Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Quy hoạch đô thị có sự tham gia của cộng đồng – Các vấn đề lý thuyết và thực tiễn áp dụng tại Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (724.44 KB, 8 trang )

DIỄN ĐÀN

Quy hoạch đô thò
có sự tham gia của cộng đồng

CáC vấn đề lý thuyết và thựC tiễn áp dụng tại việt nam
TS. KTS. T QuNh hoA
Giảng viên Khoa Kiến trúc Quy hoạch, trường Đại học Xây dựng

Giới thiệu chung

Quy hoạch đô thò (QHĐT) có một vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia, đặc biệt
là tại Việt Nam, nơi đang diễn ra quá trình chuyển từ nền kinh tế nông nghiệp sang nền kinh tế công nghiệp với
đặc trưng là quá trình đô thò hóa. QHĐT là cơ sở quan trọng hàng đầu cho việc thực hiện quy hoạch phát triển
kinh tế - xã hội của mỗi đòa phương và cho cả quốc gia.Việc nghiên cứu phương pháp QH phù hợp để giải quyết
các vấn đề đô thò một cách hiệu quả và đảm bảo lợi ích của các bên liên quan luôn là một câu hỏi được đặt ra
cho các nhà quy hoạch.
Từ trước đến nay có nhiều phương pháp QHĐT khác nhau được áp dụng trong những cấp độ và hoàn cảnh khác
nhau để giải quyết các vấn đề đô thò. Nhìn chung, phương pháp QHĐT tối ưu phải là phương pháp có tính mềm
dẻo, linh hoạt, đáp ứng được các điều kiện thực tế và bối cảnh luôn biến động của thể giới với các thay đổi liên
tục trên nhiều cấp độ, đồng thời chú trọng quan tâm đến đối tượng hưởng lợi là cộng đồng dân cư [9].
Trong xu thế phát triển bền vững và đảm bảo công bằng - dân chủ trong xã hội, vai trò của cộng đồng và sự
tham gia cộng đồng (TGCĐ) ngày càng được đề cao trong công tác QHĐT: “... bản quy hoạch tốt nhất phải thể
hiện được sự mong muốn của người dân” (Aprodicio Laquian,1995) - đảm bảo cho những người chòu ảnh hưởng
của đồ án QH được tham gia vào việc quyết đònh, dung hòa quyền lợi giữa các bên liên quan và làm tăng mức
độ cam kết của cộng đồng với việc thực hiện QH và nhờ đó tăng tính bền vững của đồ án QHĐT.
Tại Việt Nam, việc khẳng đònh vai trò của người dân trong công tác quy hoạch đô thò đã được đònh hướng chỉ
đạo ngay từ chỉ thò 19CT ngày 22/1/1991 của chủ tòch Hội đồng bộ trưởng. Tại Hội nghò Đô thò lần thứ I năm
1990 đã nêu rõ: “Đô thò là của dân, do dân và vì dân”. Trong Pháp lệnh số 34/2007/PL- UBTVQH11 về việc
“Thực hiện dân chủ ở xã, phường, thò trấn” do Quốc Hội Việt Nam ban hành ngày 20/4/2007 [2] cũng quy đònh
người dân có quyền được biết, được tham gia và giám sát việc hoạch đònh các kế hoạch, chiến lược liên quan


đến sự phát triển chung của cộng đồng, vì lợi ích chung của xã hội. Bên cạnh đó, các văn bản luật của nhà

56

SË 93 . 2018


≥ ki’n Chuy™n gia & Nhµ qu∂n l˝

nước cũng đã quy đònh một số nội dung liên quan đến sự tham gia
của cộng đồng như công bố quyhoạch xây dựng cần lấy ý kiến của
các tổ chức và cá nhân liên quan, trách nhiệm và hình thức lấy ý
kiến cho việc lập QHĐT (Luật Xây dựng 2014, Luật Quy hoạch đô
thò 2009).
Trong các loại đồ án QHĐT ở nước ta (quy hoạch chung, quy hoạch
phân khu, quy hoạch chi tiết) trong đó quy hoạch chi tiết (QHCT) là
cơ sở cốt lõi cho việc lập dự án đầu tư xây dựng mới, cải tạo chỉnh
trang đô thò. Trên thực tế, nhiều vướng mắc trong cải tạo, di dời, đền
bù và triển khai các dự án đầu tư xây dựng có liên hệ với những bất
cập của giai đoạn lập QHCT do liên quan trực tiếp đến việc chuyển
đổi chức năng sử dụng đất, quyền lợi và lợi ích của cộng đồng [7].
Bên cạnh đó, việc trao đổi, cung cấp đầy đủ thông tin quy hoạch
đảm bảo tính công khai, minh bạch trong quá trình QH cũng là vấn
đề được quan tâm.
Bài báo này sẽ giới thiệu về phương pháp tiếp cận có sự TGCĐ trong
QHCT trên thế giới và tại Việt Nam, mối tương tác giữa các bên liên
quan trong quá trình triển khai QHCT, từ đó đề xuất các nguyên tắc
cho sự TGCĐ, bổ sung làm rõ các khái niệm về CĐ, đặc trưng của
CĐ đối với từng loại đồ án QHCT để đảm bảo cho sự TGCĐ tại VN.


Sự tham gia của cộng đồng trong QH và phát triển
đô thò trên thế giới và tại Việt Nam
Các quan điểm và khái niệm liên quan đến cộng đồng và sự TGCĐ
trên thế giới
Cộng đồng: Khái niệm về CĐ trên thế giới thường liên quan đến hai
chiều cạnh xã hội (lợi ích, mối quan tâm) và không gian (yếu tố đòa
lý, khu vực). Theo Waters, “Cộng đồng là một nhóm người chia sẻ
những mối quan tâm chung và sống trong cùng một khu vực đòa lý”
[13], hay “Cộng đồng là một thuật ngữ bao gồm cả hai chiều cạnh
xã hội và không gian, nói chung những người trong một cộng đồng
thường cùng nhau đạt được một mục tiêu chung, kể cả khi họ có
nhiều điểm khác biệt” [10].

