Tải bản đầy đủ (.pdf) (4 trang)

Tổ chức lại không gian đô thị cho sự ra đời và vận hành của các thành phố vệ tinh ở TP Hồ Chí Minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (404.03 KB, 4 trang )

DIỄN ĐÀN

TỔ CHỨC LẠI KHÔNG GIAN ĐÔ THỊ

CHO SỰ RA ĐỜI VÀ VẬN HÀNH
CỦA CÁC THÀNH PHỐ VỆ TINH Ở TP.HCM
PGS.TS. NGUYỄN MINH HÒA

M

PCT Hội Quy hoạch và Phát triển TP.HCM

ô hình đại đô thò đơn cực (mega city), tức là một thành phố có diện tích cực lớn, dân số hàng triệu người,
nhưng chỉ có một trung tâm đơn nhất đã trở nên lạc hậu, bởi hệ quả của đại đô thò rất nặng nề, chẳng hạn
như quá tải cơ sở hạ tầng kỹ thuật và xã hội, quá tải dân số. Các quốc gia cố gắng tìm kiếm các mô hình
phát triển khác nhau để phá bỏ tình trạng này như vùng đô thò, đô thò vệ tinh, đô thò đối trọng.
Thủ đô Hà Nội và TP.HCM hiện nay, về cơ bản là một đại đô thò đơn cực. Bắt đầu từ 2005, TP.HCM tìm kiếm kiểu
phát triển mới là “đa cực, phi tập trung hoá” với các đô thò vệ tinh, nhưng đến nay vẫn không thu được kết quả.
Bài viết này tập trung làm rõ hai điều sau đây: thứ nhất, tại sao TP.HCM không ra đời được các thành phố vệ tinh cho
dù đã có ý đònh hành thành từ rất lâu. Thứ hai, là tổ chức lại không gian hành chính theo mô hình tỉnh và vùng đô thò
để đảm bảo cho ra đời đô thò vệ tinh, cũng như các đơn vò hành chính thứ bậc trong đô thò.

1. Những cố gắng bất thành trong việc hình thành các đô thò vệ tinh
1.1. Đô thò vệ tinh ở Tây Bắc và Đô thò Cảng Hiệp Phước

Từ năm 2000, trước áp lực thực tế và sự đòi hỏi của xã hội (báo chí, ý kiến của các nhà khoa học) về việc phải có
sự thay đổi về quy hoạch ở khu vực trung tâm, không thể duy trì tình trạng quá tải này lâu thêm được nữa, lãnh đạo
TP.HCM đã nhận thấy phải thay đổi mô hình quy hoạch. Do vậy thành phố cố gắng hiện thực hoá việc hình thành
2 đô thò vệ tinh ở hai cực của thành phố.
Đô thò vệ tinh Tây Bắc được hình thành bởi một quyết đònh ban hành vào tháng 8-2004, có diện tích 10.000ha bao
gồm các xã Tân Thới Nhì (huyện Hóc Môn) và Tân Phú Trung, Tân An Hội, Phước Hiệp, Thái Mỹ của huyện Củ


Chi. Thành phố mới này cách trung tâm Sài Gòn khoảng 30km, dự tính dân số vào khoảng 300.000 dân, một phần
lớn trong số đó được chuyển từ nội thành ra cùng với việc hình thành các các trường đại học, các khu công nghiệp,
khu dòch vụ thương mại, khu dân cư và vui chơi giải trí. Nhưng cho đến nay, đô thò vệ tinh này không ra đời được
bởi nhiều lý do, trong đó có lý do ách tắc giao thông ở cửa ngõ Tây Bắc thành phố và chưa hấp dẫn nhà đầu tư.
Đô thò cảng Hiệp Phước nằm trên đòa bàn xã Hiệp Phước và xã Long Thới huyện Nhà Bè. Hai mặt Đông và Nam

