ dưới đây:

***

Cơ sở lý thuyết về Dự định KSKD và kết quả các
nghiên cứu trước


Nghiên cứu định tính

Đề xuất
mô hình và
thang đo

Kiểm tra
mô hình và thang đo

Điều tra, khảo sát thử (n=50)

Hoàn thiện
mô hình và
thang đo

Nghiên cứu định lượng (n=1500)

Cronbach Alpha, EFA, CFA, SEM
Đánh giá độ thích hợp của mô hình
Kiểm định giả thuyết

Hình 3.1: Khái quát hóa quy trình nghiên cứu
Nguồn: Tác giả đề xuất dựa theo quy trình nghiên cứu của Nguyễn Đình Thọ, Nguyễn Thị Mai Trang, 2007
- Nghiên cứu sơ bộ: tác giả tiến hành thu thập tài liệu, thông tin, tổng quan nghiên cứu liên quan đến dự định KSKD
của TN và các kết quả nghiên cứu trước để từ đó đề xuất mô hình nghiên cứu và thang đo. Sau khi phác thảo mô hình nghiên
cứu ban đầu, tác giả kết hợp phương pháp nghiên cứu định tính và nghiên cứu định lượng để chuẩn hóa mô hình và thang đo
trong bảng hỏi. Nghiên cứu sơ bộ được thực hiện từ tháng 6 đến tháng 8 năm 2017.
(i) Nghiên cứu định tính: Sau khi xây dựng báo cáo sơ bộ kết quả tổng quan nghiên cứu và thiết kế phương pháp
nghiên cứu đề tài, tác giả tiến hành xin ý kiến của 2 nhà khoa học chuyên ngành quản trị kinh doanh và khoa học quản lý về
mô hình nghiên cứu và bảng hỏi để hoàn chỉnh phiếu điều tra trước khi tiến hành khảo sát thu thập thông tin.

(ii) Nghiên cứu định lượng: Sau khi có ý kiến phản hồi, trao đổi từ các nhà khoa học đã được lựa chọn để xin ý kiến, tác
giả hoàn thiện mô hình nghiên cứu và bảng hỏi khảo sát, sau đó tiến hành khảo sát thử. Tác giả đã tiến hành điều tra khảo sát thử
50 đơn vị mẫu đại diện các nhóm đối tượng khảo sát. Mục đích của cuộc điều tra này nhằm kiểm tra câu hỏi, thuật ngữ nào chưa
rõ nghĩa và khó lựa chọn phương án trả lời, đồng thời xem xét sự phù hợp của thang đo, các biến số được đề xuất trong mô hình
nghiên cứu. Kết quả từ điều tra thử là cơ sở để tác giả điều chỉnh thang đo phù hợp trước khi tiến hành khảo sát chính thức. Hình
thức thu thập thông tin được đa dạng hóa để thuận tiện cho tác giả trong quá trình tiến hành điều tra bao gồm điều tra bằng
phỏng vấn, phát vấn trực tiếp và trưng cầu ý kiến qua biểu mẫu của Google (Google forms). Kết quả điều tra thử cho thấy phiếu
điều tra cơ bản được chấp nhận, chỉ điều chỉnh một số vấn đề liên quan đến thuật ngữ và thiết kế.
- Nghiên cứu chính thức: tác giả tiếp tục kết hợp phương pháp nghiên cứu định tính và nghiên cứu định lượng trong
việc thu thập thông tin và làm rõ các vấn đề đặt ra trong nghiên cứu.
Trong nghiên cứu định tính, tác giả tiến hành:
(1) Tổng hợp, phân tích tài liệu sơ cấp và thứ cấp. Dựa trên việc tổng hợp các kết quả nghiên cứu tác giả đặt ra một số
câu hỏi, giả thuyết nghiên cứu và đề xuất mô hình nghiên cứu; đồng thời xác định nguồn và nội dung của các thang đo trong
mô hình đề xuất, sau đó dịch tiếng Việt mô hình và phiếu điều tra dự kiến.
(2) Xin ý kiến chuyên gia: tác giả đã xin ý kiến của 3 nhà khoa học để từ đó hoàn thiện về thuật ngữ sử dụng cũng như
hoàn thiện mô hình và phiếu điều tra.
(3) Trong quá trình thu thập thông tin tại các địa bàn nghiên cứu, tác giả đã tiến hành phỏng vấn 20 người để tìm hiểu
nhu cầu khởi nghiệp và các yếu tố ảnh hưởng đến dự định KSKD của họ.
Về phương pháp nghiên cứu định lượng:
(1) Mẫu nghiên cứu
Việc thu thập dữ liệu được thực hiện bằng phương pháp điều tra xã hội học bằng bảng hỏi. Trên cơ sở tính toán lượng
mẫu phù hợp, tác giả tiến hành điều tra 1500 TN bao gồm sinh viên và TN đã có việc làm trong độ tuổi từ 16-30. Số lượng
mẫu hợp lệ đủ điều kiện để phân tích là 1298 đơn vị mẫu, đạt tỉ lệ 86,5%, đảm bảo đủ dung lượng và tính đại diện mẫu theo
khu vực và đối tượng.


7

8


(2) Phân tích dữ liệu
Các dữ liệu thông tin được thu thập từ phiếu điều tra được làm sạch, nhập liệu bằng phần mềm Epidata và xuất dữ liệu
xử lý qua chương trình SPSS 20 và Amos 22. Phương pháp phân tích dữ liệu dựa trên các bước cơ bản: kiểm định độ tin cậy
của thang đo, phân tích độ phù hợp của thang đo (EFA và CFA), phân tích mô hình cấu trúc tuyến tính (SEM), phân tích sự
khác biệt đa nhóm bằng các phép toán thống kê mô tả, suy luận logic.
***