Sự tham gia của cộng đồng trong QHĐT: Theo Ngân hàng Thế giới
(WB): “Sự tham gia cộng đồng là quá trình, qua đó các bên liên quan
ảnh hưởng và chia sẻ sự kiểm soát từ bước khởi thảo và quyết đònh tới
nguồn lực hiệu quả” hay “Sự tham gia của cộng đồng cung cấp một
quá trình hợp tác giữa những người dân trong cùng một cộng đồng
để đạt được những mục tiêu chung, tham gia trong việc ra quyết đònh
và đạt được những kết quả lần lượt đáp ứng những nỗ lực tập thể”.
Vấn đề TGCĐ thực chất là quá trình đóng góp chung của CĐ có liên
quan đến việc hình thành và thực hiện một quyết đònh. Tuy nhiên
mức độ tham gia của CĐ vào quá trình hình thành và thực hiện một
quyết đònh này có thể rất khác nhau với nhiều mức độ và phạm vi
tham gia.
Sự TGCĐ trong QHĐT tại các nước phát triển
Tại các quốc gia phát triển như Thụy Điển, Anh, Pháp, Nhật Bản…
hệ thống thể chế chính trò chi phối cơ chế thực hiện QHĐT cũng như
cơ chế đảm bảo TGCĐ. Ở các nước này có sự vận hành kết hợp
giữa cơ quan hành chính với cơ quan lập pháp (cơ quan hội đồng

đòa phương) và tư pháp (các tòa án) để giám sát thực hiện huy động

Hình 1: Quy trình QHCT có sự TGCĐ tại Pháp

sự TGCĐ. Việc bảo vệ quyền tài sản của CĐ và của các đòa phương
được quy đònh trong Hiếp pháp và được đảm bảo bởi sự tham gia của
toàn án độc lập với chính quyền. Thông tin QH đảm bảo công khai,
minh bạch cho các đối tượng.
Sự TGCĐ được quan tâm và đưa vào ngay từ các khâu đầu tiên trong
quá trình QH (xác đònh mục đích QH, xác đònh ý tưởng QH...). Chính
quyền đòa phương chủ động, sáng tạo trong việc thúc đẩy sự TGCĐ
vào quá trình QHĐT. Thời gian tham vấn cộng đồng (TVCĐ) cho đồ
án QHCT khá dài, từ 01- 03 tháng. Bộ phận giám sát TVCĐ có thể là
cơ quan quản lý nhà nước về QH (Cục Tái thiết Đô thò - Singapore)
[1], có thể là thanh tra độc lập của tòa án (Pháp) hoặc tổ chức cộng
đồng (Nhật). Người dân có mức sống, trình độ văn hóa và nhận thức
cao nên họ luôn tôn trọng các giá trò, lợi ích chung của CĐ. Công tác
TVCĐ hoặc huy động sự TGCĐ đem lại hiệu quả và tác động tích
cực đến quá trình QHĐT. (Hình 1)
Sự TGCĐ trong QHĐT tại các nước châu Á có đặc điểm tương
đồng với Việt Nam
Trung Quốc: là quốc gia với diện tích lãnh thổ lớn (trên 9.6 triệu
km2) và đông dân nhất trên thế giới với chính quyền nhà nước
có sự phân quyền cho cấp tỉnh, thành phố. Trung Quốc là quốc
gia gần với Việt Nam về cả bối cảnh phát triển như nền kinh tế
chuyển đổi, tốc độ đô thò hóa nhanh và phần nào đó là trình độ
phát triển của xã hội, thể chế chính trò.
Trong hệ thống quy hoạch Trung Quốc, cơ quan chính quyền cấp
huyện trở lên được giao quản lý lập QH và thực thi QHĐT và nông
thôn. Cơ quan giám sát là Ủy ban thường vụ đại hội đại biểu nhân

SË 93 . 2018

57


dân cùng cấp (tương đương HĐND ở Việt
Nam) và ĐHĐB nhân dân nông thôn, thò trấn.
Trên thực tế, việc tổ chức và giám sát TVCĐ
dựa vào cơ quan chính quyền và CĐ tham
gia được tách bạch rõ ràng thành người dân
và các chuyên gia. Chủ yếu là chính quyền
tổ chức và giám sát việc lấy ý kiến và có báo
cáo với cơ quan quyền lực giám sát đại diện,
nhưng lại là ủy ban thường vụ của đại hội đại
biểu nhân dân [11] . Các mức độ TGCĐ trong
đồ án QHĐT tại Trung Quốc được thể hiện
tại Hình 2. Tuy nhiên, về cơ bản, hệ thống
này vẫn mang nặng tính chuyên gia, áp đặt
từ trên xuống. Sự TGCĐ là chưa đủ và chưa
thực chất trong chế độ hành chính toàn trò.
Chủ yếu các thương lượng diễn ra trong nội
bộ của các cơ quan nhà nước.
Thái Lan: là một trong những nước vào loại
lớn của khu vực Đông Nam Á với diện tích 514
ngàn km2 và dân số hiện nay vào khoảng 65
triệu người (tỉ lệ đô thò hóa là khoảng 35%). Là
một quốc gia quân chủ lập hiến, Thái Lan đã
phát triển ấn tượng trong thập kỷ gần đây, đặc
biệt trong sự so sánh với các nước láng giềng
trong khu vực tiểu vùng sông Mekong mở