48

SË 95+96 . 2018


≥ ki’n Chuy™n gia & Nhµ qu∂n l˝

của đô thò này được bao bọc bởi sông Soài Rạp, phía Nam thông
thẳng ra biển Đông. Nó có diện tích quy hoạch là 3.912ha với dân
số dự kiến là 250.000 người. Đô thò cảng Hiệp Phước rất có tiềm
năng bởi vì nó cách trung tâm thành phố không xa chỉ có 18km,
cảnh quan tự nhiên rất đẹp, do vậy ngoài khu cảng với công suất
130 triệu tấn/năm và khu công nghiệp phục vụ cảng ra thì nơi đây
sẽ trở thành một khu đô thò sinh thái kết hợp sông nước và du lòch
biển rất trữ tình với các resort và biệt thự ven biển. Tuy nhiên đô
thò này cũng chưa phát triển được do tình trạng biến đổi khí hậu và
nước biển dâng.
1.2. Sự nhầm lẫn trong quan niệm đô thò vệ tinh trong vùng đô thò
Đông Nam Bộ và đòa bàn TP.HCM
Ngày 20-5-2008, Thủ tướng Chính phủ ký Quyết đònh 589/QĐ-TTg
về việc phê duyệt Quy hoạch vùng TP.HCM đến năm 2020 và tầm

hợp. Thực tế cho thấy các tỉnh Đồng Nai, Bình Dương, Tây Ninh,
Bà Ròa-Vũng Tàu đang trở thành một cực tăng trưởng độc lập và đối

trọng với TP.HCM. Trong 10 năm trở lại đây FDI đổ vào khu vực này
tăng nhanh và cao hơn TP.HCM, tốc độ đô thò hoá và tăng trưởng
nhanh hơn, trong khi TP.HCM có dấu hiệu bão hoà và chậm lại, một
số lợi thế so sánh như giá thuê đất, lao động tay nghề cao, cơ sở dòch
vụ chất lượng cao, cơ sở đào tạo nhân lực bò cạnh tranh mạnh và
có xu hướng giảm đi; lực lượng lao động nhập cư vào các tỉnh miền
Đông (trừ TP.HCM) cao hơn vào TP.HCM. Hơn nữa lợi thế khác mà
TP.HCM có thể thấp hơn là khu vực này có thể kết nối trực tiếp với
3 vùng có thế mạnh là dải đô thò miền Trung, vùng Tây Nguyên và
Asean qua các cửa khẩu của Tây Ninh. Do vậy trong chiến lược dài
hạn cần coi các tỉnh, thành phía Bắc của thành phố là đơn vò hợp tác
ngang bằng chứ không nên coi là đơn vò phụ thuộc, hay thứ cấp trong
vùng đô thò rộng lớn. Vì thế, các thành phố là trung tâm của các tỉnh
chỉ có thể là thành phố chòu ảnh hưởng chứ không phải là thành phố
vệ tinh theo đúng nghóa và đúng đònh nghóa khoa học.
Thêm vào nữa, chúng ta cũng có sự nhầm lẫn khi gọi một số khu vực
nằm trong diện tích 2.100km2 là đô thò hay thành phố vệ tinh, chẳng
hạn như Phú Mỹ Hưng, Thủ Thiêm, An Phú - An Khánh. Cách gọi
này cũng không đúng, bởi vì thành phố vệ tinh không thể nằm quá
gần lõi trung tâm (khu vực 930ha) như Thủ Thiêm, An Phú - An
Khánh, và thành phố vệ tinh phải là một thực thể có vò thế tương đối
độc lập về đòa giới, bộ máy chính trò, kinh tế tài chính, bộ máy quản
lý, như hiện nay cho thấy những nơi kể trên đều chỉ là một cái tên
nằm trong một đơn vò hành chính của phường, quận nào đó.
Theo đònh nghóa, thì thành phố vệ tinh phải có được các điều kiện
sau đây:
■ Nó là một thành phố hoàn chỉnh để có thể trở thành một đơn vò
độc lập tương đối về cơ cấu tổ chức không gian (quy hoạch), cơ
cấu hành chính (tổ chức chính trò xã hội, tổ chức hành chính), cơ sở
hạ tầng kỹ thuật (cấp điện, cấp và thoát nước, giao thông, xử lý rác