Kết quả phân tích EFA cuối cùng với tập biến quan sát cho thấy các biến quan sát hội tụ về 7 nhân tố lần lượt như sau:
Nhu cầu thành tích (NCT), Thái độ với KSKD (TDK), Giáo dục KSKD (GDK), Nhận thức kiểm soát hành vi (KSH), Chuẩn
chủ quan (CCQ), Thái độ với tiền bạc (TDT) và Kinh nghiệm KSKD (KNK). Như vậy sau khi phân tích EFA, các biến quan
sát của thang đo Chính sách hỗ trợ của Chính phủ (CSC) bị loại bỏ do không đảm bảo hệ số tải nhân tố theo yêu cầu. Vì vậy,
yếu tố này sẽ không đưa vào xem xét trong mô hình, đồng thời sẽ không xuất hiện ở các thủ tục chạy phân tích CFA và SEM
tiếp theo.
4.2.2.3 Phân tích nhân tố khẳng định (CFA)
Tập biến quan sát của thang đo DDK được đưa vào cùng tập biến quan sát của thang đo các yếu tố ảnh hưởng đến dự
định KSKD trong mô hình để thực hiện EFA trước khi thực hiện thủ tục CFA. Phương pháp trích nhân tố được sử dụng là
Principal Axis Factoring với phép xoay Promax, hệ số tải nhân tố là 0,5. Kết quả EFA lần đầu cho thấy 2 biến quan sát TDK1 và
GDK5 có hệ số tải nhân tố thấp hơn 0,5 nên được loại lần lượt ra khỏi mô hình trước khi thực hiện CFA. Sau khi loại bỏ hai biến
quan sát không phù hợp, kết quả EFA lần cuối cho hệ số KMO = 0,923, đồng thời hệ số Sig của kiểm định Barlett rất nhỏ cho
thấy các biến quan sát tương quan với nhau có ý nghĩa thống kê, tổng phương sai trích có giá trị bằng 54,86% và các hệ số tải
nhân tố lớn hơn 0,5 chứng tỏ các biến quan sát đạt độ tin cậy cho phân tích nhân tố. Như vậy, tập biến trong mô hình nghiên cứu
các nhân tố ảnh hưởng đến dự định KSKD còn lại 30 biến quan sát hội tụ tại 8 nhân tố, bao gồm các nhân tố: NCT (6 biến quan
sát), TDK (4 biến quan sát), KSH (4 biến quan sát), GDK (4 biến quan sát), CCQ (3 biến quan sát), TDT (3 biến quan sát),
KNK (2 biến quan sát) và DDK (4 biến quan sát). Các nhân tố này sẽ được đưa vào phân tích nhân tố khẳng định (CFA) trước
khi thực hiện phân tích mô hình.
Kết quả phân tích lần đầu cho thấy mặc dù các kết quả Model Fit đều tốt nhưng do biến KSH2 có trọng số hồi quy đã
chuẩn hóa là 0,428 thấp hơn 0,5 nên được loại bỏ khỏi thang đo và tiến hành phân tích lại CFA.
Kết quả Model Fit trong phân tích CFA lần cuối cho thấy: chỉ số CMIN/DF = 4,05 < 5, các chỉ số GFI, CFI và
TLI đều lớn hơn 0,9; giá trị RMSEA = 0,048 < 0,08, do đó mô hình nghiên cứu đề xuất là đáng tin cậy, phù hợp với dữ
liệu khảo sát.

Kết quả phân tích cho thấy các trọng số đã chuẩn hóa đều cao hơn 0,5, đồng thời các trọng số chưa chuẩn hóa đều có ý
nghĩa thống kê nên các thang đo khái niệm đạt giá trị hội tụ. Kết quả ở các bảng hiệp phương sai, hệ số tương quan giữa các
biến và phương sai của các biến cho thấy các trị số đều đảm bảo, P-value rất thấp, hệ số tương quan của từng cặp khái niệm
khá thấp do đó các khái niệm đạt được giá trị phân biệt.
Kết quả tính toán Độ tin cậy tổng hợp, và Tổng Phương sai trích cho thấy: Các thang đo đều có độ tin cậy tổng hợp từ
0,74 đến 8,5 (lớn hơn 0,6); đa số các thang đo có tổng phương sai trích > 0,5. Do đó, về cơ bản các thang đo đã đạt giá trị
phân biệt (Fornell và Lacker, 1981; Bagozzi &Yi, 1998; Hair, 1998).
Như vậy, việc kiểm định mức độ phù hợp của mô hình nghiên cứu thông qua các chỉ số và các kiểm định về độ tin cậy
của thang đo, giá trị hội tụ và giá trị phân biệt cho phép khẳng định sự phù hợp của mô hình nghiên cứu với dữ liệu điều tra.
Đồng thời, các khái niệm có thể sử dụng tốt trong phân tích mô hình cấu trúc ở phần sau.
4.2.3 Phân tích thống kê mô tả các thang đo trong mô hình
Để xem xét các yếu tố trong mô hình nghiên cứu được đánh giá ở mức độ nào, tác giả sử dụng các thống kê mô tả để
đánh giá quan điểm của TN với các biến quan sát của thang đo yếu tố trong mô hình. Kết quả cho thấy trong hầu hết các yếu
tố, các đối tượng trả lời đều thể hiện mức độ đồng ý tương đối cao; trừ yếu tố nhận thức kiểm soát hành vi (KSH) có xu
hướng đồng ý ở mức trung bình (3,02). Như vậy, TN trong mẫu khảo sát có xu hướng thể hiện sự đồng tình tương đối cao với
các phát biểu về Thái độ đối với KSKD, Thái độ với tiền bạc, Chuẩn chủ quan, Giáo dục KSKD, Nhu cầu thành tích. Và trong
các yếu tố này, yếu tố Nhu cầu về thành tích nhận được xu hướng đồng tình cao nhất (3,87).
Kết quả thống kê mô tả dự định KSKD cho thấy mong muốn KSKD của TN nhìn chung ở mức trung bình (3,38). Kết
quả cũng chỉ ra trong khi mức độ sẵn sàng làm bất cứ điều gì để trở thành một doanh nhân và quyết định thành lập công ty
trong tương lai chỉ thể hiện ở mức trung bình (3,16) thì dự định sẽ cố gắng hết sức để bắt đầu và điều hành công việc kinh
doanh của mình lại nhận được sự đồng tình của TN khá cao (3,7).
4.2.4. Phân tích sự khác biệt về dự định KSKD theo một số đặc điểm cơ bản của TN Việt Nam
4.2.4.1. Theo giới tính
Kết quả phân tích cho thấy, nam TN có dự định KSKD khác so với nữ giới. Thống kê trung bình biến DDKchung của
nhóm nam cao hơn so với nữ ( Nam=3,46; Nữ=3,29; sig.=0,001). Trong các phát biểu liên quan đến dự định KSKD: “Tôi sẽ
cố gắng hết sức để bắt đầu và điều hành công việc kinh doanh của mình”, “Tôi đã quyết định sẽ thành lập công ty trong
tương lai”, “Mục tiêu nghề nghiệp của tôi là trở thành một doanh nhân”, “Tôi sẵn sàng làm bất cứ điều gì để trở thành một
doanh nhân”, điểm trung bình mức độ đồng tình của nam đều cao hơn so với nữ. Kết quả kiểm định sự khác biệt cho thấy
điểm trung bình mức độ đồng tình của nhóm TN nam và nữ là có sự khác nhau rõ rệt ở tất cả các biến quan sát trong thang đo
DDK.

