Tải bản đầy đủ (.pdf) (4 trang)

Vai trò của chứng chỉ quy hoạch, một công cụ kiểm soát phát triển đô thị

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (243.32 KB, 4 trang )

Chứng chỉ Quy hoạch

Din Đn

vai trò Ca

một Công C kiểm soát
phát triển đô thò

Lawrie wiLson *

T

rong bài này, thuật ngữ “Chứng chỉ quy hoạch” có nghóa
là một tài liệu được trao cho một nhà đầu tư, cho phép
nhà đầu tư đó có quyền sử dụng và phát triển tại một khu
vực đất cụ thể. Ở nhiều quốc gia, thuật ngữ tương đương được gọi
là “giấy phép quy hoạch”, và thường được áp dụng cho tất cả các
khu đất nằm trong một khu vực được chỉ đònh và đã nằm trong quy
hoạch (có nghóa là, toàn bộ tỉnh/thành phố, hay một khu vực đô thò,
ví dụ một quận/huyện thuộc đô thò - tùy từng trường hợp cụ thể).
“Kiểm soát phát triển” là một quy trình đảm bảo rằng tất cả các
hoạt động sử dụng và phát triển được “kiểm soát” nhằm đạt lợi ích
tối đa một cách bền vững và thích ứng cho quốc gia và người dân
(ví dụ đạt được mục đích “phát triển đô thò bền vững và thích ứng”).
Cụ thể là kiểm soát tất cả các hoạt động phát triển và tái phát triển
nhằm đảm bảo tính tuân thủ với các kế hoạch và quy đònh đã có
nhằm đạt được các mục đích và mục tiêu đã được đề ra cho một
khu vực đô thò cụ thể (ví dụ: một chiến lược phát triển đô thò cùng
các chính sách và hướng dẫn liên quan).
Bối cảnh chính của bài viết này là “đô thò”, tuy nhiên các cơ chế


kiểm soát việc sử dụng và phát triển “đất” được áp dụng như nhau
cho tất cả các loại đất trong cùng một khu vực được chỉ đònh và
đã nằm trong quy hoạch - không chỉ đất đô thò. Điều này rất quan
trọng vì trong trường hợp việc sử dụng và phát triển đất ở một khu
vực ven đô (ví dụ thuộc hành lang tăng trưởng đô thò tiềm năng)
cần phải được kiểm soát như các loại đất được phân loại nằm
trong khu vực không phù hợp để phát triển đô thò tương lai do các
khó khăn tiềm ẩn trong việc cung cấp hạ tầng kỹ thuật tích hợp,
hay các hạn chế về tính thích ứng với biến đổi khí hậu (BĐKH) hay
thiên tai của khu đất đó.
Chứng chỉ quy hoạch là “công cụ” kiểm soát phát triển quan trọng
và hiệu quả nhất hiện hành dành cho các nhà quy hoạch đô thò

44

SË 93 . 2018

và các cán bộ chòu trách nhiệm ra quyết đònh liên quan đến phát
triển đô thò. Chứng chỉ/giấy phép quy hoạch yêu cầu phải có thẩm
đònh kỹ thuật chi tiết (và minh bạch) bộ hồ sơ xin cấp phép/chứng
chỉ quy hoạch cho dự án đầu tư/phát triển do cán bộ quy hoạch
thuộc cơ quan chòu trách nhiệm liên quan lập nên (như phòng
quy hoạch tỉnh/thành phố/thò xã/quận thuộc đô thò - tùy vào từng
trường hợp và phụ thuộc vào quy mô đầu tư của hồ sơ xin cấp
phép), và sau đó là một quyết đònh phê duyệt, hay từ chối cấp
phép, hay “phê duyệt có kèm theo điều kiện” sẽ được đưa ra. Ở
các nền kinh tế phát triển, quyết đònh sẽ do các ủy viên hội đồng
thành phố/đô thò, những đại diện được người dân bầu ra và được
trả lương, tương đương như ở Việt Nam gọi là các ủy viên hội đồng
nhân dân, đưa ra.