thải), và hạ tầng xã hội (bệnh viện, trường học, nhà trẻ, phòng chữa
cháy…). “Về lý thuyết thì một thành phố vệ tinh đúng nghóa phải là
một đơn vò đô thò hoàn chỉnh, có một hệ thống quản lý riêng, độc lập
về hành chính nhưng lại nằm trong cơ cấu của một thành phố lớn”.

Khu đô thò Tây Bắc và khu đô thò cảng Hiệp Phước

nhìn đến năm 2050 với tổng diện tích 30.404km2 và bán kính ảnh
hưởng từ 150-200km. Phạm vi lập quy hoạch vùng TP.HCM bao
gồm toàn bộ ranh giới hành chính TP.HCM và 7 tỉnh xung quanh
gồm Bình Dương, Bình Phước, Tây Ninh, Long An, Bà Ròa - Vũng
Tàu, Tiền Giang và Đồng Nai là các đòa bàn quan trọng nằm trong
hệ thống quy hoạch này. Theo đồ án quy hoạch Vùng TP.HCM,
đến năm 2050 vùng này sẽ có dân số khoảng 28-30 triệu người,
trong đó dân số đô thò 25-27 triệu người, tỷ lệ đô thò hóa khoảng
90%, trong đó TP.HCM là đô thò hạt nhân, tại các tỉnh sẽ có các
đô thò vệ tinh độc lập, đô thò vệ tinh phụ thuộc hoặc các đô thò vùng
phụ cận. Theo quan điểm này thì TP.HCM làm hạt nhân trung tâm,
các tỉnh thành xung quanh là các đơn vò phụ thuộc là phần “cơi nới”
và các thành phố của các tỉnh như Biên Hoà, Thủ Dầu Một, Bà
Ròa-Vũng Tàu, Tân An là thành phố vệ tinh có thể không còn phù

■ Nó phải nằm trong cùng một lãnh thổ với thành phố trung tâm,
khoảng cách không quá xa (dễ ly tâm), cũng không quá gần (dễ bò
thành phố trung tâm hút vào). Trong thực tế, những thành phố vệ
tinh của các nước châu Á đều nằm trong bán kính dưới 50km tính
từ tâm của thành phố cũ.
■ Về quan hệ vó mô, nó thuộc mạng lưới quản lý chung của cả vùng.

Có thể nó có sự độc lập tương đối về bộ máy hành chính và quản

lý đô thò nhưng nó phải chòu sự đònh hướng chiến lược và lãnh đạo
chính trò chung từ thành phố trung tâm (còn gọi là thành phố mẹ).
Điều này giúp cho các thành phố vệ tinh không đi chệch ra khỏi lộ
trình phát triển.

■ Thông

thường, các thành phố vệ tinh chòu sự điều phối từ một hội
đồng quản lý đô thò. Hội đồng này gồm có ba cấp độ: hội đồng các thò
trưởng; hội đồng cố vấn; hội đồng chuyên môn (thực hiện chức năng
cụ thể: tài chính, môi trường, quy hoạch, xây dựng, giao thông…)

SË 95+96 . 2018

49


≥ ki’n Chuy™n gia & Nhµ qu∂n l˝
- Về dân số, nó phải có được một lượng dân số cần và đủ cho một
đô thò (một thành phố vệ tinh đứng độc lập có thể là 100.000 dân,
nếu một cụm các đô thò vệ tinh đứng gần nhau thì mỗi thành phố có
thể là 30.000-50.000 dân), nếu ít qúa sẽ không có được sức hút. Nó
cũng cần có một lực lượng lao động tại chỗ, nếu nó tồn tại nhờ lực
lượng lao động “con lắc” từ nơi khác đến thì thành phố đó sẽ không
đảm nhiệm được vai trò vệ tinh mà tồn tại theo kiểu “ngày tấp nập,
đêm trống rỗng”, “ngày sống, đêm chết”.