rộng. Tại Thái Lan, QH phát triển đòa phương
(bao gồm QH phát triển kinh tế - xã hội, QH
quản lý nguồn tài nguyên và môi trường) do
đòa phương thực hiện riêng rẽ với QH không
gian do nhà nước chỉ đạo và cơ quan cấp tỉnh/
thành phố thực hiện [12]. Tại Thái Lan, Hiến
pháp mới ra đời năm 1997 đã quy đònh việc
lấy ý kiến công chúng trong quy trình ra quyết
đònh tại đòa phương, đặc biệt trong quy trình
quản lý tài nguyên và môi trường (Mục 79,
Hiến pháp Thái Lan 1997). Tuy nhiên, chưa
có các quy đònh và hướng dẫn cụ thể cho
TGCĐ nên hiệu quả còn thấp.
Sự TGCĐ trong các đồ án QH cải tạo và
nâng cấp đô thò: Bên cạnh hệ thống các đồ
án chính thống “từ trên xuống” do nhà nước
chỉ đạo thực hiện còn có rất nhiều các đồ án,
dự án “từ dưới lên” xuất phát từ các nhu cầu
thực tế, cấp bách của người dân, đặc biệt là
các nhu cầu về cải thiện chất lượng nhà ở,
điều kiện HTKT và môi trường sống tại các
khu dân cư nghèo. Điểm nổi bật của việc triển
khai thực hiện các dự án này là các dự án do
chính CĐ đề xuất, nhưng được sự ủng hộ, hỗ
trợ về kỹ thuật, tài chính từ phía chính quyền
thông qua các tổ chức như: Viện tổ chức phát
triển cộng đồng trực thuộc Cục phát triển nhà
ở của Thái Lan (CODI) với Chương trình phát
triển nhà ở Baan Mankong do CODI thực


58

SË 93 . 2018

hiện, các trường Đại học trong khu vực (như
ĐH Sripathum, ĐH Chulalomkong…) và có sự
tham gia, hỗ trợ của các tổ chức NGO, mạng
lưới các kiến trúc sư CĐ, các nhà hoạt động
vì CĐ (CAN).
n Những việc mà cộng đồng đã đạt được: Xây
dựng “ Mạng lưới phát triển xã hội và bảo vệ
môi trường của các con kênh”, cải thiện môi
trường, nâng cấp chất lượng sống của cộng
đồng, cải thiện cơ sở hạ tầng và quyền sử
dụng đất (Hình 3); Phát triển Quỹ tiết kiệm
cộng đồng; Thiết lập “cơ chế của khu vực”: đó
là sự tham gia của các bên liên quan;

Sự TGCĐ trong QHĐT tại Việt Nam
- Khái niệm cộng đồng : Theo từ điển Bách
khoa Việt Nam: “…cộng đồng xã hội (CĐXH)
là một tập đoàn người rộng lớn có những dấu
hiệu, những đặc điểm xã hội chung về thành
phần giai cấp, nghề nghiệp, đòa điểm sinh tụ
và cư trú. Cũng có những CĐXH bao gồm cả
một dòng giống, một sắc tộc, một dân tộc”.
Khái niệm cộng đồng trong lónh vực QHĐT
tại Việt Nam đã được đề cập đến nhưng
chưa được làm rõ. Luật QHĐT số 30/2009/
QH12 chỉ đề cập đến “cộng đồng” trong


Hình 2: Các mức độ TGCĐ trong đồ án QHĐT tại Trung Quốc

Hình 3: Sự TGCĐ trong QHCT cải tạo nâng cấp tại Băng Cốc,Thái Lan. Sơ đồ kết nối mạnh
lưới CĐ và các tổ chức CĐ


≥ ki’n Chuy™n gia & Nhµ qu∂n l˝

khoản 1, điều 6: Yêu cầu đối với quy hoạch đô thò:“ … bảo đảm công
khai, minh bạch và kết hợp hài hoà giữa lợi ích quốc gia, cộng đồng
và cá nhân” [5].
Hiện nay mới chỉ có khái niệm cộng đồng dân cư trong Luật Đất đai
sửa đổi, ở khoản 3, Điều 5 - Người sử dụng đất: “Cộng đồng dân cư
gồm cộng đồng người Việt Nam sinh sống trên cùng đòa bàn thôn,
làng, ấp, bản, buôn, phum, sóc và các điểm dân cư tương tự có cùng
phong tục, tập quán hoặc có chung dòng họ” [4].
Theo đònh nghóa này thì phạm trù cộng đồng được giới hạn trong
phạm vi cộng đồng dân cư và có chung yếu tố đòa lý. Tuy nhiên,
khái niệm “cộng đồng” trong lónh vực QHĐT cần phải được hiểu một
cách rộng hơn, không đồng nhất với khái niệm ”cộng đồng dân cư”
vì với từng loại đồ án với các mục đích khác nhau, sự ảnh hưởng, lợi
ích đến các nhóm đối tượng khác nhau thì đònh nghóa, quan điểm về
cộng đồng sẽ khác nhau.
Đánh giá sự TGCĐ trong lập, thẩm đònh, phê duyệt đồ án QHĐT kể
từ khi ban hành Luật QHĐT số 30/2009/QH-13
Những điểm đã đạt được:
Sự TGCĐ đã bước đầu được luật hóa trong các văn bản luật (Luật
QHĐT 2009, Luật Xây dựng sửa đổi 2014, Luật Đất đai 2013).
Mức độ TGCĐ đã được quy đònh trong luật QHĐT số 30/2009: 1)