Theo nghóa rộng, mục đích của “quy hoạch đô thò” là đảm bảo
tất cả các hồ sơ xin cấp phép sử dụng và phát triển tại khu đất
chỉ đònh phải tuân thủ các yêu cầu “phát triển đô thò bền vững và
thích ứng” tại Việt Nam. Điều này có nghóa là, chứng chỉ/giấy phép
quy hoạch là cơ chế nhằm đảm bảo tất cả các dự án thực hiện
những hoạt động sử dụng và phát triển tại khu đất chỉ đònh phải
hoàn toàn tuân thủ các chính sách của trung ương, vùng, các đònh
hướng tỉnh, và các chiến lược thực hiện đề ra để quá trình phát
triển đô thò ở Việt Nam tạo ra các đô thò đáng sống, bền vững,
thích ứng BĐKH và xanh.
Do đó, cần có cơ chế quy hoạch đô thò và kiểm soát phát triển tích
hợp phản ánh các mục đích và mục tiêu phát triển đô thò như yêu
cầu ở trên, từ đó việc cấp chứng chỉ/giấy phép quy hoạch cho việc
sử dụng và phát triển tại khu đất chỉ đònh tuân thủ theo các mục
đích và mục tiêu phát triển đô thò đó, và đây cũng chính là cơ sở
cho công tác thực thi pháp lý thông qua áp dụng các hình phạt tài
chính đối với các hành vi làm trái với các điều khoản đã được quy
đònh trong chứng chỉ/giấy phép quy hoạch.


≥ ki’n Chuy™n gia & Nhµ qu∂n l˝
triển đô thò nhưng đang thiếu sự “kiểm tra
và cân bằng” cần thiết để đảm bảo tạo lợi
nhuận cho nhà đầu tư nhưng không làm tăng
chi phí xã hội tổng thể, đồng thời đảm bảo
kết quả đầu tư tạo ra một môi trường sống
được cải thiện và các dòch vụ đô thò cơ bản
cho tất mọi người, từ đó là nền tảng cho sự
phát triển đô thò bền vững và thích ứng.


Các khó khăn cần giải quyết là gì?

Tại sao điều này lại quan trọng?

Việt Nam đang đi theo con đường đô thò hoá
tốc độ cao giống như các quốc gia ASEAN
khác đã đi và đặc biệt là các nước Đông Á
có nền kinh tế phát triển như Nhật Bản, Hàn
Quốc, Đài Loan, Trung Quốc. Năm 2025, dự
đoán 50% dân số Việt Nam sẽ là dân cư đô
thò, tăng từ mức hiện tại khoảng 38%. Tỷ lệ
đô thò hoá này sẽ đem lại nhiều thách thức,
nếu không được giải quyết một cách hợp lý
và hiệu quả, sẽ cản trở tốc độ tăng trưởng
kinh tế và không thể đem lại chất lượng sống
mong đợi cho cư dân ở các khu vực đô thò
mới mở rộng.
Các Chương trình của Chính phủ (đặc biệt
trong lónh vực y tế, giáo dục và an sinh xã
hội) đã và đang đạt được những thành công
đáng ghi nhận như phát triển hài hòa, cân
đối và giảm nghèo. Tuy nhiên, cần công
nhận rằng đô thò hóa phải hữu cơ hơn do
các doanh nghiệp và người dân có xu hướng
chuyển đến các khu vực có cơ hội việc làm
và tăng thu nhập. Nhằm đáp ứng điều này,
các thành phố cần có những chiến lược và
kế hoạch phát triển đô thò năng động, dựa
trên bằng chứng và được thiết kế nhằm đạt
được kết quả như mong muốn, bao gồm:

đáng sống, thích ứng, sử dụng nguồn lực
bền vững, cải thiện cơ hội tiếp cận các dòch
vụ đô thò (đặc biệt cho dân nghèo đô thò),
an ninh đầu tư và thúc đẩy các cơ hội đầu
tư trong một môi trường cạnh tranh quốc tế.
Đối với nền kinh tế thò trường truyền thống,
sự kết hợp giữa công tác quản lý đô thò về

