Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

TÌM HIỂU VỀ MÔ HÌNH CHUẨN MARC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (137.95 KB, 13 trang )

TÌM HIỂU VỀ MÔ HÌNH CHUẨN MARC
2.1. Định nghĩa về MARC
Bản ghi MARC là viết tắt của Machine-Readable Cataloging record.
Machine-readable: Là những định dạng được lưu trữ, tổ chức sao cho máy vi tính có
thể đọc được.
Cataloging record: Là những thông tin được lưu trong những phích sách truyền
thồng. Trong những phích sách này thường lưu những thông tin như : Mô tả về quyển
sách, Các mục từ chính, Tiêu đề của quyển sách, Các thông tic khác như Call Number.
MARC 21 có nghĩa là biên mục máy tính đọc được.
Năm 1996, Thư viện Quốc Hội Hoa Kỳ và Thư viện Quốc gia Canada đã phối hợp
và biên soạn, phổ biến MARC 21. Từ đó đến nay, MARC đã trở thành khổ mẫu nổi
tiếng và được sử dụng rộng rãi trên thế giới như một chuẩn quốc tế trong lĩnh vực thông
tin thư viện.
Khổ mẫu MARC cho dữ liệu thư mục là một chuẩn được sử dụng rộng rãi cho việc
trình bày và trao đổi dữ liệu thư mục.
Một bản ghi Marc gồm 3 yếu tố:
- Cấu trúc bản ghi.
- Mã định danh nội dung.
- Nội dung dữ liệu của bản ghi.
Cấu trúc bản ghi là một triển khai ứng dụng tiêu chuẩn Quốc tế ISO 2079-Khổ mẫu
trao đổi thông tin (Format for Information Exchange) và tiêu chuẩn tương đương của
Hoa Kỳ ANSI/NISO Z39.2-Trao đổi thông tin thư mục(Bibliographic Information
Interchange).
Định danh nội dung là các mã và quy ước được thiết lập để xác định và đặc trưng
hóa các phần tử dữ liệu bên trong bản ghi, hỗ trợ việc thao tác với dữ liệu đó, được quy
định cụ thể cho từng khổ mẫu trong tất cả các khổ mẫu MARC.
Nội dung của các yếu tố dữ liệu tạo thành bản ghi MARC thông thường được quy
định bên ngoài các khổ mẫu này. Ví dụ về các chuẩn đó là: Mô tả thư mục chuẩn Quốc
tế (ISBD-International Standard Bibliographic Description), quy tắc biên mục Anh-Mỹ
AARC (Anglo American-Cataloguing Rule). Đề mục chủ đề của Thư viện Quốc hội
Hoa Kỳ(LCSH-Library of Congress Subject Headings) hoặc các quy tắc biên mục; các


từ điển chuẩn và hệ thống phân loại được sử dụng bởi cơ quan tạo ra bản ghi. Nội dung
của một số yếu tố dữ liệu mã hóa được quy định cụ thể cho từng khổ mẫu MARC.
2.2. Phạm vi ứng dụng của khổ mẫu thư mục MARC
MARC 21 được sử dụng để làm một công cụ chứa thông tin thư mục về các tài liệu
văn bản in và bản thảo, tệp tin, bản đồ, bản nhạc, xuất bản phẩm nhiều kỳ, tài liệu nghe
nhìn và các tài liệu hỗn hợp. Khổ mẫu thư mục chứa các yếu tố dữ liệu cho các loại
hình tài liệu sau:
- Sách - sử dụng cho các tài liệu văn bản được in, bản thảo và các tài liệu vi hình
có bản chất chuyên khảo.
- Xuất bản nhiều kỳ - sử dụng cho tài liệu văn bản được in, bản thảo và các tài liệu
vi hình mà nó được sử dụng rộng rãi ở dạng từng phần với phương thức xuất bản
lặp lại (như ấn phẩm định kỳ, báo, niên giám…).
- Tệp tin - sử dụng cho phần mềm máy tính, dữ liệu số, các tài liệu đa phương tiện
định hướng cho sử dụng bằng máy tính, hệ thống hay dịch vụ trực tuyến. Các
loại thông tin điện tử khác đã mã hóa theo khía cạnh quan trọng nhất của chúng.
- Bản đồ - sử dụng cho tài liệu bản đồ được in, bản thảo và vi hình bao gồm tập
bản đồ, bản đồ riêng lẻ và bản đồ hình cầu. Tài liệu có thể có bản chất chuyên
khảo hay xuất bản nhiều kỳ.
- Âm nhạc – sử dụng bản nhạc in, bản thảo và vi hình cũng như nhạc ghi âm và
những tài liệu ghi âm không phải nhạc khác. Tài liệu có bản chất chuyên khảo
hay xuất bản nhiều kỳ.
- Tài liệu nhìn-sử dụng cho những loại tài liệu chiếu hình, không chiếu hình, đồ
họa hai chiều, vật phẩm nhân tạo hay các đối tượng gặp trong tự nhiên ba chiều,
các bộ tài liệu. Tài liệu có thể có bản chất chuyên khảo hay xuất bản nhiều kỳ.
- Tài liệu hỗn hợp - sử dụng chủ yếu cho những sưu tập lưu trữ và bản thảo của
hỗn hợp các dạng tài liệu. Tài liệu có thể có bản chất chuyên khảo hay xuất bản
nhiều kỳ.
2.3. Loại bản ghi thư mục
Các loại bản ghi thư mục MARC được phân biệt khác nhau bởi mã đặc thù trong vị
trí đầu biểu. Có những kiểu bản ghi sau:

- Tài liệu ngôn ngữ.
- Bản thảo tài liệu ngôn ngữ.
- Tệp tin.
- Tài liệu bản đồ.
- Bản thảo tại liệu bản đồ.
- Bản nhạc có chú giải.
- Bản thảo bản nhạc.
- Ghi âm âm nhạc.
- Tài liệu chiếu hình.
- Đồ họa không chiếu hai chiều.
- Vật phẩm nhân tạo ba chiều và đối tượng tự nhiên.
- Bộ tài liệu.
- Tài liệu hỗn hợp.
2.4. Cấu trúc bản ghi thư mục
Cấu trúc một bản ghi thư mục theo MARC bao gồm 3 thành phần chủ yếu:
- Đầu biểu.
- Danh mục.
- Các trường dữ liệu.
• Đầu biểu
Trường đầu tiên trong một bản ghi MARC và có độ dài cố định 24 ký tự. Những
yếu tố dữ liệu của trường này cung cấp thông tin cho việc xử lý bản ghi. Những
dữ liệu trong trường này là các con số hoặc giá trị ở dạng mã và được xác định
cụ thể cho từng vị trí ký tự.
• Danh mục
Thành phần của bản ghi MARC được tạo ra từ nhiều mục trường trong đó mỗi
mục trường chứa thông tin một trường dữ liệu cụ thể, bao gồm: nhãn trường, độ
dài trường và vị trí bắt đầu của trường trong bản ghi đó. Mỗi mục trường có độ
dài 12 ký tự. Những mục trường danh mục của các trường kiểm soát có độ dài
biến động được trình bày trước và theo trình tự nhãn tăng dần. Tiếp sau là những
mục trường của các trường có độ dài biến động, được sắp xếp tăng dần theo ký

tự đầu tiên của nhãn trường. Trình tự lưu trữ của các trường dữ liệu có độ dài
biến động trong bản ghi không nhất thiết phải trùng hợp với thứ tự của các mục
trường trong vùng Danh mục. Những nhãn trường lặp lại được phân biệt bằng vị
trí của những trường tương ứng trong bản ghi. Phần Danh mục được kết thúc
bằng một ký tự kết thúc trường (một mã ASCII 1E hex).
• Trường dữ liệu
Dữ liệu trong bản ghi thư mục MARC được tổ chức thành trường có độ dài biến
động, mỗi trường được xác định bằng một nhãn trường ba ký tự. Nhãn này
được lưu trong mục trường tương ứng của trường tại vùng Danh mục. Mỗi
trường kết thúc bằng một ký tự kết thúc trường. Trường có độ dài biến động
cuối cùng trong bản ghi được kết thúc bằng một ký tự kết thúc trường và một ký
tự kết thúc bản ghi (mã ASCII 1D hex).
Trường dữ liệu bao gồm hai loại:
- Trường kiểm soát có độ dài biến động
Các trường kiểm soát được ký hiệu là Nhóm trường 00X (trong đó X có thể là các
số từ 1 đến 9). Những trường này được xác định bằng một nhãn trường trong Danh
mục. Các trường kiểm soát không có chỉ thị và trường con. Những trường kiểm soát
có độ dài biến động có cấu trục khác với trường dữ liệu có độ dài biến động. Chúng
có thể chứa hoặc một yếu tố dữ liệu đơn trị hoặc một loạt những yếu tố dữ liệu có
độ dài cố định được quy định cụ thể cho từng vị trí ký tự tương ứng.
- Trường dữ liệu có độ dài biến động
Trường dữ liệu có độ dài biến động bao gồm những trường còn lại được xác định
trong khổ mẫu. Các trường này cũng được xác định bằng một nhãn trường dài ba ký
tự trong Danh mục. Ngoài ra, khác với trường kiểm soát, các trường dữ liệu có độ
dài biến động có hai vị trí chỉ thị ở đầu của mỗi trường và mã trường con dài hai ký
tự trước mỗi trường dữ liệu con bên trong trường.
Trường dữ liệu có độ dài biến động sắp xếp thành khối trường và có thể nhận
biết theo ký tự đầu tiên của nhãn trường. Ký tự này, ngoại trừ một vài ngoại lệ, xác
định yếu tố của dữ liệu bên trong bản ghi. Kiểu thông tin chi tiết hơn của từng
trường được xác định bằng hai ký tự còn lại của nhãn trường.

Bảng 1: Các khối trường của MARC 21
Khối nhãn
trường
Yếu tố dữ liệu
0XX Thông tin kiểm soát, định danh, chỉ số phân loại …
1XX Tiêu đề chính.
2XX
Nhan đề và thông tin liên quan đến nhan đề (nhan đề, lần
xuất bản, thông tin về in ấn).
3XX Mô tả vật lý…
4XX Thông tin tùng thư.
5XX Phụ chú.
6XX Các trường về truy cập chủ đề.
7XX
Tiêu đề bổ sung, không phải chủ đề hoặc tùng thư; trường
liên kết.
8XX Tiêu đề tùng thư bổ sung, sưu tập…
9XX Dành cho ứng dụng cục bộ.
Bảng 2: Một số nhóm trường đặc thù.
Kiểu nhóm Chức năng Ví dụ nhãn trường
X00 Tên cá nhân. 100,600,700
X10 Tên tập thể. 110,610,710

×