Cộng đồng được góp ý kiến cho nhiệm vụ và đồ án QHCT (mục 2,
điều 20, 21 Luật QHĐT 2009); 2) Cộng đồng được cung cấp thông tin
về đồ án QHCT đã được phê duyệt (điều 53,54,55 Luật QHĐT 2009).
Trách nhiệm lấy ý kiến, hình thức thời gian lấy ý kiến đã được quy
đònh tại điều 20, khoản 1,2,3 của Luật QHĐT 2009: Trách nhiệm lấy
ý kiến thuộc về Cơ quan tổ chức lập QH và chủ đầu tư dự án đầu tư
xây dựng. UBND có liên quan, tổ chức tư vấn lập quy hoạch có trách
nhiệm phối hợp với cơ quan tổ chức lập QHĐT, chủ đầu tư dự án đầu
tư xây dựng việc lấy ý kiến.
Hình thức lấy ý kiến (công cụ tham vấn) là gửi hồ sơ, tài liệu hoặc tổ
chức hội nghò, hội thảo. Đối với nhiệm vụ và đồ án QHCT, việc lấy ý
kiến cộng đồng dân cư được thực hiện bằng phiếu góp ý thông qua
hình thức trưng bày công khai hoặc giới thiệu phương án quy hoạch
trên phương tiện thông tin đại chúng. Thời gian lấy ý kiến ít nhất 15
ngày với các cơ quan và 30 ngày đối với tổ chức, cá nhân, cộng đồng
dân cư.
Việc đưa thông tin QH đã được phê duyệt đến cộng đồng cũng
đã được quy đònh: công khai đồ án QH đã được phê duyệt trong
khoảng thời gian 30 ngày và cung cấp thông tin QH đã được phê
duyệt theo yêu cầu cho các tổ chức, cá nhân (không đề cập đến
cộng đồng dân cư) (Điều 53,55, Luật QHĐT2009). Nội dung thông
tin QH công khai và hình thức công khai cũng đã được nêu tại điều
53, 54 Luật QHĐT 2009.
Những điểm chưa đạt được:
Tính hình thức của sự TGCĐ: Hiện nay sự TGCĐ trong QHĐT chỉ
được coi là một thủ tục hành chính bắt buộc phải có để đồ án có
thể được phê duyệt chứ không phải là một phương pháp QH nâng

cao hiệu quả việc triển khai lập QHCT. Cộng đồng chỉ được hỏi khi
phương án đã hoàn chỉnh, khó có khả năng thay đổi hay CĐ chỉ biết

đến QHCT khi QHCT đã được phê duyệt. Theo kết quả phỏng vấn
33 cán bộ quản lý quy hoạch tại 06 đô thò lớn của Việt Nam [8] thì
30/33 cán bộ quản lý (91%) được phỏng vấn nhận đònh rằng việc
tham vấn ý kiến CĐ hiện nay chỉ mang tính hình thức. Bên tư vấn
chỉ lấy ý kiến của đại diện cộng đồng (đại diện của các khối, tổ dân
phố) để đảm bảo theo yêu cầu quy hoạch. Việc thực hiện việc tham
vấn CĐ một cách hời hợt, nội dung lấy ý kiến rất sơ sài, không đem
lại hiệu quả thực chất. 100% số người được phỏng vấn cho rằng thời
gian và tiến độ yêu cầu cho đồ án QHCT còn nhiều bất cập so với nội
dung của đồ án cần phải tham vấn CĐ nên khó cho việc TVCĐ nhiều
lần, đem lại hiệu quả thực chất.
Thiếu các văn bản pháp lý hướng dẫn việc thực hiện TGCĐ: chưa có
các văn bản luật quy đònh rõ trách nhiệm các bên liên quan, cơ chế
phối hợp giữa các bên để thực hiện việc huy động sự TGCĐ ngay
từ những khâu xác đònh mục đích, mục tiêu của đồ án, điều tra khảo
sát hiện trạng và nhu cầu, nguồn lực thực tế từ cộng đồng. Việc lấy
ý kiến CĐ chỉ được quy đònh khi đồ án QH đã gần như hoàn chỉnh, ít
có cơ hội để những đóng góp ý kiến của CĐ tác động nhiều vào giải
pháp QH. Việc tổng hợp, giải trình, tiếp thu ý kiến chỉ được quy đònh
chung chung tại điều 21, Luật QHĐT 2009 chứ không nêu rõ vai trò
cụ thể bên liên quan nào phải chòu trách nhiệm thực hiện tiếp thu,
giải trình, phản hồi trước CĐ.
Việc công khai thông tin QH đến cộng đồng mới chỉ được thực hiện
khi đồ án được phê duyệt, trong khi đó cộng đồng cần được cung
cấp đầy đủ thông tin về đồ án ngay từ giai đoạn đầu của quy trình lập
QH để có thể trao đổi, đóng góp ý kiến, đàm phán và thảo luận để có
được sự đồng thuận, cam kết từ cộng đồng.
Chưa có quy đònh cụ thể về tài chính cho việc huy động CĐ tham gia
trong các giai đoạn của quy trình lập QHCT.
Trình độ và nhận thức của các bên liên quan về vai trò CĐ và sự

TGCĐ còn hạn chế:
n Nhà tư vấn: Coi việc huy động sự TGCĐ ở mức độ thông báo và
lấy ý kiến CĐ là một bước bắt buộc để hoàn thiện thủ tục bảo vệ đồ
án để trình phê duyệt. Đối với các đồ án thực tế, tư vấn tiến hành
lấy ý kiến CĐ một cách hình thức, chiếu lệ, không đem lại hiệu quả
chuyên môn. Theo kết quả điều tra các đơn vò tư vấn tại 06 thành
phố tại Việt Nam tiến hành năm 2013, 85% các nhà tư vấn QH
không có kiến thức, công cụ và kỹ năng để làm việc với cộng đồng,
trao đổi thông tin với cộng đồng, thu nhận, xử lý và phản hồi thông
tin đến cộng đồng.
Nhà quản lý: Nhìn nhận việc huy động sự TGCĐ trong QHĐT là thủ
tục hành chính cần phải có để phê duyệt đồ án QHĐT. Hiện nay chưa
có các báo cáo tổng hợp kết quả việc tham vấn cộng đồng cũng như
phương thức huy động sự TGCĐ trong các văn bản pháp lý.