4.2.4.2 Về trạng thái nghề nghiệp của TN
Kết quả phân tích chỉ ra có sự khác biệt (có ý nghĩa) về giá trị trung bình dự định KSKD giữa 2 nhóm TN là sinh viên
và nhóm TN đang đi làm, trong đó những người đi làm có dự định KSKD cao hơn ( NĐL=3,42; SV=3,31; sig.=0,032).
Sự khác biệt trên cũng thể hiện trong các phát biểu về việc “sẵn sàng làm bất cứ điều gì để trở thành một doanh
nhân”-DDK1, “sẽ cố gắng hết sức để bắt đầu và điều hành công việc kinh doanh của mình”-DDK2, “quyết định sẽ thành
lập công ty trong tương lai”-DDK4 của sinh viên đều thấp hơn so với người đã đi làm. Điều đó cũng cho thấy tư tưởng, thái
độ đối với KSKD của những người đã đi làm thực tế có sự khác biệt khá rõ so với các đối tượng sinh viên.

CHƯƠNG 4: PHÂN TÍCH CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN THỰC TRẠNG DỰ ĐỊNH KHỞI SỰ KINH DOANH
CỦA THANH NIÊN VIỆT NAM
4.1. Thực trạng KSKD của thanh niên Việt Nam
Số liệu khảo sát về tinh thần KSKD trong Báo cáo khởi nghiệp toàn cầu của Amway cho thấy Việt Nam thuộc nhóm các
quốc gia có quan điểm rất tích cực đối với hoạt động khởi nghiệp. Chỉ số tinh thần khởi nghiệp (AESI) của Việt Nam liên tục
tăng từ mức 77% (2015) lên 81% (2016) và 84% (2018). Sự sẵn sàng KSKD ở Việt Nam ở mức cao với xấp xỉ trên dưới 90% số
người được khảo sát cho rằng bắt đầu hoạt động kinh doanh riêng là một cơ hội nghề nghiệp đáng mong ước. Sự tự tin ở người
Việt cũng ở mức khá cao khi đánh giá về tiềm năng KSKD với khoảng 80% số người được phỏng vấn cho rằng bản thân họ có
đủ kỹ năng và nguồn lực cần thiết để bắt đầu hoạt động kinh doanh riêng, tỉ lệ này tăng qua các năm khảo sát, trong khi đó, con
số trung bình toàn cầu là dưới 50%.
Theo số liệu điều tra của VCCI và USAID năm 2016, phần lớn chủ DN khởi nghiệp trong độ tuổi 30 với tỉ lệ 72% chủ
DN có độ tuổi từ 30 trở lên. Trong khi đó, tỉ lệ người trẻ dưới 30 khởi nghiệp chỉ chiếm 28%. Về trình độ học vấn, đa phần
các chủ DN khởi nghiệp trong vòng 3 năm đều có bằng đại học với tỉ lệ đạt 84%. Khát vọng làm chủ là động lực KSKD lớn
nhất của người Việt, trong đó có 59% muốn độc lập tài chính và 41% muốn tự làm chủ.
Những con số nêu trên cho thấy TN khởi nghiệp chủ yếu khi đã ở độ tuổi trưởng thành. Đồng thời, những người khởi
nghiệp đa phần đã tốt nghiệp đại học, nghĩa là họ ở ngưỡng tuổi từ khoảng 21-22 tuổi trở lên và đã trải qua ít nhất một công
việc khác trong khoảng hơn 5 năm. Như vậy, mặc dù có góc nhìn tích cực đối với hoạt động khởi nghiệp, tình hình khởi
nghiệp của giới trẻ ở nước ta trong thời gian qua còn khá thấp.
4.2 Phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến KSKD của TNVN
4.2.1 Đặc điểm của mẫu nghiên cứu
Với 1500 phiếu hỏi được gửi đến đối tượng khảo sát, sau khi thu lại và tiến hành xử lý dữ liệu, 1298 phiếu được xác
định là hợp lệ, trả lời đầy đủ các nội dung thông tin và có thể sử dụng vào phân tích định lượng.

Xét về giới tính thì tỷ trọng nam và nữ không chênh lệch quá nhiều, với tỉ lệ nam TN là 54% và nữ là 46%. Về nghề
nghiệp, tỉ lệ đã đi làm chiếm gần 2/3. Về trình độ học vấn, chủ yếu có trình độ từ đại học trở lên (chiếm khoảng 61,1%). Về
kinh nghiệm làm việc, do ở độ tuổi TN nên TN được chọn trong mẫu khảo sát này chủ yếu là những người còn ít kinh nghiệm
làm việc (dưới 1 năm kinh nghiệm hoặc 1 – 3 năm kinh nghiệm). Về nghề nghiệp của bố/mẹ, tỉ lệ những người có bố/mẹ tự
kinh doanh là 13,3% - 14%; làm nhân viên kinh doanh trong DN là 4,0% - 5,9%; làm quản lý DN là 0,9%; đa số người trả lời
có bố/mẹ hoạt động trong lĩnh vực khác (79,8% - 81%).
Về địa bàn khảo sát, mẫu khảo sát gồm TN hiện đang sinh sống, làm việc ở 10 tỉnh/thành phố (phân bố ở cả 3 miền
Bắc, Trung, Nam); trong đó 2 thành phố lớn là Hà Nội và Tp. Hồ Chí Minh chiếm tỷ trọng cao nhất trong mẫu khảo sát. Về
khu vực, tỉ lệ TN sinh sống tại khu vực nông thôn là 46,1% và ở đô thị là 53,9%.
Với quy mô và đặc trưng của mẫu khảo sát được phân tích ở trên, mẫu nghiên cứu này đủ điều kiện để thực hiện các
phân tích định lượng tiếp theo.
4.2.2. Kiểm định thang đo
4.2.2.1 Kiểm định độ tin cậy của thang đo các yếu tố trong mô hình
Các thang đo trong nghiên cứu đảm bảo độ tin cậy với hệ số Cronbach’s Alpha của từng nhóm biến quan sát thuộc các
nhân tố đạt từ 0,6 trở lên, hệ số tương quan biến tổng lớn hơn 0,4. Mô hình ban đầu gồm 9 nhóm nhân tố với 41 biến quan sát.
Sau khi kiểm tra thang đo bằng hệ số Cronbach’s Alpha, tác giả đã loại bỏ đi các biến quan sát DDK3, KSH5, KNK1, CSC3,
CSC4 để thang đo đảm bảo độ tin cậy cao, có khả năng đo lường tốt.
4.2.2.2 Phân tích nhân tố khám phá (EFA)
a. Phân tích EFA với biến phụ thuộc
Kết quả phân tích EFA với tập biến quan sát “Dự định KSKD” cho thấy: hệ số KMO là 0,733 và tổng phương sai trích
đạt tỉ lệ 61,10%, đồng thời các biến quan sát của biến DDK đều hội tụ về 1 nhân tố.
b. Phân tích EFA với các thang đo biến độc lập
Tác giả sử dụng phân tích EFA đối với các biến số độc lập với ngưỡng giá trị đặc trưng của ma trận (Eigen value) = 1
và hệ số tải nhân tố (factor loading) = 0,5. Kết quả phân tích EFA lần 1 cho các biến độc lập cho thấy 7 nhân tố được trích tại
Eigen value = 1,085, KMO-Meyer là 0,925 và tổng phương sai trích của 7 nhóm nhân tố giải thích 61,66% sự biến thiên của
dữ liệu. Tuy nhiên, các biến quan sát CSC1, CSC2 và KSH6 đều có hệ số tải nhân tố nhỏ hơn 0,5 và phân tán ở hai nhóm
nhân tố khác nhau. Do đó, thủ tục EFA được lặp lại sau khi bỏ dần các biến quan sát CSC2, KSH6, CSC1. Sau khi chạy EFA
lần cuối, kết quả cho thấy hệ số KMO đạt 0,919 và tổng phương sai trích của 7 nhóm nhân tố giải thích 64,26% sự biến thiên
của dữ liệu.



