Tổng quan về ngành thép Việt Nam và sự cần thiết đầu
t phát triển ngành thép
1 Tình hình tài nguyên trong nớc phục vụ ngành thép
a) Quặng sắt
Đến nay ngành địa chất đã phát hiện đợc trên 200 điểm quặng sắt lớn nhỏ
trong cả nớc, trong đó 91 mỏ và điểm quặng đáng kể đã thăm dò ở các mức độ
khác nhau có tổng trữ lợng địa chất khoảng 1,2 tỷ tấn, trong đó trữ lợng đã thăm dò
trên 1 tỷ tấn. Có 6 mỏ và và khu vực chứa quặng sắt tơng đối lớn và tập trung là
Thạch Khê, Quý Xa, Trại Cau, Tiến Bộ, Cao Bằng, Hà Giang có trữ lợng địa chất
khoảng 850 triệu tấn, trong đó trữ lợng chắc chắn có thể khai thác đợc đánh giá đến
thời điểm hiện nay khoảng 400 triệu tấn. Trong đó tổng số các mỏ, điểm quặng sắt
đã đợc tính trữ lợng, mới chỉ có mỏ Trại Cau đợc khai thác ở quy mô công suất 7,5
triệu tấn quặng nguyên khai, thu gần 4 triệu tấn quặng tinh, đến any mỏ Trại Cau
đã đợc khai thác gần hết, trữ lợng còn lại khoảng 3,6 triệu tấn nhng nằm phân tán
rất khó khai thác. Các mỏ khác mới chỉ thăm dò sơ bộ, một số mỏ thăm dò chi tiết
nhng trữ lợng nhỏ, điều kiện khai thác, vận tải khó khăn, không đảm bảo hiệu quả
đầu t.
b) Than mỡ
Là nguyên liệu cha thể thay thế trong công nghệ sản xuất gang lò cao. Tuy nhiêkhai
thác nguồn than mỡ của Việt Nam rất hạn chế cả về tiềm năng và trữ lợng có thể
huy động vào khai thác. Mặt khác, chất lợng than mỡ trong nớc không cao, ảnh h-
ởng rất lớn tới khả năng sản xuất cốc luyện kim. Hiện nay, trữ lợng khai thác ở
vùng Thái Nguyêkhai thác chỉ còn 3,6 triệu tấn, không đủ cho các lò cao nhỏ của
công ty gang thép Thái Nguyêkhai thác sử dụng lâu dài. Trong tơng lai khi xây
dựng các nhà máy thép liêkhai thác hợp theo công nghệ truyền thống có sử dụng lò
cao luyện gang chúng ta sẽ phải nhập khẩu toàkhai thác bộ mỡ để đáp ứng nhu cầu
sản xuất.
c) Than Atraxit và các loại than gầy khác
Nớc ta có tiềm năng lớn về than Antraxit với trữ lợng chắc chắn vào khoảng
3,4 tỷ tấn, tổng trữ lợng địa chất khoảng 6,6 tỷ tấn. Hiện nay mới chỉ khai thác trên
10 triệu tấn/năm tập trung ở Quảng Ninh. Đây là tiềm năng to lớn cho ngành thép
Việt nam phát triển bằng các công nghệ mới phi cốc nh công nghệ Corex, Romelt,
khí hoá than để sản xuất sắt xốp Tuy nhiên, các công nghệ luyện kim phi cốc
hiện nay trên thế giới cha thuần thục, một số còn trong giai đoạn thử nghiệm và
phần lớn có quy mô công suất nhỏ, cha đảm bảo chắc chắn để tính đến cung cấp
cho các nhà máy liên hợp quy mô lớn. Chúng ta cần hợp tác với nớc ngoài tiếp tục
nghiên cứu tính chất công nghệ của than Antraxit Việt nam để sớm có kết luận
đúng đắn về khả năng sử dụng than Antraxit trong ngành thép.
Ngoài than Atraxit, nớc ta còn có một số điểm than gầy khác, chất bốc cao
song trữ lợng nhỏ, phân tán, chất lợng thấp. Triển vọng có trữ lơng than nâu rất lớn
ở đồng bằng Bắc bộ, đây cũng là tiềm năng cần tính đến trong tơng lai để phục vụ
cho ngành thép.
d) Khí thiên nhiên
Nớc ta có trữ lợng khí thiên nhiên ở ngoài biển và trong đất liền tơng đối lớn.