n

Chủ đầu tư: Chủ yếu là quan tâm đến lợi nhuận kinh tế (đặc biệt là
các CĐT tư nhân). Phần lớn CĐT không có được nhận thức đúng đắn
về vai trò CĐ và sự TGCĐ góp phần đem lại hiệu quả QH. Do vậy
CĐT coi việc huy động sự TGCĐ là một thủ tục hành chính rườm rà,

n

SË 93 . 2018

59


không muốn đầu tư nguồn lực (thời gian, nhân lực, vật lực) vào việc

thực hiện huy động TGCĐ một cách thực chất trong QHĐT. CĐT
thường mong muốn cắt giảm tối đa chi phí, thời gian cho việc thực
hiện quy trình QH có lồng ghép các thủ tục lấy ý kiến cộng đồng nên
chỉ thực hiện một cách hình thức, qua qt.
Cộng đồng: Người dân có trình độ nhận thức còn hạn chế, tính tư
hữu còn cao và chưa nắm được đầy đủ thông tin về nội dung của dự
án. Thêm vào đó, người dân không được cung cấp thông tin một cách
đầy đủ về hoạt động QHĐT cũng như các tác động, ảnh hưởng của
đồ án QH đến môi trường sống, quyền lợi và nghóa vụ của CĐ khi đồ
án QHĐT được triển khai. CĐ không được giải thích rõ họ được lợi
gì, bò ảnh hưởng gì, có quyền lợi và trách nhiệm như thế nào khi đồ
án QHĐT được phê duyệt và triển khai. Đồng thời, với quy trình quy
đònh về sự TGCĐ hiện nay, CĐ được tham vấn, đóng góp ý kiến cho
đồ án QHĐT nhưng họ không biết cơ chế giải trình, phản hồi thông
tin của cơ quan quản lý, không biết những ý kiến đóng góp của mình
được tiếp thu như thế nào, ảnh hưởng đến giải pháp QH ra sao, các
bên liên quan đã có phản hồi và giải quyết như thế nào để thực hiện
mong muốn, yêu cầu của CĐ.
n

cách thức huy động sự TGCĐ cần được nghiên cứu phù hợp với bối
cảnh bao gồm môi trường văn hóa, kinh tế, chính trò, xã hội, đặc điểm
cộng đồng.
7) Nguyên tắc xây dựng năng lực, nâng cao nhận thức của cộng
đồng và các bên liên quan để quản lý quá trình và tham gia: Cần xây
dựng năng lực, nâng cao nhận thức của các cán bộ quản lý ở các
cấp, tư vấn QH, chủ đầu tư và cộng đồng trong việc huy động CĐ
tham gia vào quá trình thực hiện QHCT. Cần bắt đầu từ cấp độ đơn
giản và sẽ nâng dần theo thời gian cũng như khả năng tiếp nhận kiến
thức của các bên. (Hình 4, 5)


Đề xuất các nguyên tắc và giải pháp khi thực hiện
QHĐT theo phương pháp TGCĐ tại Việt Nam

Các nguyên tắc cơ bản: có 07 nguyên tắc mà tác giả đề xuất để
đưa sự TGCĐ vào QHĐT tại Việt Nam:
1) Nguyên tắc QHCT “từ dưới lên”, xuất phát từ nhu cầu của “thò
trường” là các đối tượng thụ hưởng/ảnh hưởng từ công tác QHĐT: QH
dựa trên nhu cầu, mong muốn, lợi ích của cộng đồng.
2) Nguyên tắc công khai, minh bạch trong quá trình huy động sự
TGCĐ trong QHCT: Cần xác đònh rõ ràng các mục tiêu và động lực
huy động sự TGCĐ trong QHCT; Làm rõ các quyền lợi, lợi ích của
các bên liên quan, đặc biệt là của cộng đồng; Đảm bảo rõ ràng,
minh bạch trong việc chuyển tải thông tin QH đến CĐ, giúp CĐ có
thể tiếp cận thông tin QH một cách trực tiếp.

Hình 4: Đề xuất các nguyên tắc áp dụng phương pháp TGCĐ trong
QHĐT tại Việt Nam

3) Nguyên tắc tăng cường tương tác, tiếp cận đa chiều, có sự tham
gia của nhiều bên: Nhà quản lý – Chủ đầu tư – Tư vấn – Cộng đồng
(bao gồm các tổ chức nghề nghiệp, tổ chức hỗ trợ CĐ). Cần phát
triển những phương tiện, công cụ để hỗ trợ việc trao đổi thông tin tới
CĐ theo cả 2 chiều, dựa trên việc xây dựng cơ sở dữ liệu thông tin
chuyên ngành QHĐT.
4) Nguyên tắc xây dựng sự tự tin và tin tưởng giữa các bên liên quan
là nền tảng của sự tham gia hiệu quả. Cố gắng đạt đến sự thấu hiểu
lẫn nhau giữa các bên liên quan để giảm bớt mâu thuẫn, xung đột
về lợi ích.
5) Nguyên tắc đảm bảo lợi ích chung của CĐ: Quá trình TGCĐ là quá

trình cùng nhau tạo lập những ý nghóa, lợi ích chung cho CĐ mặc dù
các quan điểm về giá trò là khác nhau. Các nhà quy hoạch đóng vai
trò là cầu nối trung gian giữa nhà quản lý, chủ đầu tư và cộng đồng.
Trong một số trường hợp, nhà quy hoạch cần biện hộ cho lợi ích của
nhóm cộng đồng yếu thế.
6) Nguyên tắc QH theo lộ trình, phù hợp với bối cảnh: Quy trình,

60

SË 93 . 2018

Hình 5: Mối quan hệ về lợi ích giữa các bên liên quan khi áp dụng
phương pháp TGCĐ trong QHĐT theo các nguyên tắc đã đề xuất