dựng nhà ở, xây dựng cơ sở hạ tầng tại khu Phú Mỹ Hưng vẫn phải
qua cấp phường quận, cho dù có thêm Ban Quản lý khu Nam và
Công ty Phát triển Tân Thuận (IPC) là đại diện cho vốn nhà nước

tại khu vực phía Nam này. Đó là một mâu thuẫn, làm sao để cho
các khu đô thò này phát triển tốt hơn, chủ động hơn như một đơn vò
hành chính, một chủ thể độc lập. Muốn như vậy thì khu đô thò Phú
Mỹ Hưng phải là một thành phố, nhưng không thể có thành phố
trong thành phố.

- Thành phố đó dù nhỏ cũng phải có một nền tảng kinh tế riêng.
Có thể nó là một thành phố có một cơ cấu kinh tế hoàn chỉnh: công
nghiệp-thương mại-dòch vụ-nông nghiệp. Nhưng nếu nó chỉ có một
chức năng nào đó duy nhất chẳng hạn như sản xuất công nghiệp
thì phải có sự hỗ trợ từ những thành phố khác nằm chung trong
một hệ thống. Nếu một thành phố vệ tinh chỉ dựa vào việc gia công
hàng hóa cho nước ngoài thì dù to lớn đến mấy cũng rất bấp bênh,
vì chỉ cần một sự biến động thò trường, một vài nhà đầu tư lớn rút ra
thì thành phố đó sụp đổ.

Một ví dụ khác tương tự, là trước 2008, ở phía Bắc của Việt Nam có
thành phố Hà Đông là thủ phủ của tỉnh Hà Tây, nhưng khi sát nhập
Hà Tây vào Hà Nội thì thành phố Hà Đông bò hạ cấp xuống thò xã,
không còn gọi là thành phố nữa.

Chúng ta bắt đầu phân tích từ các trường hợp điển hình tại TP.HCM.
Hiện nay trên phương tiện thông tin đại chúng và ngay cả các văn
bản của chính quyền gọi một số nơi là khu đô thò, chẳng hạn khu đô
thò Phú Mỹ Hưng, Khu đô thò đại học, Khu đô thò An Phú - An Khánh,
khu đô thò Trung Sơn,… Tại sao không gọi là thành phố hay thò trấn
cho chính danh. Mặc dù khu đô thò Phú Mỹ Hưng được coi là khu đô
thò hiện đại, hoàn thiện nhất Việt Nam được tặng danh hiệu là “khu
đô thò kiểu mẫu”, với diện tích 400ha, dân số khoảng 35.000 người,
trong đó 60% là người nước ngoài. Nhưng Khu đô thò Phú Mỹ Hưng

không phải là một đơn vò hành chính độc lập mà thuộc sự quản lý
của hai phường Tân Phú và Tân Phong, nằm trong quận 7.
Nếu biết trong hệ thống hành chính của Việt Nam, tên gọi các đơn
vò hành chính đô thò gồm có: thành phố, thò xã, thò trấn, không hề
có tên gọi “khu đô thò”. Khái niệm “đô thò” hay “khu đô thò” là dùng
để phân biệt với nông thôn, do vậy gọi “khu đô thò Phú Mỹ Hưng”
là không chính danh, nói đúng hơn thì Phú Mỹ Hưng là tên mà nhà
đầu tư Công ty CT&D đặt cho dự án phát triển để nói lên mong
muốn của mình. Nếu PMH là một thành phố thì chắc chắn nó sẽ
có tầm mức phát triển khác, khi đó nó có hệ thống quản lý đô thò
riêng, có bộ máy nhân sự, có chương trình phát triển, có quyền chủ
động trong công tác quy hoạch, tài chính. Như hiện nay, việc xây