Đến nay đã thăm dò đánh giá đợc trữ lợng khoảng 250 tỷ m3 phân bổ cả phía Nam
lẫn phía Bắc. Trong tơng lai khí thiên nhiên sẽ đợc sử dụng rộng rãi trong ngành
thép, làm nhiên liệu cho các lò nung, lò ủ thay cho dầu FO, làm chất hoàn nguyên
để sản xuất sắt xốp theo công nghệ Midrex, Hil Tuy nhiên, giá khí thiên nhiên và
trữ lợng chắc chắn sẽ là yếu tố quyết định để ngành thép sử dụng có hiệu quả
nguồn khí thiên nhiên trong nớc.
e) Nguyên liệu sản xuất Ferro, gạch chịu lửa
Nớc ta có quặng Mn trữ lợng khoảng 3,6 triệu tấn tập trung ở Cao Bằng,
Crôm ở Thanh Hoá, Vonfram, Niken, Titan, Silic và đặc biệt có trữ l ợng lớn
quặng đất hiếm. Đây là nguồn nguyên liệu quan trọng để phát triển ngành sản xuất
Ferro phục vụ luyện thép và sản xuất hợp kim, thép đặc biệt.
Tuy nhiên, do còn hạn chế về trữ lợng và chất lợng quặng kim loại, chúng ta
sẽ vẫn phải nhập khẩu thêm một phần Ferro cao cấp mà trong nớc cha đáp ứng đợc
để sản xuất thép hợp kim trong tơng lai.
Trong nớc có đủ nguyên liệu để sản xuất gạch chịu lửa thông dụng nh đất sét
Trúc Thôn, Tuyên Quang, Tân Mài - Quảng Ninh, ta có khả năng tổ chức sản xuất,
tự túc phần lớn gạch chịu lửa cao cấp, nếu trong nớc không sản xuất đợc sẽ phải
nhập khẩu để đáp ứng nhu cầu.
g) Nguồn nguyên liệu thép phế
Nguồn thép phế trong chiến tranh đã và sử dụng hết từ nhiều năm trớc.
Nguồn thép phế thải ra từ sản xuất và tiêu dùng trong xã hội rất hạn chế do
nền kinh tế còn kém phát triển, mức sống dân c còn thấp. Do vậy, hiện nay cả nớc
chỉ có khả năng thu gom đợc khoảng trên dới 300.000 tấn/năm. Lợng thép phế thải
ra sẽ tăng dần cùng với sự tăng trởng tiêu thụ thép của toàn xã hội, song trong 10
năm tới cha thể trở thành nguồn cung cấp đáng kể cho các lò điện hiẹn có và sẽ xây
dựng.
Từ năm 1995 đến nay, ngành thép sản xuất phôi thép chủ yếu bằng lò điện.
Tuy nhiên, do có khó khăn về nguồn thép phế nên chỉ huy động đợc khoảng 60%
tổng công suất các lò điện, hàng năm đều phải nhập khẩu một lợng lớn phôi thép để
cán. Để đáp ứng cho các lò điện, một mặt sẽ phải tăng cờng phá vỡ tàu cũ, mặt
khác phải đầu t sản xuất sắt xốp và nhập khẩu sắt phế. Về lâu dài, nguyên liệu chủ
yếu cho luyện thép vẫn là gang.
Tóm lại, nớc ta có tiềm năng đáng kể về quặng sắt, chất trợ dung, nguyên
liệu sản xuất Ferro và gạch chịu lửa, than Atraxit và khí thiên nhiên phục vụ phát
triển ngành thép Việt Nam.
Cơ sở tài nguyên trong nớc tuy khá phong phú và đa dạng song vẫn có những
hạn chế nhất định về trữ lợng, chất lợng, điều kiện khai thác và vận chuyển không
thuận lợi cho việc phát triển sản xuất thép đi hoàn toàn từ nguyên liệu trong nớc. Vì
vậy, việc nhập khẩu quặng sắt, than mỡ, thép phế, một số loại vật liệu cao cấp là
cần thiết để phát triển ngành thép một cách nhanh chóng và hiệu quả.