đầu tư hạ tầng và “kiểm soát phát triển”
thông qua công tác kiểm soát sử dụng đất
sẽ hình thành và kiểm soát các khoản đầu
tư cho phát triển đô thò để đảm bảo rằng các
khoản đầu tư đó thực sự hiệu quả và hiệu lực
theo đúng các mục tiêu quy hoạch đô thò,
ngoài ra cũng đảm bảo đem lại lợi nhuận cho
các nhà đầu tư mà không làm tăng các chi
phí xã hội tổng thể.
Quá trình kiểm soát phát triển (phát triển
mới, tái phát triển, cơ sở hạ tầng và dòch
vụ) hiện nay chỉ đang được ứng dụng sơ bộ
trong hệ thống quy hoạch đô thò hiện hành ở
Việt Nam. Quy hoạch đô thò vẫn được xem
xét theo nghóa hẹp là chòu trách nhiệm về
môi trường xây dựng thông qua quá trình
thiết kế đô thò cụ thể theo các bước, trong
khi quy hoạch và quản lý đô thò (bao gồm
cả kiểm soát phát triển) đòi hỏi bộ kỹ năng
và nguồn lực về cả kỹ thuật cũng như hành
chính cao hơn nhiều.
Mô hình chuyển đổi nhằm đạt được hiệu quả

trong quy hoạch và quản lý/kiểm soát đô thò
và tạo ra các đô thò cạnh tranh về mặt kinh
tế trong khu vực cần sự nhận thức rằng các
đô thò ở Việt Nam được hình thành từ các đầu
tư của khu vực tư nhân và các doanh nghiệp
nhà nước vận hành gần giống các doanh
nghiệp tư nhân (cổ phần hóa), với sự hỗ trợ
của các quy đònh về hệ thống quản lý và quy
hoạch của nhà nước. Tiếp cận quy hoạch đô
thò hiện hành này tập trung chủ yếu vào thúc
đẩy và tạo điều kiện cho đầu tư vào phát

Thách thức chủ yếu là xây dựng cơ sở chính
sách và chiến lược đô thò cấp trung ương,
trong khi Việt Nam đã đạt đến đỉnh điểm các
thách thức làm thế nào để cân bằng giữa
phát triển kinh tế và công nghiệp hóa với các
biện pháp giải quyết các “vấn đề” nổi cộm về
đô thò hóa. Cần phải giải quyết những hạn
chế trong các cơ chế hiện hành - nguyên
nhân dẫn đến các vấn nạn đô thò mà chúng
ta đang phải đối mặt hiện nay như ách tắc
giao thông, ô nhiễm không khí và nước, lũ
lụt, suy thoái môi trường, di sản văn hoá lòch
sử bò quên lãng, tiện nghi đô thò yếu kém bằng cách tái tập trung và đổi mới các quy
trình quy hoạch đô thò và quản lý phát triển
đô thò hiện hành sang các quy trình tạo ra
các thành phố đáng sống với các dòch vụ
đô thò chất lượng cao phù hợp với Việt Nam
trong thế kỷ 21, một quốc gia có nền kinh tế

phát triển sôi động và phù hợp với bối cảnh
chính trò và kinh tế hiện nay.
Giải quyết những thách thức của đô thò hóa,
đặc biệt về hạ tầng và sử dụng đất đô thò,
phần lớn thuộc trách nhiệm của Bộ Xây
dựng (BXD), mà cụ thể là vai trò của các
chuyên gia quy hoạch đô thò. Trong nội bộ
BXD, “sự chuyển đổi mô hình” cần thiết để
có thể áp dụng và thực hiện một quy trình
quy hoạch và quản lý đô thò (áp dụng tư duy
chiến lược) và các quy trình kiểm soát phát
triển sẽ chỉ đạt được thông qua một cam
kết chung “lồng ghép” (nghóa là áp dụng và
thực hiện) các ý tưởng và khái niệm kết hợp
đầy đủ các hoạt động quy hoạch nhằm giải
quyết tổng thể những thách thức này. Điều
này đòi hỏi sự tập trung đạt được các kết
quả theo đònh hướng quy hoạch đô thò về xã
hội, kinh tế và/hoặc giao thông chứ không
chỉ là các mục tiêu quy hoạch không gian,
vốn là trọng tâm chính của hệ thống quy
hoạch hiện nay.
Cũng như nhiều nước phát triển và đang
phát triển khác, hệ thống quy hoạch hiện
hành tại Việt Nam không được hỗ trợ hiệu
quả bởi các sắp xếp thể chế, điều hành và
SË 93 . 2018

45



thực thi pháp luật cần thiết nhằm đạt được các kết quả quy hoạch
mong muốn; và/hoặc các sắp xếp đó bò thỏa hiệp bởi các can thiệp
chính trò và/hoặc các đánh giá không hiệu quả (thậm chí thành kiến)
trong quá trình phê duyệt.

nghiêm trọng lên các tiện ích đô thò, là một ví dụ đáng chú ý về quy
trình đánh giá phát triển đã không xác đònh chính xác các tác động
tiêu cực có thể xảy ra - do đó gây tác động bất lợi lâu dài đối với các
khu vực xung quanh.