≥ ki’n Chuy™n gia & Nhµ qu∂n l˝

Bổ sung làm rõ các khái niệm về cộng đồng và sự TGCĐ tại
Việt Nam
Khái niệm cộng đồng đô thò trong QHCT: “Cộng đồng đô thò là những
người dân và các tổ chức tại đô thò, vừa gắn kết với nhau theo lãnh
thổ, vừa gắn kết với nhau về lợi ích và các mối quan tâm chung, chòu
ảnh hưởng của đồ án QHCT. Các thành viên trong cộng đồng cùng
chia sẻ một hệ thống giá trò, hướng đến các nhu cầu và lợi ích chung
của cộng đồng và xã hội”.

n Phương pháp TGCĐ áp dụng trong qui trình QHCT sẽ góp phần
làm giảm bớt tính chủ quan của nhà tư vấn trong việc đề xuất giải
pháp QH, dung hòa quyền lợi xã hội của nhà quản lý, nhà đầu tư và
cộng đồng, hạn chế xung đột, tăng hiệu quả của việc thực thi công

tác QHĐT;
n Sự TGCĐ cũng giúp cho các nhóm cộng đồng yếu thế không bò
gạt ra ngoài lề của xã hội, đem lại quyền lợi cũng như đảm bảo lợi ích
cho các nhóm cộng đồng yếu thế.

Đối tượng thuộc cộng đồng đô thò:
n Là người dân sinh sống trong khu vực nghiên cứu của đồ án QHCT;
n Những người có tài sản, quyền lợi gắn liền với đất đai, công trình…
trong phạm vi đồ án QHCT;
n Các công ty, doanh nghiệp kinh doanh hoạt động trên đòa bàn;
n Các cơ quan, tổ chức có cơ sở, văn phòng trong đòa bàn triển khai
QHCT;
n Các tổ chức xã hội - nghề nghiệp, các tổ chức phi chính phủ NGOs
hoạt động phục vụ lợi ích cộng đồng trên đòa bàn triển khai QH…

Trong điều kiện của Việt Nam, sự TGCĐ có thể thực hiện được và thực
hiện hiệu quả nhất ở các mức độ sau:
1) Tăng cường khả năng tiếp cận thông tin QHXD của cộng đồng;
2) Tăng cường khả năng tương tác thông tin 2 chiều thông qua TVCĐ.

Tuy nhiên, thành phần và đối tượng thuộc “cộng đồng” sẽ khác nhau
đối với các loại đồ án QHCT:
n Đối với các QHCT xây mới hoàn toàn một khu vực chức năng trong
đô thò: cộng đồng cần tham gia sẽ không chỉ là cộng đồng dân cư tại
khu vực dự kiến QH (vì các khu vực QH mới thường không có hoặc
có ít dân cư sinh sống) mà cộng đồng sẽ bao gồm các doanh nghiệp,
các khách hàng tiềm năng của đồ án, dự án, các hiệp hội chuyên
môn… có thể cung cấp thông tin cần thiết cho nhà đầu tư. Ngoài ra
còn có CĐ dân cư của các khu vực lân cận khu vực QH, những người
có thể sẽ được hưởng lợi hoặc chòu tác động từ đồ án QH.

n Đối với QHCT chỉnh trang, nâng cấp ĐT, quy hoạch bảo tồn: cộng
đồng bao gồm cộng đồng dân cư tại khu vực QH và lân cận khu vực
QH, các tổ chức cá nhân hoạt động trong khu vực đồ án tác động và
các nhà khoa học, các tổ chức xã hội – nghề nghiệp… quan tâm đến
các khía cạnh liên quan đến môi trường sống của khu vực, trong đó
cộng đồng dân cư đóng vai trò quan trọng nhất vì họ là người nắm rõ
nhất các vấn đề của khu vực cũng như hiểu rõ mình có những nguồn
lực gì để giúp cải thiện môi trường sống trong khu vực.
n Đối với QHCT tái đònh cư: nhóm cộng đồng cần quan tâm là cộng
đồng dân cư phải TĐC, các tổ chức bảo vệ quyền lợi CĐ, các nhà
hoạt động xã hội, đại diện các nhà khoa học... Trong đó, sự TGCĐ
sẽ làm rõ nhu cầu, mong muốn CĐ, những dự báo thay đổi tác động
đến đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội của cộng đồng TĐC.
Phương pháp tham gia cộng đồng trong QHCT tại Việt Nam
Sự TGCĐ trong QHCT là một quá trình tương tác mà cộng đồng
được cung cấp thông tin, chia sẻ, đóng góp ý kiến và tham mưu cho
các nhà quản lý trong việc ra các quyết đònh QH có tác động đến
quyền lợi và chất lượng cuộc sống của cộng đồng.
Phương pháp TGCĐ trong QHCT:
n Sự TGCĐ là một phương pháp QH, được phối hợp áp dụng với các
phương pháp QH khác trong quy trình QHCT để giúp cho công tác
QHCT đô thò đạt được hiệu quả và chất lượng tốt hơn;
n Phương pháp TGCĐ trong QHCT không phải là một thủ tục hành
chính bắt buộc từ trên xuống mà góp phần tạo ra một động lực từ dưới
lên, tạo nên một lực lượng tham gia hiệu quả vào đồ án QH;

Hình 6: Đề xuất quy trình QHCT có lồng ghép các bước để áp dụng
phương pháp TGCĐ và các công cụ hỗ trợ thực hiện

Các bước của quy trình QHCT áp dụng phương pháp TGCĐ

Căn cứ vào các nguyên tắc nêu trên, chiếu vào quy trình QHCT
hiện nay, nghiên cứu đề xuất cách thức triển khai cụ thể khi áp dụng
phương pháp TGCĐ trong QHCT như Hình 6. Trong đó tại 04 bước
cơ bản có đề xuất việc bổ sung, lồng ghép quy trình trao đổi thông tin
và sự phối hợp giữa các phương pháp QH khác nhau trong từng nội
dung của quy trình QHCT tại Hình 7.
SË 93 . 2018