2 Hiện trạng ngành thép về trình độ công nghệ và trang thiết bị
Cho đến trớc năm 2000 các dây chuyền cán thép tại các nhà máy phần lớn đ-
ợc chế tạo từ Trung Quốc, Đài Loan với chất lợng thiết bị rất hạn chế và còn kém
xa so với các nớc công nghiệp tiên tiến nh Nhật, Đức, ý, Mỹ, Pháp... Do đó mà sản
phẩm thép của các nhà máy này khó có thể cạnh tranh với các sản phẩm cùng loại
ngoại nhập.
Tại các nhà máy liên doanh ở Việt Nam, trong số 5 dây chuyền cán thép liên
doanh chỉ có 2 dây chuyền cán liên tục là tơng đối hiện đại đạt mức trung bình tiên
tiến. Các nhà máy thép liên doanh cũng chỉ sản xuất mặt hàng thép thanh tròn, vằn
và thép dây dùng cho xây dựng.
Các nhà máy cán thép ở Việt Nam đợc chế tạo và lắp đặt phần lớn ở dạng đa
năng: Vừa cán đợc thép thanh, vừa cán đợc thép dây không theo chuyên môn hoá.
Loại máy cán này có u điểm: Mặt hàng đa dạng linh hoạt hơn trong việc đáp ứng
nhu cầu của khách hàng. Nhng có nhợc điểm so với máy cán chuyên dụng là: Vốn
đầu t thiết bị lớn hơn trong khi công suất không thay đổi, không tận dụng hết năng
lực của thiết bị.
Công nghệ sản xuất gang.
Hiện nay, có 3 lò cao tại Lu Xá đang sản xuất 100 đến 120 tấn gang thỏi mỗi
ngày, đây là năng suất thấp so với năng suất của lò cao hiện đại.
` Trong thực tế đã khôi phục và cải tạo 3 lò cao để đạt 190.000 tấn gang
lỏng/năm.
Công nghệ sản xuất thép.
Công nghệ sản xuất thép thô gồm toàn bộ các lò hồ quang cỡ nhỏ, trong đó
có một lò 30 tấn và một lò 20 tấn là lớn nhất mua của Trung Quốc. Trình độ công
nghệ và các chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật thuộc loại thấp lạc hậu. Tổng dung lợng lò
điện 160 tấn/mẻ. Trong đó:
Lò điện hồ quang:
Có tổng số 20 lò điện hồ quang cỡ nhỏ ở 10 nhà máy thép và công suất trung
bình 8,2 tấn/mẻ.
Năng lực sản xuất khoảng 300.000 tấn/năm và phụ thuộc vào khả năng thu
mua thép phế trong nớc, khả năng này sẽ không tăng vì nguồn thép phế ở Việt Nam
không dồi dào.
Các chỉ số vận hành lò không cao và một trong những nguyên nhân chính là
chất lợng thép phế thấp.
Máy đúc liên tục:
Có 4 máy đúc phôi liên tục ở 4 nhà máy và công suất khoảng 70 - 120 nghìn
tấn/máy.
Biện pháp đúc nối tiếp cha đợc áp dụng.
Trong tơng lai phải có biện pháp cụ thể để tăng sản lợng thép. Tuy nhiên việc
tăng năng suất này phải đi đôi với việc tăng thu mua thép phế là yếu tố chính hạn
chế sản lợng các nhà máy.
Công nghệ cán thép.
Về các sản phẩm thép thanh, thép hình:
Có 16 nhà máy sản xuất trên 95% khối lợng các sản phẩm thép thanh, thép
hình ở Việt Nam. Tuy vậy, chỉ có 2 nhà máy liên doanh là loại liên tục hiện đại, còn
lại các nhà máy khác thuộc loại nhỏ có công suất nhỏ và công nghệ bán liên tục.
Các sản phẩm dẹt:
Hiện tại vẫn cha có nhà máy cán sản phẩm dẹt đợc xây dựng ở Việt Nam,
chỉ có một vài liên doanh với các công ty nớc ngoài mới đi vào hoạt động để sản
xuất thép tấm, lá mạ kẽm, ống thép...
Hiện trạng các nhà máy sản xuất sản phẩm dẹt đợc mô tả dới đây:
Dây chuyền tôn mạ kẽm: Hiện có 3 liên doanh đã bắt đầu đi vào hoạt động
sản xuất từ năm 1996.