9

10

4.2.4.3. Theo trình độ chuyên môn
Kết quả so sánh trung bình giữa các nhóm trình độ cho thấy có sự khác biệt (có ý nghĩa) về dự định KSKD nói chung giữa
các nhóm trình độ và rõ nhất là khác biệt giữa nhóm có trình độ sau đại học với các nhóm trình độ cao đẳng. Thống kê mô tả cũng
cho thấy nhìn chung mức độ đồng tình về dự định KSKD của nhóm TN có trình độ đại học và trên đại học cao hơn so với TN có
trình độ trung cấp và cao đẳng.
4.2.4.4 Theo kinh nghiệm làm việc
Kết quả phân tích ANOVA cho thấy dường như dự định KSKD nói chung của TN không có mối liên hệ phụ thuộc với
số năm kinh nghiệm làm việc thực tế của họ. Phát biểu về dự định KSKD chỉ có sự khác biệt giữa các nhóm năm kinh
nghiệm ở biến “Quyết định thành lập công ty trong tương lai” – DDK4.
4.2.4.5 Theo vùng miền
Nhìn chung TN ở khu vực miền Trung có mức độ đồng tình với ý định KSKD nói chung cao hơn so với miền Bắc và
miền Nam. Sự quyết tâm trở thành doanh nhân và nỗ lực để bắt đầu và điều hành công việc kinh doanh của mình ở nhóm
miền Trung cao hơn so với miền Nam và miền Bắc. Tuy nhiên, việc quyết định thành lập công ty (DDK4) và định hình mình
là một doanh nhân trong tương lai (DDK5) thì cả 3 nhóm không có sự khác biệt nhiều.
Dự định KSKD có sự khác biệt (có ý nghĩa thống kê) giữa các vùng miền. Cụ thể, TN ở khu vực miền Bắc và miền
Trung có Dự định KSKD khác nhau; và Dự định KSKD của TN ở miền Nam có sự khác biệt với TN ở miền Trung; còn giữa
2 nhóm miền Bắc và Miền Nam thì chưa thấy rõ sự khác biệt này.
4.2.4.6 Theo nghề nghiệp của bố, mẹ
Dự định KSKD của TN có thể phụ thuộc vào nghề nghiệp của bố, mẹ; hay nói một cách khác thì truyền thống gia
đình có thể tác động đến ý định KSKD của TN. Để làm rõ sự khác biệt này, tác giả sử dụng phân tích ANOVA với các
biến trong thang đo DDK theo các nhóm nghề nghiệp của bố/ mẹ. Nghề nghiệp của bố mẹ có tác động đến dự định
KSKD của các TN. Cụ thể, TN có bố, mẹ làm kinh doanh tự do và làm nhân viên Kinh doanh hoặc quản lý trong các
DN có mức độ đồng tình với dự định KSKD cao hơn đáng kể so với nhóm bố mẹ có ngành nghề khác. Điều này hàm ý
tư duy, thái độ và hành vi KSKD của TN cũng phụ thuộc vào đặc điểm nghề nghiệp của bố mẹ và truyền thống gia đình
họ.

4.2.5 Phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến dự định khởi nghiệp của TN Việt Nam
4.2.5.1 Kết quả phân tích mô hình cấu trúc các nhân tố tác động đến dự định KSKD của TN Việt Nam
Để phân tích các mối liên hệ tác động trong mô hình nghiên cứu và khẳng định về các giả thuyết nghiên cứu đặt ra, tác
giả đã sử dụng mô hình cấu trúc (SEM) và xử lý dữ liệu bằng phần mềm AMOS. Kết quả phân tích cho thấy, mặc dù mô hình
phù hợp với dữ liệu nghiên cứu nhưng có một số mối quan hệ không có ý nghĩa thống kê. Cụ thể là mối quan hệ giữa giáo
dục KSKD với Dự định KSKD không có ý nghĩa thống kê (giá trị p là 0,897); tương tự, Chuẩn chủ quan (CCQ) và Thái độ
với tiền bạc (TDT) cũng không có mối quan hệ với Dự định KSKD (với giá trị p lần lượt là 0,266 và 0,840). Các mối liên hệ
giữa Kinh nghiệm KSKD (KNK), Nhu cầu thành tích (NCT), Thái độ với KSKD (TDK) và Nhận thức kiểm soát hành vi
(KSH) với Dự định KSKD (DDK) đều có ý nghĩa. Bên cạnh đó, Kinh nghiệm KSKD (KNK) và giáo dục KSKD (GDK) có
quan hệ dương với Thái độ với KSKD (TDK) ở mức ý nghĩa thống kê 1%. Như vậy, kết quả phân tích mô hình SEM ban đầu
chưa cho thấy tác động 3 nhân tố TDT, GDK và CCQ đến DDK; biến GDK không tác động trực tiếp đến DDK nhưng nó có
tác động đến TDK nên biến này sẽ được giữ lại trong mô hình điều chỉnh dưới đây (để xem xét tác động trung gian của biến
TDK).
Để có kết quả ước lượng chính xác hơn, mô hình được điều chỉnh loại bỏ tất các mối quan hệ không có ý nghĩa thống
kê và thực hiện phân tích lại. Kết quả các chỉ số xác định độ phù hợp của mô hình: CMIN/DF = 5,258; các GFI, CFI và TLI đều
lớn hơn 0,9; giá trị RMSEA = 0,057 < 0,08, do đó mô hình nghiên cứu sau khi được điều chỉnh vẫn phù hợp với dữ liệu khảo sát
(Hình 4.1).