61


chung với nhau để đưa ra một giải pháp QH ngay tại đòa điểm sẽ triển
khai QH đó và cho phép CĐ tham gia và tương tác với thành viên
chuyên môn của dự án. (Hình 9)
Theo Peter Drucker, triết gia/nhà lý thuyết về quản lý thì “Các bản
kế hoạch đều vô giá trò nhưng quá trình lập kế hoạch thì vô giá”. Mọi
bản vẽ dù có xuất sắc đến mấy cũng sẽ đến lúc trở thành lỗi thời.
Chính quá trình thiết lập chúng quyết đònh “tuổi thọ” của những thiết
kế này trong lòng người dân. Quá trình thiết kế mở với sự TGCĐ cho
phép tất cả những ai quan tâm về không gian đó trở thành đồng tác
giả của bản thiết kế.
Thông qua workshop về thiết kế nhanh, giải pháp QH được đưa ra
với sự đồng thuận của mọi người và sự tập trung trí tuệ của chuyên
gia các ngành khác nhau cùng một lúc, đồng thời giáo dục công
chúng về vai trò và trách nhiệm của xã hội nói chung trong việc lập,
phê duyệt và thực hiện QH.

Hình 7: Đề xuất quy trình tương tác thông tin QH lồng ghép trong
quy trình QHCT hiện hành


Đề xuất công cụ hỗ trợ việc áp dụng phương pháp TGCĐ trong lập,
thẩm đònh, phê duyệt QHCT tại Việt Nam
n Tham vấn cộng đồng: Quy trình TVCĐ sẽ gồm 06 bước chính:
Bước 1: Chuẩn bò; Bước 2: Thực hiện TVCĐ; Bước 3: Xử lý, phân tích
thông tin và dữ liệu; Bước 4: Phản hồi; Bước 5: Thực hiện điều chỉnh,
bổ sung nội dung QHCT đô thò theo ý kiến TVCĐ; Bước 6: Báo cáo
cấp thẩm quyền quá trình tham vấn lấy ý kiến của cộng đồng.
TVCĐ được thực hiện thông qua công cụ họp CĐ; Thảo luận nhóm
trọng tâm; Lấy ý kiến thông qua phiếu hỏi; Sử dụng công cụ mạng
thông tin điện tử.
n Lập bản đồ và đánh giá hiện trạng với sự TGCĐ: Đây là công cụ
được sử dụng hiệu quả trong các đồ án QHCT cải tạo chỉnh trang
hoặc nâng cấp khu ở mà các thông tin hiện trạng của khu vực không
đầy đủ hoặc chưa sát với thực tế, cần có sự TGCĐ trong việc đánh
giá hiện trạng, xác đònh yêu cầu cấp thiết của CĐ và đề xuất giải
pháp phù hợp nguồn lực của cộng đồng. Công cụ này cũng đặc biệt
hiệu quả đối với các đồ án cải tạo nhỏ xuất phát từ CĐ, từ nhu cầu và
nguồn lực CĐ không theo quy trình chính tắc.
Tổ chức workshop, thiết kế nhanh để đề xuất ý tưởng và giải pháp
với sự TGCĐ: Tổ chức workshop thiết kế nhanh với CĐ là một mô
hình thiết kế được thực hiện trong một thời gian ngắn và liên tục (3-7
ngày), trong đó các chuyên gia, kiến trúc sư và nhà quản lý làm việc

n

62

SË 93 . 2018

Hình 8: Công cụ Lập bản đồ với sự TGCĐ

n Công cụ đàm phán, thương thuyết để đạt được sự thỏa thuận:
Đàm phán là công cụ cơ bản để đạt được mục đích mong muốn từ
người khác. Đó là quá trình tương tác của các ảnh hưởng được thiết
kế nhằm thỏa thuận giữa các bên có quyền lợi ràng buộc lẫn nhau.
Đàm phán được thực hiện khi: Cả hai bên có những quyền lợi được
chia sẻ hoặc cả hai bên có quyền lợi đối kháng. Đàm phán giúp cho
việc tiến tới một quyết đònh với sự đồng thuận cao, giảm bớt các xung
đột và mâu thuẫn.
n Hệ thống kết nối các tổ chức hỗ trợ CĐ trong QHCT: Để liên kết các

tổ chức hỗ trợ cộng đồng, tăng sức mạnh cũng như tầm ảnh hưởng
đến quá trình lập chính sách, tác động đến cơ quan quản lý và chủ
đầu tư trong việc cân nhắc, xem xét các ý kiến, nhu cầu CĐ để ra
các quyết đònh phù hợp trong công tác QH, phát triển đô thò cần phải


≥ ki’n Chuy™n gia & Nhµ qu∂n l˝

thuyết QHĐT đương đại trên thế giới. Phương pháp QH có sự TGCĐ
cũng đã được chứng minh là một phương pháp QH có thể áp dụng
hiệu quả trong bối cảnh Việt Nam, thông qua các bài học kinh nghiệm
từ các quốc gia có đặc điểm tương đồng như Trung Quốc, Thái Lan…
và những dự án cụ thể tại Việt Nam.
Tuy nhiên, để phương pháp TGCĐ có để áp dụng được thực chất và
hiệu quả trong quy trình QHCT thì cần một số điều kiện:
n Cần đảm duy trì, đảm bảo dân chủ thực chất, đảm bảo quyền lợi,
lợi ích của cộng đồng. Tiếng nói của cộng đồng cần được coi trọng
và lắng nghe.
n Cần đảm bảo cơ chế minh bạch thông tin QH thông qua việc xây
dựng một hệ thống tương tác thông tin giữa các bên liên quan, mà

thông tin được tương tác theo 2 và nhiều chiều. Cộng đồng chỉ có
thể tham gia một cách thực chất khi họ được cung cấp đầy đủ những
thông tin quy hoạch cần thiết, liên quan đến mục đích, mục tiêu QH,
những lợi ích mà họ sẽ nhận được từ sau QH, những tác động dự kiến
mà đồ án QH gây nên… Đồng thời tăng cường mối liên hệ trao đổi
giữa cơ quan quản lý, chủ đầu tư, đơn vò tư vấn và cộng đồng những
người thụ hưởng sản phẩm QH.