Dây chuyền mạ điện thiếc hiện đại cha có.
Nhà máy cán thép tấm, lá, nóng và nguội. Tại Phú Mỹ đã bắt đầu xây dựng
vào năm 2001.
Nhà máy sản xuất ống thép hàn có 2 liên doanh trong lĩnh vực xây dựng ống
thép hàn điện, còn về xây dựng ống thép hàn xoắn cha có nhà máy nào.
Nhìn chung, trang thiết bị trong toàn ngành thép đã có nhiều tiến bộ, tăng tr-
ởng khá nhanh về số lợng, chất lợng, cơ cấu sản phẩm cũng đa dạng hơn tuy nhiên
vẫn còn trong tình trạng kém phát triển so với một số nớc trong khu vực, các dây
chuyền sản xuất chủ yếu thuộc loại công suất nhỏ, sản xuất manh mún, hiệu quả
sản xuất không cao; nhiều liên doanh không sử dụng hết công suất( tỉ lệ sử dụng
công suất đạt thấp) gây lãng phí lớn.
3 Cơ cấu sản xuất ngành thép hiện nay
Hiện nay, ở Việt Nam có khoảng 50 doanh nghiệp tham gia sản xuất thép
xây dựng chỉ tính các dây chuyền cán có công suất trên 5.000 tấn/năm. Trong đó,
có 12 dây chuyền cán có công suất từ 100.000 tấn/năm đến 300.000 tấn/năm. Sản
phẩm chủ yếu của ngành hiện có nh sau:
a) Gang thỏi.
b) Thép cán: Thép tròn trơn dạng thanh dài 15 - 40mm; Thép tròn vằn dạng
thanh dài D10 - D40mm; Thép dây tròn và vằn dạng cuộn 5,5 - 10mm; Thép
hình U, I, L, vuông, dẹt cỡ nhỏ và vừa từ số 2,5 đến 16 (25mm đến 160mm);
c) Các sản phẩm gia công sau cán: ống thép hàn 15mm - 114mm, thép lá
mạ kẽm, mạ màu, lới thép, dây thép gai, đinh các loại.
d) Hợp kim sắt và các loại phụ gia khác.
Mác thép phổ biến: Thép các bon thấp và trung bình (thép các bon thờng) và
một phần nhỏ thép hợp kim thấp.
Công suất sản xuất toàn ngành hiện có là 2,6 triệu tấn, công suất năm 2000
là 1,58 triệu tấn.
Hiện tại, ngành thép Việt Nam cha sản xuất đợc các sản phẩm tấm lá. Các
sản phẩm dài sản xuất trong nớc cũng phần lớn đợc cán từ phôi thép nhập khẩu.
Khả năng tự sản xuất phôi thép trong nớc còn nhỏ bé, chỉ đáp ứng đợc khoảng
25%, còn lại 75% nhu cầu phôi thép cho các nhà máy cán phải nhập khẩu từ bên
ngoài.
Phôi thép và thép cán trong nớc có chất lợng thông thờng và còn phụ thuộc
nhiều vào chất lợng phôi thép nhập khẩu. Khả năng xuất khẩu còn hạn chế. Cha có
cơ sở tập trung sản xuất thép đặc biệt phục vụ chế tạo cơ khí.
Nhìn chung, cơ cấu sản xuất của ngành thép hiện nay vẫn còn thiếu đồng bộ,
mất cân đối giữa sản xuất phôi với thép cán, giữa cơ cấu mặt hàng và cơ cấu chất l-
ợng sản phẩm.
4 Đánh giá xuất phát điểm của ngành thép
Những năm qua, tuy ngành thép đã đợc đầu t đáng kể và phát triển mạnh mẽ,
đạt đợc tốc độ tăng trởng khá cao, có tiềm lực tăng gấp hàng chục lần năm 1990,
song vẫn còn tình trạng kém phát triển so với các nớc trong khu vực và thế giới, thể
hiện ở các mặt:
Trang thiết bị có quy mô nhỏ, phổ biến thuộc thế hệ cũ, kém hiện đại, trình
độ công nghệ thấp, thiếu đồng bộ. Chất lợng sản phẩm còn hạn chế, nhất là khu
vực t nhân.