Các thay đổi cần làm là tái củng cố và đổi mới các quy trình quy
hoạch và quản lý đô thò hiện hành bằng các quy trình với các mục
tiêu cụ thể nhằm thực hiện công tác phát triển đô thò bền vững và
thích ứng phù hợp với điều kiện Việt Nam trong thế kỷ 21 với nền
kinh tế đang phát triển, phù hợp với bối cảnh chính trò và kinh tế
hiện hành, thông qua các công cụ sau:
1. Mở rộng phạm vi và mục đích của quy hoạch đô thò và quản lý phát
triển, thông qua việc đưa tư duy chiến lược và đánh giá tổng thể vào
công tác phê duyệt các dự án;

2. Đánh giá tính phù hợp: tính phù hợp trong sử dụng đất liên quan
đến tác động từ sử dụng đất đối với các điều kiện hiện tại và điều kiện
đề xuất (tương lai) của dự án theo phạm vi quốc gia, khu vực và đòa
phương (bao gồm các phương diện xã hội, kinh tế, môi trường và văn
hoá) cùng với sự phù hợp của dự án phát triển đề xuất (ví dụ thiết kế
và xây dựng) về tác động tiềm ẩn lên tiện ích của các khu vực liền
kề và xung quanh; Các tác động tiềm ẩn này có thể làm nổi bật hay
lu mờ các khu vực liền kề và xung quanh, sự phát sinh giao thông
và những vấn đề liên quan đến đỗ xe (bao gồm cả việc phân phối

hàng hoá và dòch vụ), sự phát sinh tiếng ồn, ô nhiễm không khí và
nước, quản lý chất thải rắn và lỏng, hạ tầng thoát nước sinh hoạt và
thoát nước chung, năng lực hạ tầng xã hội và cộng đồng hiện có và
đề xuất theo dự án, không gian xanh mở và các tiện ích cộng đồng
khác.Cũng cần cân nhắc về đóng góp tích cực từ sự thuận lợi đem
lại từ dự án phát triển đó - có góp phần làm tăng “lợi ích cộng đồng
ròng” hay không.

2. Cân nhắc các vấn đề đô thò hóa cơ bản và những ảnh hưởng từ các
vấn đề này đến từng đô thò như thế nào, thông qua phân tích “điểm
mạnh, điểm yếu, cơ hội và thách thức”;
3. Đảm bảo rằng các kế hoạch được lập dựa trên bằng chứng và
phân tích nhu cầu sử dụng theo dữ liệu đầu vào thực tế và dữ liệu
lập trình;
4. Đảm bảo tính phù hợp và soát xét toàn diện các phương diện:
nhất quán trong quy hoạch và quản lý sử dụng đất của thành phố,
an toàn xã hội và môi trường, phân tích kinh tế tài chính, và bền vững
tài chính;
5. Thực thi quy trình cấp phép/chứng chỉ quy hoạch thông qua công
tác thẩm đònh các quyết đònh đầu tư tránh tối đa hóa các cơ hội phát
triển bằng mọi giá, đưa vào quy trình cấp phép/chứng chỉ quy hoạch
các đánh giá công bằng cho các bộ hồ sơ xin cấp phép có cân nhắc
cả lợi ích tiềm năng và tác động tiêu cực, từ đó đưa ra các ưu tiên
nhằm khai thác hiệu quả và hiệu lực nguồn tài chính phân bổ từ
Chính phủ, các nguồn lực xã hội và nguồn lực tự nhiên khác.
Để nhận diện mục tiêu phát triển đô thò bền vững và thích ứng, một
cơ chế đánh giá phát triển bắt buộc phải đánh giá tất cả các bộ hồ sơ
dự án đầu tư và phát triển theo mức độ phù hợp với các mục tiêu quy
hoạch cấp quốc gia, cấp vùng và cấp đòa phương, và về khả năng
đóng góp tích cực của dự án vào “lợi ích cộng đồng ròng”. Nói cách