Hình 9: Công cụ workshop, thiết kế nhanh với sự TGCĐ

có các bên đóng vai trò cầu nối giữa cộng đồng, các tổ chức hỗ trợ
cộng đồng và các nhà tài trợ cho các hoạt động thúc đẩy sự TGCĐ.
Dựa trên lý thuyết của Davidoff về quy hoạch biện hộ thì nhà chuyên
môn (nhà quy hoạch) phù hợp nhất với vai trò trên. Các tổ chức
chuyên môn (viện nghiên cứu, trường đại học, tổ chức nghề nghiệp)
sẽ đóng vai trò trung tâm kết nối các tổ chức hỗ trợ cộng đồng như
các các đơn vò tài trợ trong nước, quốc tế, các tổ chức phi chính phủ,
phi lợi nhuận NGOs, NPOs, các cơ quan truyền thông, đồng thời là
cầu nối với các cơ quan quản lý. Đối với các đồ án, dự án QH có ảnh
hưởng rộng lớn đến nhiều nhóm đối tượng khác nhau của CĐ, thì
các tổ chức chuyên môn đóng vai trò quan trọng trong việc lập các
nghiên cứu, điều tra, dự báo tác động của đồ án QH đến đời sống
XH, môi trường sống của CĐ để có các phản biện xã hội và đònh
hướng giúp cộng đồng nhận thức được ảnh hưởng, tác động của QH
đến lợi ích CĐ.

Kết luận

Sự TGCĐ đã được nghiên cứu về lý thuyết và áp dụng thực tiễn trong
QHĐT tại các nước phát triển phương Tây. Phương pháp TGCĐ có

nhiều điểm ưu việt và có khả năng kết hợp với các phương pháp QH
khác như phương pháp QH chiến lược, QH cấu trúc, QH sinh thái và
môi trường… trong việc giải quyết các vấn đề về chất lượng không
gian sống của người dân.
Thông qua những nghiên cứu cụ thể, có thể thấy rằng quan điểm
nhìn nhận sự TGCĐ là một phương pháp QH hiệu quả đã được chứng
minh rất rõ ràng qua các lý thuyết QHĐT hiện đại của Habermas,
Shery Ainstein… và đã được giảng dạy, phổ biến trong hệ thống lý

Hiện nay, các công cụ thúc đẩy tương tác thông tin ở khu vực đô thò
là các phương tiện truyền thông như báo, đài, các trang thông tin
điện tử… Do vậy, cần xây dựng một hệ thống cơ sở dữ liệu thông tin
quy hoạch có thể lưu trữ một cách hệ thống các thông tin về QHXD
đô thò. Cơ sở dữ liệu thông tin này sẽ góp phần quan trọng trong việc
đảm bảo sự TGCĐ dưới nhiều hình thức (trực tiếp, gián tiếp… ) vào
quá trình lập, thực hiện và quản lý QHĐT.

Tài liệu Tham khảo
1. Caroline Shear (2000), City planning and citizen involvement – Case study
from Singapore on Land use planning – Park & Water bodies plan and Identity plan,
Asian – Pacific City Summit 5 :Working level conference.
2. Chính phủ (2007), Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã , phường, thò trấn, số
34/2007/PL-UBTVQH11 ban hành ngày 01 tháng 7 năm 2007.
3. Chính phủ (2009), Luật Quy hoạch đô thò, số 30/2009/QH12 ban hành ngày 17
tháng 6 năm 2009.
4. Chính phủ (2013), Luật đất đai, số 45/2013/QH13 ban hành ngày 29 tháng 11
năm 2013.
5. Đỗ Hậu (2014), “Chương VIII: Sự tham gia của cộng đồng trong quá trình quy
hoạch đô thò”, Quy hoạch và quản lý đô thò trong quá trình đô thò hóa – Dự án
“Xây dựng năng lực quản lý hành chính đô thò tại 10 quận nội thành thành phố Hà

Nội”, Hà Nội, 2/2014.
6. Đỗ Hậu (2013), Quản lý nhà nước về đô thò trên đòa bàn thành phố Hà Nội, Dự
án “Xây dựng năng lực quản lý hành chính đô thò tại 10 quận nội thành thành phố
Hà Nội” do Hội Quy hoạch phát triển đô thò Việt Nam, tổ chức KOIKA và trường
ĐH GACHON Hàn Quốc phối hợp thực hiện.
7. Nguyễn Ngọc Hiếu (2011), “ Một số vấn đề về quy trình và phương pháp làm
quy hoạch đô thò”, Tạp chí Kiến trúc Quy hoạch – Hội quy hoạch phát triển đô thò
Việt Nam, (05-2011).
8. Tạ Quỳnh Hoa (2015), “ Quy hoạch chi tiết đô thò với sự tham gia của cộng đồng
tại Việt Nam”, Luận án Tiến só chuyên ngành Quy hoạch vùng và đô thò - Mã số
62580105, Hà Nội, 7/2015.
9. Jean – Paul Lacaze (2002), Các phương pháp quy hoạch đô thò, NXB Thế giới,
Hà Nội.
10. Sanoff, H. (2000). Community participation methods in design and
planning, New York: Wiley.
11. Tang, Wing Shing. Chinese Urban Planning at Fifty: An Assessment of the
Planning Theory Literature, Journal of Planning Literature 14.3 (2000): 347-66.
12. UN - Habitat (2005), Promoting Local Economic Development through
Strategic Planning, The Local Economic Development Series, Vol.2, Nairobi,
Kenya. UN - Habitat (2001), Tool to support participatory urban decision making,
Nairobi, Kenya.
13. Waters, N. (2000), The community-planning handbook, London, Earthscan.
14. World Bank (1996), The World Bank Participation Source Book.

SË 93 . 2018

63




×