Cơ cấu mặt hàng sản xuất hẹp, đơn điệu, mới cán đợc các sản phẩm dài, cha
có sản phẩm dẹt cán nóng, cán nguội. Sản xuất gia công sau cán mới có ống hàn,
tôn mạ kẽm và chế phẩm dây, đinh, lới
Năng lực sản xuất phôi thép quá nhỏ bé, các nhà máy và cơ sở cán thép còn
phụ thuộc nhiều vào phôi thép nhập khẩu. Toàn bộ sản phẩm cán dẹt trong nớc cha
sản xuất đợc, phải nhập khẩu.
Chi phí sản xuất còn cao, năng suất lao động thấp, giá thành không ổn định
do phụ thuộc vào phôi thép nhập khẩu, nên tính cạnh tranh cha cao. Khả năng xuất
khẩu của sản phẩm thép còn hạn chế.
Tóm lại, nhìn một cách khái quát, ngành thép Việt Nam vẫn còn trong tình
trạng sản xuất nhỏ, phân tán, nặng về gia công chế biến từ phôi và thành phẩm
nhập khẩu, cha có nhà máy lớn làm trụ cột đủ sức chi phối toàn ngành, chi phối thị
trờng và thu hút các vệ tinh. Để cải thiện vị thế của ngành nhằm đáp ứng yêu cầu
nhiệm vụ đặt ra trong thời kỳ mới, chủ động tham gia quá trình hội nhập quốc tế,
ngành thép cần phải đợc đầu t mạnh mẽ để hiện đại hoá, nâng cao năng suất và chất
lợng sản phẩm, tăng cờng sức cạnh tranh, tiến tới khắc phục sự mất cân đối trong
cơ cấu sản xuất hiện nay.
5 Vai trò của ngành thép trong nền kinh tế
Ngành thép là ngành có vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, sự
phát triển của ngành thép có tác động trực tiếp, quan trọng tới các ngành kinh tế
nh ngành xây dựng, ngành giao thông vận tải, ngành công nghiệp chế tạo, công
nghiệp đóng tàu, sản xuất ô tô xe máy, sản xuất đồ gia dụng, công nghiệp quốc
phòng, công nghiệp khai khoáng, công nghiệp điện. Ngoài ra, việc phát triển ngành
thép còn tác động gián tiếp đến sự phát triển của các ngành khác trong nền kinh tế.
Đối với ngành xây dựng, thép là vật liệu cấu tạo vào thực thể công trình.
Hoạt động kinh tế nào cũng cần có cơ sở vật chất tơng ứng nh văn phòng, máy móc
thiết bị, hoạt động xây lắp cũng đều đòi hỏi nguyên liệu thép. Trong thời gian qua
ngành xây dựng nớc ta rất phát triển, hàng loạt các cơ sở hạ tầng nh điện- đờng
trờng- trạm đợc đầu t nâng cấp hoặc đợc xây mới. Tất cả các công trình này đều đòi
hỏi nhu cầu về thép rất lớn. Ngoài ra, nhu cầu về xây dựng nhà ở, phân xởng, văn
phòng, khách sạn và các khu vui chơi giải trí cũng tăng lên rõ rệt cùng với tốc độ
đô thị hoá diễn ra mạnh mẽ ở tất cả các tỉnh thành trong cả nớc thì thép cũng là
nguyên liệu không thể thiếu.
Nh vậy sự phát triển của ngành thép có vai trò trực tiếp tới sự phát triển của
ngành xây dựng.
Đối với ngành giao thông vận tải, việc phát triển kinh tế của một đất nớc luôn
luôn gắn liền với việc phát triển của mạng lới giao thông vận tải. Giao thông vận tải
bao gồm đờng bộ, đờng sắt, đờng thuỷ, đờng không. Mặt khác, việc phát triển
ngành giao thông vận tải gắn liền với việc đầu t xây dựng, nâng cấp các con đờng,
cầu, cảng, đờng sắt, sân bay. Tất cả các hoạt động trên đều cần đến một khối lợng
thép lớn. Đến lợt mình, việc phát triển giao thông vận tải lại tạo điều kiện cho việc
phát triển sản xuất và mạng lới cung cấp thép trong cả nớc.