khác, để cân đối, thì một đề xuất dự án phải đạt được giá trò tích cực
cao hơn so với giá trò tiêu cực; hoặc trong một số trường hợp các giá
trò tiêu cực phải được gỡ bỏ/giảm xuống bằng cách áp đặt một số điều
kiện nhất đònh nhằm mục tiêu cải thiện các tiện ích chung của toàn
dự án nhằm đạt mức chấp nhận được.
Các nội dung cần được đánh giá tập trung vào hai nội dung quy
hoạch đô thò chủ chốt, bao gồm:
1. Phân tích năng lực: là một đánh giá năng lực của đòa phương xung
quanh khu vực dự án trong việc hấp thụ các tác động mà dự án có
thể tạo ra/gây nên - như tắc nghẽn giao thông hay thiếu bãi đỗ xe,
thiếu hạ tầng xã hội và kỹ thuật, thoát nước yếu kém hay khả năng
ngập lụt tiềm ẩn. Những quyết đònh gần đây của UBND TP.HCM
nhằm hạn chế tăng dân cư ở nhiều quận nội thành - nơi các dự án
tái phát triển quy mô lớn gần đây đã gây ra những tác động tiêu cực

46

SË 93 . 2018

Công tác thẩm đònh hồ sơ do Hội đồng nhân dân tỉnh/thành phố
thực hiện đối với các dự án quy mô lớn, hoặc Hội đồng nhân dân cấp
huyện đối với các dự án quy mô nhỏ, sau đó hồ sơ sẽ nhận được một
trong ba phản hồi: a) được phê duyệt; b) bò từ chối; và c) được phê
duyệt với điều kiện cụ thể. Phù hợp với mục tiêu chung về tính minh
bạch trong việc đưa ra các quyết đònh đó - Báo cáo thẩm đònh hồ sơ
và cơ sở đưa ra quyết đònh cuối cùng của Hội đồng Nhân dân nên là
những tài liệu được công khai trước công chúng.

Giải pháp là gì?


“Vai trò của Chứng chỉ quy hoạch như là một công cụ kiểm soát phát
triển” ở đây là đảm bảo sự tuân thủ các kế hoạch phát triển đô thò
nhằm đạt được mục tiêu phát triển đô thò bền vững và thích ứng tại
một đô thò trên một đòa bàn cụ thể - và đây là nội dung chính của cơ
chế quy hoạch đô thò và kiểm soát phát triển. Các chức năng chính
của cơ chế bao gồm a) soạn thảo các chiến lược PTĐT để hướng
dẫn công tác xây dựng các chương trình PTĐT; b) xác đònh, đánh giá
và phê duyệt các dự án được phép lập quy hoạch chi tiết và dự án
đầu tư - áp dụng cho cả đầu tư tư nhân và nhà nước (hoặc các dự án
kết hợp ngân sách cả hai khối này).
Chứng chỉ/giấy phép quy hoạch là hợp phần cuối cùng của cơ chế
quy hoạch đô thò và kiểm soát phát triển tích hợp, cơ chế được bắt
đầu từ công tác lập một Chiến lược PTĐT thành phố. Lý tưởng nhất
là quy trình hai bước, như sau:
1. Công tác lập một Chiến lược PTĐT thành phố - một phần của
Quy hoạch chung Phát triển Đô thò (là phần mở rộng của Quy hoạch
chung Xây dựng hiện hành) phải cụ thể hóa các mục tiêu và mục
đích cần có nhằm đảm bảo đạt được các kết quả đề ra cho một khu
vực đô thò đã được xác đònh, khu vực được đònh hướng để kiểm soát
công tác PTĐT đảm bảo đạt được các kết quả đã được đề ra đó.
2. Thẩm đònh các khoản đầu tư cho PTĐT do cả khu vực nhà nước và
tư nhân đề xuất theo những tiêu chí phản ánh các mục tiêu, mục đích