tác động đến TDK (tác động trung gian qua TDK). Các trọng số chưa chuẩn hóa đều mang dấu dương cho thấy các biến
KNK, NCT, KSH và TDK ảnh hưởng tích cực tới DDK.
Kết quả hệ số hồi quy chuẩn hóa cho thấy giáo dục KSKD (GDK) có tác động rất mạnh đến Thái độ với KSKD
(TDK). Đồng thời, trong các nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến dự định KSKD của TN thì Thái độ với KSKD (TDK) và Nhận
thức kiểm soát hành vi (KSH) có tác động mạnh nhất đến Dự định KSKD (DDK). Yếu tố Kinh nghiệm KSKD (KNK) có tác
động yếu nhất đến Dự định KSKD (hệ số hồi quy chuẩn hóa là 0,152).
4.2.5.2. Phân tích mô hình cấu trúc đa nhóm
Nghiên cứu đã sử dụng kĩ thuật phân tích mô hình cấu trúc đa nhóm với tiêu chuẩn Chi-square để kết luận về sự
khác biệt về dự định KSKD của TN theo các biến kiểm soát: giới tính, trình độ, trạng thái nghề nghiệp, nghề nghiệp của
bố, mẹ. Theo đó, với mỗi biến kiểm soát, tổng thể mẫu sẽ được chia làm nhiều nhóm phân loại tùy thuộc vào số lượng các
biểu hiện của biến kiểm soát đó. Tác giả xây dựng 2 mô hình cấu trúc: mô hình khả biến (các hệ số tác động có sự khác
nhau theo các nhóm) và mô hình bất biến (các hệ số tác động không có sự khác nhau theo các nhóm). Sau khi có kết quả 2

mô hình này, sai biệt giữa 2 mô hình sẽ được xác định và thông qua thống kê Chi-square sẽ kết luận về sự khác biệt. Giả
thuyết H0 trong kiểm định này là: Không có sự khác biệt giữa 2 mô hình bất biến và khả biến (dùng kết quả mô hình bất
biến). Các kết quả phân tích mô hình cấu trúc đa nhóm như sau:
(i) Mối liên hệ tác động của các nhân tố trong mô hình đến dự định KSKD của TN không có sự khác biệt giữa nhóm
nam và nữ. Các yếu tố KNK, NCT, TDK, KSH đều có ảnh hưởng trực tiếp đến dự định KSKD của nam và nữ TN và yếu tố
GDK có ảnh hưởng gián tiếp đến dự định KSKD qua yếu tố TDK. Đối với cả 2 nhóm giới tính, Nhận thức kiểm soát hành vi
(KSH) và Thái độ với KSKD (TDK) là 2 yếu tố tác động mạnh nhất đến dự định KSKD của TN.
(ii) Ảnh hưởng giữa các nhân tố đến dự định KSKD có sự khác nhau giữa nhóm sinh viên và nhóm đã đi làm. Kết quả trọng
số hồi quy trong mô hình cấu trúc của nhóm sinh viên và nhóm đã đi làm cho thấy sự khác biệt như sau: Đối với sinh viên, nhân tố
Nhu cầu về tiền bạc không ảnh hưởng đến dự định KSKD (p=0,602) và Thái độ với KSKD có tác động tích cực nhất đến dự định
KSKD của họ. Mặt khác, đối với nhóm đã đi làm, tất cả các nhân tố trong mô hình đều có ảnh hưởng đến dự định KSKD và Nhận
thức kiểm soát hành vi là yếu tố tác động mạnh nhất đến dự định KSKD của họ.
(iii) Dù ở trình độ chuyên môn nào thì dự định KSKD của TN đều chịu ảnh hưởng trực tiếp bởi các nhân tố Nhu cầu
thành tích, Kinh nghiệm KSKD, Thái độ với KSKD, Nhận thức kiểm soát hành vi và bị ảnh hưởng gián tiếp từ nhân tố Giáo
dục KSKD.
(iv) Mối liên hệ tác động của các nhân tố trong mô hình đến dự định KSKD không có sự khác nhau giữa các nhóm
nghề nghiệp của bố và mẹ. Hay nói cách khác, những TN xuất phát từ gia đình có bố/mẹ làm kinh doanh hoặc hoạt động
trong lĩnh vực nghề nghiệp khác nhau đều chịu ảnh hưởng của tất cả các yếu tố trong mô hình đến dự định KSKD của họ.
***

CHƯƠNG 5: BÀN LUẬN VỀ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
VÀ ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY THANH NIÊN
VIỆT NAM KHỞI SỰ KINH DOANH
5.1. Bình luận kết quả nghiên cứu
Kết quả nghiên cứu của Luận án đã làm sáng tỏ thêm cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn về thúc đẩy khởi sự kinh
doanh nói chung và đối với thanh niên Việt Nam về vấn đề này nói riêng. Trong đó:
Một số giả thuyết ban đầu đặt ra chưa được kiểm định qua dữ liệu nghiên cứu của Luận án bao gồm:
GT1: Thái độ đối với tiền bạc có ảnh hưởng tích cực đến dự định khởi sự kinh doanh của thanh niên Việt Nam.
Kết quả nghiên cứu mới chỉ ra rằng, mặc dù có thái độ tích cực về tiền bạc, nhưng thanh niên Việt Nam lại không chọn
con được khởi nghiệp để thỏa mãn nhu cầu tiền bạc của họ.

GT3: Chuẩn chủ quan có ảnh hưởng tích cực đến dự định khởi sự kinh doanh của thanh niên Việt Nam. Trên
thực tế, mặc dù thanh niên đánh giá tương đối tích cực về vai trò của chuẩn chủ quan đối với họ, tuy nhiên, quyết định
KSKD của TNVN trong nghiên cứu này không có mối liên hệ ít hay chịu sự tác động bởi các nhóm xã hội như gia đình,
bạn bè hay những người quan trọng xung quanh họ.
GT8: Giáo dục khởi sự kinh doanh có ảnh hưởng tích cực đến dự định khởi sự kinh doanh của thanh niên Việt
Nam. Vai trò tích cực của giáo dục KSKD đã được ghi nhận qua thực tiễn và có cả những bằng chứng khoa học, tuy
vậy, khi nghiên cứu trong môi trường xã hội Việt Nam, hoạt động giáo dục KSKD còn chưa rõ nét, điều đó ảnh hưởng
trực tiếp đến cảm nhận và đánh giá của thanh niên về tác động của yếu tố này đến dự định KSKD của họ. Tuy vậy,
nghiên cứu này vẫn chỉ ra tác động trung gian của giáo dục KSKD đến dự định KSKD của TNVN.