Hiện nay, nhu cầu về các phơng tiện nh ô tô, xe máy ngày một tăng. Ước
tính đến năm 2005 nhu cầu thép cho ngành công nghiệp xe máy khoảng 8000 tấn
và năm 2010 khoảng 14000 tấn. Lợng tiêu thụ thép trong ngành công nghiệp xe
máy khoảng 25 Kg/chiếc, của ô tô khoảng 170- 250 Kg/chiếc, chủ yếu là thép lá,
thép cán nguội, thép mạ. Trong ngành công nghiệp này tỷ lệ nội địa hoá ngày càng
cao, do đó nhu cầu về thép cũng không ngừng tăng lên.
Ngoài ra, đối với các ngành công nghiệp khác nh đóng tàu thì nhu cầu sử
dụng thép hàng năm khoảng 4000 5000 tấn thép, trong đó chủ yếu là thép tấm,
còn lại là thép cán tròn và các loại thép hình.
Đối với ngành công nghiệp sản xuất đồ gia dụng, sự phát triển kinh tế xã hội
gắn liền với thu nhập của ngời dân cũng gia tăng. Vì vậy, nhu cầu về các hàng gia
dụng cũng tăng nh máy giặt, tủ lạnh, điều hoà v.v. mà nguyên liệu sản xuất của
ngành này cũng xuất phát từ thép.
Đối với ngành công nghiệp chế tạo máy, trong công cuộc công nghiệp hoá
hiện đại hoá đất nớc hiện nay thì lợng máy móc, thiết bị sản xuất ra hàng năm
không ngừng tăng lên. Thép cũng là nguyên liệu không thể thiếu trong việc sản
xuất của ngành này.
Nh vậy, qua đó thấy đợc thép có vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển
của một số các ngành công nghiệp nớc ta hiện nay.
6 Sự cần thiết đầu t phát triển ngành thép
Từ những phân tích trên ta thấy:
Về tài nguyên trong nớc phục vụ phát triển ngành thép, nớc ta có tiềm năng
đáng kể về quặng sắt, chất trợ dung, nguyên liệu sản xuất Ferro và gạch chịu lửa,
than Atraxit và khí thiên nhiên phục vụ phát triển ngành thép Việt Nam.
Cơ sở tài nguyên trong nớc khá phong phú và đa dạng song vẫn có những
hạn chế nhất định về trữ lợng, chất lợng, điều kiện khai thác và vận chuyển không
thuận lợi.
Về hiện trạng trình độ công nghệ và trang thiết bị, vẫn còn trong tình trạng
kém phát triển so với một số nớc trong khu vực, các dây chuyền sản xuất lạc hậu,
chủ yếu thuộc loại công suất nhỏ, sản xuất manh mún, hiệu quả sản xuất không
cao.
Đối với cơ cấu sản xuất của ngành thép hiện nay vẫn còn thiếu đồng bộ, mất
cân đối giữa sản xuất phôi với sản xuất thép cán, giữa cơ cấu mặt hàng và cơ cấu
chất lợng sản phẩm.
Ngành thép Việt Nam vẫn còn trong tình trạng sản xuất nhỏ, phân tán, nặng
về gia công chế biến từ phôi và thành phẩm nhập khẩu, cha có nhà máy lớn làm trụ
cột đủ sức chi phối toàn ngành, chi phối thị trờng và thu hút các cơ sở vệ tinh.
Ngành thép là ngành có vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, việc
đầu t phát triển của ngành thép có tác động hết sức quan trọng tới các ngành kinh tế
nh ngành xây dựng, ngành giao thông vận tải, ngành công nghiệp chế tạo, công
nghiệp đóng tàu, sản xuất ô tô xe máy, sản xuất đồ gia dụng, công nghiệp quốc
phòng, công nghiệp khai khoáng, công nghiệp điện. Ngoài ra, việc phát triển
ngành thép còn tác động gián tiếp đến sự phát triển của các ngành khác trong nền
kinh tế.
Vì vậy việc đầu t phát triển ngành thép mang tính chất tất yếu khách quan.
Chơng 2
Thực trạng đầu t phát triển của
Tổng công ty thép Việt Nam giai đoạn 2000 - 2002
I Khái quát về Tổng công ty thép Việt Nam
1 Quá trình hình thành và phát triển của Tổng công ty thép Việt
Nam
Tổng công ty thép Việt Nam tên giao dịch quốc tế là: VIETNAM STEEL
CORPORATION; đợc viết tắt là: VSC; Địa chỉ: số 91, phố Láng Hạ, quận Đống
Đa, thành phố Hà Nội.