≥ ki’n Chuy™n gia & Nhµ qu∂n l˝

và nguyện vọng cho khu vực đô thò đã được xác đònh và theo các quy
đònh liên quan trong các chương trình, kế hoạch và dự án do các cơ
quan nhà nước có thẩm quyền ban hành.
Như đã nêu ở phần đầu của bài này, “mục đích” của “quy hoạch đô

thò” là đảm bảo các dự án đề xuất sử dụng và phát triển đất phải tuân
thủ các yêu cầu PTĐT bền vững và thích ứng tại Việt Nam”. Đến đây,
các hợp phần của cơ chế quy hoạch đô thò và kiểm soát phát triển
tích hợp (áp dụng cho tất cả các cấp quản lý đô thò TƯ và đòa phương)
phải được xây dựng và vận hành theo các bước cụ thể để đạt được
mục đích vừa nêu. Cơ chế này cần bao gồm các hợp phần sau:
1. Công tác lập một Chiến lược PTĐT thành phố - một phần của Quy
hoạch chung phát triển đô thò
a. Xác đònh cơ sở chính sách: Việc xác đònh và đánh giá cơ sở chính
sách quốc gia và khu vực, các sáng kiến của thành phố và đòa
phương (sẽ tác động hoặc ảnh hưởng đến phát triển đô thò) là điểm
khởi đầu quan trọng trong quy trình quy hoạch các đô thò cụ thể tại
đòa phương. Việc này bao gồm một phân tích chi tiết những chiến
lược và chính sách cần đạt được, và phương thức đạt được các chiến
lược và chính sách đó.
b. Đánh giá thực trạng thành phố: cung cấp cơ sở dữ liệu cho công
tác xây dựng Quy hoạch chung phát triển đô thò. Đây là hình thức
phân tích SWOT để xác đònh và giải quyết các “điểm mạnh, điểm
yếu, cơ hội và thách thức” hiện tại bao gồm thích ứng BĐKH và khả
năng ứng phó thảm họa tự nhiên - và đánh giá chúng theo mục tiêu
đô thò hoá bền vững liên quan đến bối cảnh chính trò và kinh tế hiện
hành, bao gồm các vấn đề xã hội như tiếp cận nhà ở an toàn và giá
cả phải chăng. Một điểm chính của phân tích này là xác đònh các
nguồn lực chủ yếu có thể sử dụng được (như các điểm thu hút khách
du lòch tiềm năng) hoặc cần bảo vệ (như các di tích văn hoá - lòch sử
và các nguồn lực tự nhiên). Đánh giá này cũng bao gồm: tổng quan
hạ tầng đô thò, đánh giá thực trạng các dòch vụ và hạ tầng hiện có
theo chỉ số năng lực vận hành thực tế (chất lượng của tài sản và dòch
vụ cung cấp), đánh giá về tính dễ tổn thương và thích ứng với BĐKH,
một phân tích thực trạng về tăng trưởng xanh, và một đánh giá về

các kế hoạch hành động và các dự án đang được triển khai cũng như
đang được đề xuất.
c. Tuyên bố tầm nhìn: xác đònh chức năng và hình thức mong muốn
của thành phố/thò xã đó vào thời điểm 30-50 năm trong tương lai, phù
hợp với nguồn lực, dựa trên bằng chứng và nguyện vọng thực tế, đáp
ứng các hướng dẫn theo quy đònh của các đònh hướng, chính sách,
chiến lược, kế hoạch cấp quốc gia, vùng và tỉnh. Hai tiểu hợp phần
của tuyên bố tầm nhìn là: a) Tiến độ thực hiện mục tiêu: thiết lập các
mục tiêu phát triển thực tế trong ngắn hạn cho thành phố/thò xã; và:
b) Lòch trình các hoạt động đô thò: xuất phát từ phân tích SWOT được
thực hiện là một phần của “Chức năng quản lý đô thò” sẽ xác đònh các
hoạt động nhằm đem lại các kết quả cải thiện cho thành phố/thò xã để
đạt được Tầm nhìn nêu trên. Lòch trình này giúp hướng dẫn công tác
lập Quy hoạch chung phát triển đô thò và hỗ trợ công tác soạn thảo
Chương trình phát triển đô thò tại đòa phương.
d. Quy hoạch chung phát triển đô thò: (được đề xuất ở đây nhằm mục
đích tăng cường Quy hoạch chung xây dựng hiện hành) bao gồm bố