Hình 4.1. Kết quả phân tích mô hình SEM (điều chỉnh) đã chuẩn hóa
Trong mô hình cấu trúc điều chỉnh, biến GDK và KNK đều có ảnh hưởng đến TDK. Các biến KNK, NCT, KSH và
TDK đều có tác động đến DDK và có ý nghĩa thống kê (p<0,05). Mặc dù GDK không tác động trực tiếp đến DDK, nhưng nó

GT10: Hỗ trợ của chính phủ có tác động tích cực đến dự định khởi sự kinh doanh của thanh niên Việt Nam. Mặc
dù thời gian qua, Chính phủ đã có rất nhiều động thái tích cực để khuyến khích tinh thần khởi nghiệp trong xã hội, tuy
nhiên, dường như điều này chưa thực sự lan tỏa rộng rãi đến các tầng lớp thanh niên để có được đánh giá tích cực từ họ.
Do vậy, dữ liệu nghiên cứu từ Luận án chưa đủ cơ sở để khẳng định sự ủng hộ hay bác bỏ giả thuyết này.
Bên cạnh các giả thuyết chưa được kiểm định nêu trên, đa số các giả thuyết ban đầu đã được làm sáng tỏ qua
phân tích kết quả điều tra của tác giả. Cụ thể bao gồm:


11
GT2: Thái độ đối với khởi sự kinh doanh ảnh hưởng tích cực đến dự định khởi sự kinh doanh của thanh niên Việt

12

5.2. Đề xuất giải pháp thúc đẩy thanh niên Việt Nam KSKD

Ngoài ra, cần đẩy mạnh triển khai các dịch vụ hỗ trợ TN khởi nghiệp. Khi xã hội có những động thái tích cực thông

qua các chính sách cụ thể để đồng hành cùng TN KSKD, xây dựng quốc gia khởi nghiệp, điều này sẽ tác động trực tiếp đến
nhận thức của người dân nói chung và TN nói riêng về hoạt động khởi nghiệp. Việc triển khai thực hiện các chính sách hiện
hành hỗ trợ cộng đồng khởi nghiệp cần đi vào thực chất, phát huy hiệu quả ở từng giai đoạn cụ thể trong quá trình KSKD của
TN. Xây dựng và triển khai các mô hình cụ thể và hiệu quả trong việc thực hiện chủ trương chính sách này ở các cấp, các đơn
vị như: hội đồng hỗ trợ khởi nghiệp ở địa phương (cấp tỉnh, huyện), trung tâm hỗ trợ khởi nghiệp vườn ươm tại các bộ, tỉnh,
thành phố, trường đại học. Gắn kết chặt chẽ trường đại học với các địa phương trong triển khai thực hiện hoạt động hỗ trợ
khởi nghiệp. Đặc biệt chú ý việc xây dựng và phát triển hệ sinh thái khởi nghiệp trong các trường đại học để tận dụng các
nguồn lực gắn kết và tự có của nhà trường như: cộng đồng DN, cộng đồng cựu sinh viên, các nhà nghiên cứu và chuyên gia
của trường …đồng thời phục vụ cho chính đối tượng sinh viên khi tham gia hoạt động KSKD. Mạng lưới liên kết giữa các
DN và các trường đại học cần được thiết lập nhằm tạo ra cơ sở dữ liệu liên quan đến việc thu thập, cập nhật dữ liệu, tư vấn và
cung cấp thông tin và có những hỗ trợ kịp thời đối với TN có dự định KSKD. Mặt khác, những hoạt động hỗ trợ thực tiễn,
nhất là đối với triển khai các dự án khởi nghiệp của TN từ trong nhà trường sẽ là động lực mạnh mẽ TN phát triển các ý
tưởng sáng tạo khởi nghiệp và có cơ hội thể hiện năng lực bản thân cũng như có thái độ tích cực đối với hoạt động KSKD.

Thứ nhất: Nâng cao nhận thức, thái độ của TN về KSKD, hình thành thái độ tích cực của TNVN đối với hoạt động
KSKD, giúp TN nuôi dưỡng và phát triển ý định KSKD.

Thứ ba: Quan tâm, đầu tư vào hoạt động giáo dục KSKD cho TN, phát triển mô hình giáo dục khởi nghiệp từ trong hệ
thống giáo dục phổ thông.

Trong số các nhân tố có ảnh hưởng đến Dự định KSKD của TN thì Thái độ KSKD là nhân tố có tầm ảnh hưởng lớn
nhất. Do đó, để nâng cao thái độ tích cực của TNVN đối với hoạt động KSKD, cần đẩy mạnh và triển khai hiệu quả hoạt
động tuyên truyền, vận động, bồi đắp cho TN có khát vọng vươn lên làm chủ, khởi nghiệp làm giàu cho bản thân và gia đình;
tôn vinh vị trí xã hội của các tấm gương doanh nhân thành đạt, các tấm gương TN làm kinh tế giỏi, tạo ra nhiều giá trị cho
bản thân, cộng đồng và xã hội.

Kết quả nghiên cứu cho thấy, “Giáo dục về KSKD” chưa được khẳng định có tác động trực tiếp tới “Dự định KSKD”
của thanh niên Việt Nam. Tuy nhiên, kết quả phân tích cho thấy biến “Giáo dục KSKD” có mối tương quan thuận với “Thái
độ KSKD” và “Thái độ KSDN’ có sự tác động đến ‘Dự định KSKD của thanh niên Việt Nam’. Như vậy việc giáo dục KSKD
sẽ có tác động tích cực tới cả việc nâng cao thái độ KSKD và có thể dẫn đến tăng ‘Dự định KSKD của TNVN’. Điều này

càng khẳng định tầm quan trọng của việc giáo dục KSKD đối với việc nâng cao dự định KSKD của TNVN.

Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh, Trung ương Hội LHTN Việt Nam cần phát huy vai trò của tổ chức trong hoạt
động đồng hành cùng TN khởi nghiệp, nhất là trong việc triển khai mạnh mẽ và có hiệu quả, đi vào chiều sâu trong việc
tuyên truyền kết hợp với hỗ trợ các cấp bộ Đoàn – Hội ở địa phương, các trường học. Hoạt động tuyên truyền, hỗ trợ của tổ
chức Đoàn, Hội có thể thực hiện thông qua các hội thi về ý tưởng sáng tạo khởi nghiệp, giới thiệu các mô hình KSKD thành
công, triển khai các hoạt động tư vấn, hỗ trợ tiếp cận các nguồn vốn vay ưu đãi, tập huấn, trang bị kiến thức, kỹ năng cần
thiết cho TN khởi sự.