2. Việc xác đònh lại mô hình quản lý hành chính
cho các thành phố vệ tinh ra đời
Trong bối cảnh của Việt Nam hiện nay muốn xuất hiện thành phố
vệ tinh và đònh danh chúng là thành phố mà không gọi một cách
mơ hồ là “khu đô thò” thì phải chấp nhận một trong hai, hay cả hai
mô hình sau đây:

Thứ nhất là tỉnh chưa các thành phố trong đó, chẳng hạn như Thủ
đô Matxcova nằm trong tỉnh Matxcova (Moscow province), và như
thế trong tỉnh Matxcova có Thủ đô và 21 thành phố; tương tự như thế
Thủ đô Seoul và 10 thành phố vệ tinh nằm trong tỉnh Gyeonggi-do
Giả sử, có sự tái lập tỉnh Gia Đònh như thời nhà Nguyễn (có thể nhỏ
hơn) thì trong tỉnh Gia Đònh sẽ có TP.HCM, TP. Sài Gòn (khu vực
930ha), TP. Phú Mỹ Hưng, TP. Đại học và các TP vệ tinh khác,
được đònh danh theo thứ bậc.
Thứ hai là lập vùng đô thò TP.HCM (HoChiMinh Urban Region) với
diện tích là 2.100 km2 (không phải là vùng đại đô thò Đông Nam Bộ

theo Quyết đònh 589. Như thế trong HCM-UR sẽ có các thành phố,
thò trấn theo kiểu thành phố trung tâm, thành phố vệ tinh.
Mô hình vùng đô thò không phải là mới, trong khu vực châu Á có khá
nhiều vùng đô thò, chẳng hạn:
■ Seoul Metropolitan Region (SMR) / Vùng đô thò Seoul
■ Bangkok Capital Region (BCR)/ Vùng đô thò thủ đô Bangkok
■ Jabotabek Metropolitan Region (JMR)/ Vùng đô thò Jakarta và
Botabek
■ Kuala Lumpur Metropolitan Region (KLMR)/ Vùng đô thò Kuala
Lumpur
■ Manila Metropolitan Region (MMR)/ Vùng đô thò Manila
Như vậy, về mặt cấu trúc, vùng đô thò là một phức hợp đa dạng gồm
có thành phố lớn (megacity), các thành phố trung bình (city), các
thành phố, thò trấn nhỏ (town), các tiểu khu ở (neighborhood) và
vùng mềm chuyển tiếp.

TP. Matxcova trong tỉnh Matxcova

50

SË 95+96 . 2018

Trong đó có một thành phố đóng vai trò chính trò chủ đạo và mang
tính biểu tượng, ngoài ra có thể có một số thành phố đối trọng,
thành phố đồng cấp hay các thành phố vệ tinh, xen giữa chúng
là các khu vực đệm sinh thái. Vùng đô thò có thể rất lớn, khi ấy là
sự kết nối giữa các chùm đô thò với nhau tạo nên mạng đô thò (city
net) bằng hệ thống giao thông liên hoàn, đa cấp gồm có đường



cao tốc (super highway), hệ thống giao thông bánh sắt trên cao
(MRT- mass rail transit), hệ thống tàu điện ngầm dưới đất (metro),
hệ thống đường thủy, đường hàng không. Trong trường hợp này
các nhà đô thò học đặt cho chúng với những cái tên mới mà rất khó
tìm được trong từ điển như: liên hợp đô thò (megalopolis); dải đô thò,
chuỗi đô thò (urban string), ngân hà đô thò (urban galaxy), miền/
vùng đại đô thò (mega-urban region/ urban area). Đặc điểm nổi bật
và quan trọng nhất của vùng đô thò là ĐA CỰC (còn gọi là đa hạt
nhân, đa tâm) PHI TẬP TRUNG HÓA.
Mỗi vùng đô thò như vậy, sẽ chứa trong lòng nó rất nhiều các loại
thành phố khác nhau.