Tổng công ty thép Việt Nam đợc thành lập theo quyêt định số 344/TTg,
ngày 04 tháng 07 năm 1994 của Thủ tớng Chính phủ trên cơ sở hợp nhất Tổng công
ty thép và Tổng công ty kim khí thuộc Bộ Công Nghiệp nặng nay là Bộ Công
Nghiệp.
Thực hiện chủ trơng của Đảng và Nhà nớc về thủ tục đổi mới, sắp xếp lại các
doanh nghiệp Nhà nớc, ngày 29 tháng 04 năm 1995 Thủ tớng Chính phủ ký quyết
định 255/TTg thành lập lại Tổng công ty thép Việt Nam theo nội dung quyết định
số 91/TTg ngày 07 tháng 03 năm 1994 về thí điểm thành lập tập đoàn kinh doanh.
Ngành sản xuất thép ở Việt Nam đã đợc Đảng và Nhà nớc quan tâm xây
dựng rất sớm. Ngay sau hoà bình, trong điều kiện đất nớc còn chia cắt, khu Liên
hợp Gang thép Thái Nguyên do Trung Quốc giúp đã đợc xây dựng từ năm 1959 với
quy mô công suất khoảng 10 vạn tấn/năm và đã cho ra đời mẻ gang đầu tiên năm
1963. Song do chiến tranh và khó khăn nhiều mặt, 15 năm sau khu Liên hợp Gang
thép Thái Nguyên mới có sản phẩm cán. Đến năm 1978, Trung Quốc ngừng công
việc phục hồi trong tình trạng dở dang không đồng bộ. Năm 1973 ta đã xây dựng
thêm nhà máy luyện cán thép Gia Sàng với công suất 50.000 tấn/năm do CHDC
Đức giúp để bổ sung, hoàn thiện dây chuyền sản xuất luyện và cán, đảm bảo công
suất thiết kế 10 vạn tấn/năm cho cả khu Liên hợp Gang thép Thái Nguyên.
Sau khi đất nớc thống nhất, năm 1976 Công ty Luyện kim đen miền Nam đ-
ợc thành lập trên cơ sở tiếp quản các nhà máy luyện cán thép mini của chế độ cũ ở
thành phố Hồ Chí Minh và Biên Hoà, với công suất khoảng 80.000 tấn thép
cán/năm.
Từ năm 1976 đến năm 1989 ngành thép gặp rất nhiều khó khăn do kinh tế
đất nớc lâm vào khủng hoảng. Mặt khác các nguồn thép nhập khẩu từ Liên Xô và
các nớc XHCN vẫn còn dồi dào, vì vậy ngành thép chỉ duy trì mức sản lợng 40.000
- 85.000 tấn/năm.
Từ năm 1989 đến năm 1995: Thực hiện chủ trơng đổi mới, mở của của
Đảng, ngành thép đã khắc phục đợc khó khăn và bắt đầu tăng trởng mạnh, sản lợng
thép trong nớc đã vợt qua ngỡng cửa 100.000 tấn/năm. Năm 1990 Liên Xô và khối
SEV tan rã, nguồn cung ứng thép cho Việt Nam bị cắt giảm cũng là nhân tố quan
trọng để thúc đấy ngành thép phát triển mạnh để bù đắp vào sự thiếu hụt. Năm
1990 Tổng công ty thép Việt Nam thuộc Bộ Công nghiệp nặng đợc thành lập, thống
nhất quản lý ngành sản xuất thép quốc doanh trong cả nớc. Đây là thời kỳ phát
triển mạnh, nhiều dự án đầu t chiều sâu và liên doanh với nớc ngoài đợc thực hiện.
Các ngành và các thành phần kinh tế khác đua nhau làm thép mini. Sản lợng thép
cán năm 1995 tăng gấp 4 lần năm 1990, đạt 4500.000 tấn/năm và bằng mức Liên
Xô cung cấp cho nớc ta hàng năm trớc 1990.