Để phát huy vai trò của nhân tố giáo dục KSKD, Nhà nước cần chỉ đạo các bộ, ban ngành có liên quan, nhất là sự phối
hợp giữa Bộ Giáo dục và Đào tạo với Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh trong việc triển khai hoạt động giáo dục KSKD
cho TN. Hoạt động giáo dục KSKD không chỉ giới hạn ở nhóm sinh viên mà có thể hướng đến đào tạo đáp ứng nhu cầu học
tập của TN nói chung. Nâng cao chất lượng giáo dục KSKD cho TNVN thông qua việc tăng cường đổi mới giáo dục KSKD
cho TN cả về nội dung, hình thức và phương thức giáo dục. Các nhà trường cần gắn kết chặt chẽ với các DN để đảm bảo
công tác giáo dục gắn với thực tiễn, giáo dục gắn với thực hành, lý thuyết gắn với thực tế, đồng thời huy động nguồn lực từ
các DN vào giảng dạy cho sinh viên: các chuyên gia trong các lĩnh vực chuyên môn thực tế, các nhà quản lý tại các bộ phận
và ở các cấp bậc của DN.

Nam.
GT4: Nhận thức kiểm soát hành vi có ảnh hưởng tích cực đến dự định khởi sự kinh doanh của thanh niên Việt
Nam
GT5: Nhu cầu thành tích có ảnh hưởng tích cực đến dự định khởi sự kinh doanh của thanh niên Việt Nam
GT6: Kinh nghiệm có ảnh hưởng tích cực đến dự định khởi sự kinh doanh của thanh niên Việt Nam
GT7: Thái độ có thể là biến trung gian của mối quan hệ giữa kinh nghiệm và dự định khởi sự kinh doanh của
thanh niên Việt Nam
GT9: Thái độ đối với khởi sự kinh doanh là biến trung gian mối quan hệ giữa giáo dục khởi sự kinh doanh và dự
định khởi sự kinh doanh của thanh niên Việt Nam

Cần có sự phối hợp từ trung ương đến địa phương, sự phối hợp giữa các ban ngành, đoàn thể trong việc triển khai các
hoạt động tuyên truyền, phổ biến quan điểm, cơ chế, chính sách của Đảng, Nhà nước và Chính phủ đối với vấn đề khởi

nghiệp trong các đối tượng TN. Tổ chức các hoạt động truyền thông về khởi nghiệp: tuyên truyền nâng cao nhận thức, ý thức
và tinh thần về khởi nghiệp, lập nghiệp cho TN và cộng đồng; xây dựng chương trình truyền thông, tư vấn, hướng nghiệp,
khởi nghiệp, lập nghiệp; tổ chức các hoạt động tư vấn, hỗ trợ phù hợp với từng đối tượng TN; tuyên truyền, phổ biến các cơ
chế, chính sách hỗ trợ khởi nghiệp, đặc biệt là Đề án “Hỗ trợ học sinh, sinh viên khởi nghiệp đến năm 2025”.
Hoạt động giáo dục KSKD không những bao gồm việc cung cấp kiến thức, kỹ năng cho TN, mà còn phải kết hợp với
việc tạo môi trường cho TN trải nghiệm thực tế, tích lũy kinh nghiệm khởi sự. Để hình thành thái độ tích cực đối với KSKD,
việc tạo dựng niềm tin và văn hóa khởi nghiệp cho TNVN là việc làm hết sức quan trọng và cần thiết.
Nhà nước cần quan tâm trong công tác chỉ đạo, ban hành chính sách khuyến khích TN KSKD, trong đó, cần chú trọng
đến các chính sách liên quan đến truyền thông tích cực về khởi nghiệp, xây dựng tinh thần khởi nghiệp và văn hóa khởi
nghiệp, tạo dựng môi trường khởi nghiệp, cộng đồng khởi nghiệp phát triển năng động với đầy đủ hệ sinh thái khởi nghiệp.
Trong KSKD, mức độ rủi ro và khả năng thất bại là khá lớn, do đó, giáo dục KSKD cần gắn liền với việc tạo dựng văn
hóa khởi nghiệp cho giới trẻ. Cần khuyến khích và tạo điều kiện cho TN được học tập và trải nghiệm thực tế, qua đó họ tích
lũy kinh nghiệm về KSKD.
Cần tạo lập môi trường kinh doanh lành mạnh với một thị trường năng động, phát triển và vận hành với đầy đủ các
quy luật của mình và với sự can thiệp của Nhà nước có tính dự báo và giảm thiểu. Để thực hiện điều này đối với Việt Nam
hiện nay thì Nhà nước cần cam kết và quyết liệt thực hiện việc thu hẹp khu vực công, thúc đẩy quốc gia khởi nghiệp, tạo lập
môi trường kinh doanh để tạo ra nhiều cơ hội khởi nghiệp cho giới trẻ. Cần có chính sách cụ thể để cải thiện môi trường kinh
doanh chẳng hạn như chính sách định hướng nhận biết các cơ hội kinh doanh hoặc tạo điều kiện cho các DN khởi nghiệp ra
nhập thị trường,…
Thứ hai: Nâng cao nhận thức kiểm soát hành vi của TNVN.
Kết quả nghiên cứu từ Luận án đã khẳng định ảnh hưởng tích cực của Nhận thức kiểm soát hành vi đến Dự định
KSKD của TNVN. Do đó, những tác động nhằm nâng cao nhận thức kiểm soát hành vi của TN rất cần được quan tâm.
Thực tế cho thấy, nhận thức kiểm soát hành vi của TN xuất phát từ sự tự tin, và được trang bị các kiến thức, kỹ năng
cần thiết cũng như sự am hiểu về việc khởi sự. Những yếu tố này được tạo nên từ kinh nghiệm, trải nghiệm hoạt động KSKD
và từ thông qua hoạt động giáo dục KSKD. Vì vậy, việc thúc đẩy TNVN có động lực KSKD, tất yếu phải cải thiện môi
trường kinh doanh hiện tại, đặc biệt là tạo hành lang pháp lý thuận lợi cho khởi nghiệp. Việc tạo dựng khung pháp lý thống
nhất, đồng bộ, đặc biệt là xem xét việc xây dựng đạo luật dành riêng cho khởi nghiệp hoặc cho TN khởi nghiệp là điều cần
thiết.