Vùng đô thò Jabotabek của Indonesia

Vùng đô thò Seoul, chứa trong lòng nó ngoài thành phố lõi ra còn có
10 thành phố vệ tinh nhỏ hơn

3. Kết luận

TP.HCM đang trong tình trạng bò vượt ngưỡng, toàn bộ hoạt động
chủ yếu tập trung vào khu vực 14 quận nội thành với diện tích
720km2. Việc phát triển đại đô thò đơn tâm đang gây ra hậu quả rất
xấu, do vậy phải giải đô thò bằng cách tổ chức lại không gian đô thò
và hành chính nhằm tạo ra cơ chế cho sự ra đời và phát triển bền
vững các thành phố vệ tinh, hình thành nên hệ thống các đơn vò đô
thò đa cấp trong một tỉnh hay một vùng đô thò.

TÀI LIỆU THAM KHẢO :
1. Ahmad, Ehtisham and Bert Hofman. Indonesia: Decentralization-opportunities
and risks. World Bank, 2000.

2. Bidhya Bowornwathana. Bangkok Metropolitan Administration into the twentyfirst century. 1998.
3. Center for Local and Regional Governance. Local Government in the Philippines:
A book of readings, vol. II. 1998.
4. Chan Kok Eng, “Current and Prospective Urbanization in Malaysia,” Malaysian
Journal of Tropical Geography No15; 1987.PP:1-12.
5. Dự án quốc gia VIE/95/051. Tăng cường năng lực quản lý và qui hoạch đô thò
tại thành phố Hồ Chí Minh.
6. Kỷ yếu hội thảo. Qui hoạch không gian thành phố Hồ Chí Minh: thực trạng và
đònh hướng. 10-2003.
7. Kim ,Anje .Industrialization and Grow Pole Development in Korea Oxford :
Pergamon Press .1978.
8. Kim,Kyung-Whan .Korean Development and Urbanization: Prospects and
Problems .World Development.1988.
9. Rudduck, G ,Town Planning in Kuala Lumpur. Kuala Lumpur: C. Grenier. 1956.
10. Nguyễn Đình Đầu, From Saigon to HoChiMinh City, 300 year history. Science
and Technics Publishing House, 1998.
11. Nguyễn Đình Đầu. 300 năm đòa chính. Sở đòa chính TP.HCM. 1998.
12. Nguyễn Minh Hòa, Vùng đô thò Châu Á và TP.HCM, NXB TP.HCM, 2006.
13. Nguyễn Minh Hoà, Đô thò học- Những vấn đề lý thuyết và thực tiễn. NXB Đại
học Quốc gia TP.HCM, 2012
14. Nguyễn Minh Hoà. Tiềm năng cho kỳ tích sông Sài Gòn. NXB TP.HCM, 2015.
15. Nguyễn Minh Hoà. Urban Governance and Community Participation in Metro
Manila and Ho Chi Minh City. University of the Philippines. 2002.
16. Metropolitan Governance and Planning in Transition: Asia-Pacific Cases.
United Nations Center for Regional Development. Nagoya, Japan.
17. Towards a Humane World-Class Metropolis. (Physical Framework Development
Plan for Metropolitan Manila 1996-2016). Metropolitan Manila Authority, March,
1996.
18. Viện nghiên cứu xã hội TP.HCM. Một số vấn đề về xây dựng chính quyền đô
thò. NXB TP.HCM, 2007.

19. Võ Kim Cương. Quản lý đô thò- Thời Kỳ chuyển đổi.. NXB Xây Dựng. 2004.
20. Viện qui hoạch xây dựng TP. Hồ Chí Minh. Hiện trạng và dự báo phát triển dân
số đến 2025. TP. HCM, 3-2005.
21. Won-Yong Kwon and Kwang-Joong Kim. Urban Management in Seoul. Seoul
Development Institute. 2001.

SË 94+95 . 2018

51



×