trí và phân khu chức năng đô thò và các mô hình phát triển (bao gồm
cơ sở hạ tầng) dựa trên các phân tích tính phù hợp về sử dụng đất,
phản ánh khả năng ứng phó với BĐKH và thảm họa thiên tai theo
dự báo hay báo cáo đánh giá tính nhạy cảm và khả năng thích ứng
BĐKH, phân tích thực trạng tăng trưởng xanh. Hợp phần này kết hợp
bốn tiểu hợp phần chính: 1) Phân tích tính phù hợp về sử dụng đất;
2) Cơ cấu đô thò (bao gồm cơ sở hạ tầng); 3) Phân khu chức năng;
4) Tổ chức quy hoạch không gian. Quy hoạch này được thể hiện một
cách dễ hiểu nhất cho các nhà quản lý để lựa chọn, đánh giá các giải
pháp đề xuất quản lý phát triển đô thò cụ thể thông qua cung cấp một
bối cảnh quy hoạch rõ ràng liên quan đến dự án đề xuất.
2. Các quy trình kiểm soát phát triển:

a. Kế hoạch sử dụng đất đô thò thích ứng: cung cấp những cơ sở cho
công tác quản lý chi tiết các phát triển mới và tái phát triển, như miêu
tả trong phần Quy hoạch chung PTĐT. Kế hoạch này gồm hai tiểu
hợp phần sau: a) Lập các kế hoạch hành động thiết kế đô thò và các
dự án nhằm giải quyết các vấn đề được xác đònh trong Báo cáo đánh
giá thực trạng thành phố thông qua phân tích SWOT và sau này sẽ
lồng ghép trong Quy hoạch chung PTĐT; và: b) Xác đònh mô hình sử
dụng đất tối ưu nhằm sử dụng bền vững các nguồn tài nguyên thiên
nhiên và nhân tạo và khả năng thích ứng với BĐKH, làm cơ sở cho
việc lập Quy hoạch phân khu chức năng.
b. Quy hoạch phân khu chức năng kèm theo Hướng dẫn Kiểm soát
phát triển (HDKSPT) là những công cụ cơ sở trong công tác kiểm
soát phát triển ở cấp tỉnh/thành phố. HDKSPT xác đònh vò trí, loại và
mức độ phát triển các chức năng đô thò được cho phép tại mỗi khu
vực chức năng theo quy đònh phù hợp với yêu cầu của Quy hoạch
chung PTĐT đã được phê duyệt.
c. Chức năng Kiểm soát phát triển: tất cả các hồ sơ xin cấp chứng
chỉ/giấy phép quy hoạch nhằm thực hiện loại hình phát triển đô thò
nào đó sẽ được thẩm đònh tính tuân thủ với các quy hoạch phân khu
chức năng kèm theo hướng dẫn kiểm soát phát triển, bên cạnh việc
tuân thủ các mục đích và mục tiêu, chiến lược và nguyện vọng của
các chiến lược PTĐT tỉnh (hay thành phố) đã được phê duyệt.

Kết luận

Quy trình cấp chứng chỉ/giấy phép quy hoạch có lợi ích hạn chế so
với mong muốn của các thành phố là muốn đạt được các kết quả
phát triển đô thò với các tiêu chí “đáng sống, bền vững, thích ứng và
xa” - trừ khi và cho đến khi quy trình này được coi là hợp phần bắt
buộc của cơ chế quy hoạch đô thò và kiểm soát phát triển tích hợp.

Dự thảo Luật Quản lý phát triển đô thò hiện đang được Bộ Xây dựng
soạn thảo đem lại cơ hội để đảm bảo rằng một cơ chế như vậy sẽ
được thể chế hóa và áp dụng cho tất cả các cấp quản lý đô thò. Nếu
không thì sẽ là sự tiếp tục áp dụng các cơ chế hiện tại - mà kết quả
là tạo ra các thành phố mà chúng ta có ngày hôm nay với các hệ lụy
như tắc nghẽn giao thông, ô nhiễm không khí và nước, lũ lụt, suy
thoái môi trường, di sản lòch sử và văn hóa bò quên lãng, tiện nghi đô
thò thấp kém.
Chuyên gia chính - Các dự án quốc tế
Công ty HANSEN PARTNERSHIP
()

SË 93 . 2018

47



×