Để giáo dục KSKD trở thành một hoạt động chính thức trong nhà trường, Nhà nước cần quan tâm đến các chính sách

đẩy mạnh giáo dục như tài trợ các chương trình đào tạo khởi nghiệp. Giáo dục khởi nghiệp cần được đưa vào hệ thống giáo
dục quốc dân ít nhất từ bậc trung học phổ thông. Việc đưa giáo dục khởi nghiệp vào trong chương trình dạy học cần triển
khai thông qua các môn học STEM và STEAM và tư duy tài chính, quản trị nhằm nuôi dưỡng đam mê, cảm hứng khởi
nghiệp và chuẩn bị các kiến thức nền tảng và kỹ năng khởi nghiệp cho TN ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường.
Thứ tư: Tiếp tục hoàn thiện hệ thống chính sách cụ thể thúc đẩy KSKD phù hợp với sự phát triển của thị trường và
nhu cầu hỗ trợ của các đối tường TN tham gia KSKD.
Mặc dù trong nghiên cứu này, việc ‘Hỗ trợ của Chính phủ’ chưa có sự tác động đến ‘Dự định khởi sự kinh doanh của
Thanh niên Việt Nam’, nhưng đây vẫn nên là điều đáng quan tâm và đưa ra giải pháp để những hỗ trợ này thực sự có tác
dụng. Trong hệ thống chính sách khuyến khích TN khởi nghiệp, cần quan tâm đến hoạt động hỗ trợ TN khởi nghiệp tại địa
phương, nhất là ở khu vực nông thôn. Ngoài những hỗ trợ về điều kiện sản xuất, Chính phủ cùng cần quan tâm vấn đề đào tạo
cho TN nông thôn những kiến thức cơ bản để khởi nghiệp, phát triển các ý tưởng kinh doanh và tận dụng các nguồn lực sẵn
có từ địa phương.
5.3. Một số đóng góp và hạn chế của nghiên cứu
5.3.1 Những đóng góp mới của luận án
- Đóng góp thứ nhất của luận án là kiểm định một cách tổng thể những nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến khởi sự kinh
doanh của đối tượng khá đặc biệt là thành niên trong bối cảnh mới là Việt Nam;
- Đóng góp thứ hai của luận án là kiểm định lại nhiều biến còn tranh luận, chưa có sự thống nhất như: nhận thức kiểm
soát hành vi (Ruhle và cộng sự, 2010; Paco và cộng sự, 2011), kinh nghiệm khởi sự kinh doanh (Basu và Virick, 2008;
Davidsson, 1995), truyền thống kinh doanh gia đình (Marques và cộng sự, 2014; Krueger và Dickson, 1993), Chính sách hỗ
trợ từ Chính phủ đối với khởi sự kinh doanh (Lüthje và Frank, 2003), giới tính, độ tuổi, trình độ học vấn (BarNir và Watson,
2011; và Shinnar và Giacomin, 2012). Điều này giúp củng cố thêm các lý thuyết liên quan đến nhân tố ảnh hưởng đến khởi
sự kinh doanh;
- Đóng góp thứ ba của luận án là kiểm định một số biến mới trong bối cảnh mới là Việt Nam bao gồm: yếu tố thuộc về
bản thân, yếu tố liên quan đến giáo dục KSKD, yếu tố thuộc về môi trường (Hệ thống pháp luật, hỗ trợ từ chính phủ, truyền
thống kinh doanh của gia đình) đến dự định KSKD trong môi trường văn hóa, kinh tế, xã hội có nhiều nét đặc trưng như Việt
Nam. Hay đánh giá so sánh dự định khởi sự của thanh niên (độ tuổi từ 18-30) ở Việt Nam cũng như các nghiên cứu so sánh
giữa thanh niên ở thành thị với thanh niên ở nông thôn hoặc giữa sinh viên với những người đã tốt nghiệp;


13

- Đóng góp thứ tư của luận án là đưa ra một khung cho phát triển khởi sự kinh doanh với đối tượng là thanh niên Việt
Nam. Qua đó, giúp các nhà hoạch định, ban bộ ngành liên quan và các doanh nghiệp có cơ sở để ban hành các chính sách và
giải pháp hợp lý để đẩy mạnh hoạt động khởi sự kinh doanh từ đối tượng tiềm năng này.
5.3.2 Những hạn chế của luận án
- Hạn chế thứ nhất của nghiên cứu là thực hiện điều tra dữ liệu chỉ tại một thời điểm. Trong khi sự ảnh hưởng của các
biến đến dự định khởi sự kinh doanh của thanh niên Việt Nam nên đo trong một khoảng thời gian nhất định. Do đó, những
nghiên cứu tiếp theo nên kiểm định mối quan hệ này trong khoảng thời gian đủ lớn để có kết quả chính xác hơn.
- Hạn chế thứ hai của nghiên cứu là các thang đo đều phụ thuộc rất lớn đến nhận thức của người điền dữ liệu vào
phiếu điều tra. Vì vậy, các nghiên cứu kế thừa nên bổ sung thêm các dữ liệu định lượng và khách quan sẽ cho kết quả tốt hơn.
- Cuối cùng, nghiên cứu này được thực hiện một số tỉnh trong cả nước. Để tăng sự chính xác nghiên cứu cần tăng mẫu
điều tra về mặt phạm vi để tăng tính đại diện của thanh niên Việt Nam tại các vùng miền khác nhau.
***

KẾT LUẬN
Những phát hiện từ kết quả nghiên cứu luận án đã đóng góp những vấn đề về lý luận và thực tiễn. Trên cơ sở kế thừa
các nhân tố trong mô hình lý thuyết TPP và SEE, tác giả đã xây dựng mô hình nghiên cứu có ý nghĩa về các yếu tố ảnh hưởng
đến dự định KSKD của thanh niên Việt Nam, từ đó chỉ ra vai trò của các yếu tố như: Thái độ đối với KSKD, Nhận thức kiểm
soát hành vi, Kinh nghiệm KSKD và Nhu cầu thành tích ảnh hưởng đến dự định KSKD của TNVN. Ngoài ra, Luận án cũng
đã chỉ ra mối liên hệ trung gian giữa các biến số trong mô hình nghiên cứu dự định KSKD của TNVN, nhất là vai trò của yếu
tố giáo dục KSKD. Đây cũng là cơ sở để khuyến nghị các giải pháp khuyến khích TN KSKD.
Việc hiểu rõ các nhân tố tác động đến dự định KSKD của TN là cơ sở để triển khai hiệu quả các chính sách khuyến
khích thanh niên khởi nghiệp. Kết quả từ nghiên cứu này đồng thời cung cấp cho các nhà hoạch định chính sách một cái nhìn
thấu đáo về giáo dục KSKD để truyền cảm hứng cho TN KSKD. Kết quả nghiên cứu là kênh thông tin tham khảo hữu ích để
các nhà hoạch định, ban bộ ngành liên quan triển khai hiệu quả các hoạt động đồng hành, hỗ trợ thanh niên khởi nghiệp, nhất
là trong việc ban hành các chính sách thúc đẩy hoạt động KSKD của TNVN.



×