Thời kỳ 1996 - 2000 ngành thép vẫn giữ đợc tốc độ tăng trởng khá cao, tiếp
tục đợc đầu t mới và đầu t chiều sâu mạnh mẽ. Đã hoàn thành và đa vào hoạt động
13 dự án liên doanh, trong đó có 12 nhà máy liên doanh cán thép và gia công chế
biến sau cán. Sản lợng cả nớc năm 1999 đạt 1,4 triệu tấn/năm gấp 3 lần năm 1995
gấp 14 lần năm 1990. Lực lợng tham gia sản xuất và gia công chế biến thép trong
nớc đã đợc phát triển rất đa dạng, nhiều thành phần kinh tế ngoài Tổng công ty thép
Việt Nam và các cơ sở quốc doanh thuộc các ngành, địa phơng khác, còn có lực l-
ợng đáng kể của các doanh nghiệp và khu vực t nhân.
Từ năm 1990 đến năm 1999 riêng Tổng công ty thép Việt Nam đã đầu t
chiều sâu trên 650 tỷ đồng để cải tạo nâng cấp, đổi mới thiết bị các cơ sở hiện có và
góp vốn pháp định trị giá 33 triệu USD để liên doanh với nớc ngoài 14 dự án trong
đó có 12 nhà máy cán thép và gia công sau cán với tổng số vốn đầu t 233 triệu
USD.
2 Vị trí của Tổng công ty thép Việt Nam trong ngành thép
Tổng công ty thép Việt Nam là một pháp nhân kinh doanh, hoạt động theo
luật doanh nghiệp Nhà nớc, Điều lệ tổ chức và điều hành đợc Chính phủ phê chuẩn
tại Nghị định số 03/CP ngày 25 tháng 01 năm 1996 và giấy phép đăng ký kinh
doanh số 109621 ngày 05 tháng 02 năm 1996 do Bộ Kế Hoạch và Đầu T cấp. Tổng
công ty có vốn do Nhà nớc cấp, có bộ máy quản lý, điều hành và các đơn vị thành
viên, có con dấu theo mẫu quy định của Nhà nớc, tự chịu trách nhiệm về tài sản
hữu hạn trong phạm vi vốn do Nhà nớc giao cho quản lý và sử dụng, đợc mở tài
khoản đồng Việt Nam và ngoại tệ tại các ngân hàng trong và ngoài nớc theo quy
định của pháp luật.
Tổng công ty thép Việt Nam là doanh nghiệp Nhà nớc đợc Thủ tớng Chính
phủ xếp hạng đặc biệt. Theo quyết định thành lập của Thủ tớng Chính phủ Tổng
công ty có nhiệm vụ kinh doanh thép, một số kim loại khác và các loại khoáng sản
có liên quan theo chiến lợc, quy hoạch, kế hoạch và chính sách của Nhà nớc về
phát triển các kim loại này; bao gồm xác định kế hoạch phát triển, đầu t, tạo nguồn
vốn đầu t, xây dựng, sản xuất kinh doanh xuất nhập khẩu, tiêu thụ sản phẩm và
cung ứng vật t, thiết bị liên quan đến ngành thép; tiến hành các hoạt động kinh
doanh khác phù hợp với pháp luật, chính sách của Nhà nớc.
Tổng công ty chịu sự quản lý Nhà nớc của Chính phủ, trực tiếp là các Bộ
Công Nghiệp, Bộ Tài Chính, Bộ Kế Hoạch và Đầu T, Bộ Lao Động Thơng Binh và
Xã Hội, và các Bộ, ngành, cơ quan thuộc Chính phủ do Chính phủ phân cấp quản lý
theo luật doanh nghiệp Nhà nớc. Các cơ quan quản lý Nhà nớc trên địa bàn lãnh thổ
đợc Chính phủ quy định và phân cấp quản lý một số mặt hoạt động của Tổng công
ty theo quy định của pháp luật Việt Nam.
Hiện nay, Tổng công ty thép Việt Nam có bộ máy quản lý và điều hành Tổng
công ty, 14 đơn vị thành viên và 7 doanh nghiệp liên doanh với nớc ngoài, 1 doanh
nghiệp liên doanh trong nớc. Các đơn vị thành viên của Tổng công ty và các doanh
nghiệp liên doanh đợc phân bố trên các tỉnh, thành phố trong nớc nh Hà Nội, Hải
Phòng, Quảng Ninh, Thái Nguyên, Nghệ An, Thừa Thiên Huế, Đà Nẵng, Quảng